Nhà nghiên cứu Nguyễn Đ́nh Đầu: Từ biển Giao Chỉ đến đường “Lưỡi Ḅ”
    Ít  nhất từ đầu thế kỷ XVII Việt Nam đă thi hành chủ quyền trên quần đảo  Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông một cách chính thức, liên tục và không  hề thấy một quốc gia hay dân tộc nào tranh giành. Ngày 14-10-1950, tại  Hội nghị kư ḥa ước San Francisco (Liên Hiệp Quốc), Thủ tướng Trần Văn  Hữu của chính quyền Bảo Đại do Pháp bảo trợ đă tuyên bố: “Chúng tôi xác  nhận chủ quyền đă có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và  Hoàng Sa”
      Bao  năm qua, một luồng quan điểm lớn ở Trung Quốc đă cố t́nh gây ra sự hiểu  nhầm khi lợi dụng tên gọi biển Nam Trung Hoa (do người phương Tây gọi)  để phán rằng biển của Trung Quốc bao chiếm gần như toàn bộ biển Đông.
Thế  nhưng sự thật khoa học cho thấy danh xưng biển Nam Trung Hoa (chỉ biển  Đông) mà Trung Quốc lợi dụng để gây ra sự hiểu nhầm ấy chưa thấy xuất  hiện ở những bản đồ do chính người Trung Quốc vẽ từ hàng trăm năm trước.
Từ  điển Bách khoa Việt Nam giải thích: Giao Chỉ là tên gọi do các triều  đại phong kiến Trung Quốc dùng chỉ người và nước Việt Nam xưa. Thời Hùng  Vương, Giao Chỉ là một trong 15 bộ của nước Văn Lang… Các triều đại  phong kiến Trung Quốc sau này nhiều khi vẫn dùng tên Giao chỉ cũng như  tên An Nam để chỉ quốc gia và nhân dân Đại Việt. Trong nhiều văn bản và  bi kư, tên Giao Chỉ vẫn c̣n chỉ nước ta tới hết thế kỷ XIX.
Người Trung Quốc không gọi biển Đông là biển Nam Trung Hoa
Trên  hai trang 11b và 12a trích từ sưu tập bản đồ Vơ bị chí (ghi lại cuộc  hành tŕnh của Trịnh Ḥa trong thời gian 1405-1433 đi từ Trung Quốc qua  Ấn Độ dương tới Phi Châu) có vẽ nước ta tuy đơn giản nhưng cũng rơ ràng:  Nước Giao Chỉ bắc giáp Khâm Châu Trung Quốc, nam giáp nước Chiêm Thành,  đông giáp biển cả mang tên Giao Chỉ dương, tức biển của nước Giao Chỉ.  Đây là tư liệu của Trung Hoa khắc vẽ về nước ta và biển cả thuộc về nước  ta từ thế kỷ XV.
Năm 1842, tác giả người Trung Hoa - Ngụy Nguyên  xuất bản sách Hải quốc đồ chí mô tả và khắc vẽ bản đồ tất cả các nước  trên thế giới và toàn thể năm châu bốn bể, theo phương pháp khoa học với  kinh tuyến và vĩ tuyến. Trong sách này, Ngụy Nguyên đă vẽ hai bản đồ về  Việt Nam. Trong đó, bản đồ thứ nhất vẽ sơ sài, chia nước ta ra hai phần  (Việt Nam Đông đô và Việt Nam Tây đô). Ở ngoài khơi phía đông hai phần  Việt Nam, Ngụy Nguyên ghi rơ là Đông Dương đại hải, tức biển Đông rất  lớn.

Bản đồ 1, nước Giao Chỉ với Giao Chỉ Dương, trích từ bộ Vơ bị chí. 
(Ảnh chụp lại từ tư liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đ́nh Đầu)
Cũng  trong tác phẩm Hải quốc đồ chí, Ngụy Nguyên c̣n khắc vẽ bản đồ An Nam  quốc với đường nét đúng kinh tuyến và vĩ tuyến rất rộng lớn. Ngoài khơi  nước An Nam có ghi rơ Đông Nam hải, tức là biển Đông Nam.
Rơ  ràng, hầu hết bản đồ Trung Hoa vẽ về Việt Nam từ thế kỷ XV hoặc trước  nữa cho tới đầu thế kỷ XX đều ghi biển cả phía đông Việt Nam là Giao Chỉ  dương hay Đông Dương đại hải hoặc Đông Nam hải, đều có nghĩa là biển  của Giao chỉ (tức Việt Nam) hay đơn giản là biển Đông (của Việt Nam).
Việt Nam thực thi liên tục chủ quyền của ḿnh
Như  chúng ta biết, ít nhất từ đầu thế kỷ XVII Việt Nam đă thi hành chủ  quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa biển Đông một cách  chính thức, liên tục và không hề thấy một quốc gia hay dân tộc nào đến  khiếu nại hay tranh giành. Từ khi chiếm nước ta làm thuộc địa, Pháp đă  nhân danh Việt Nam thi hành chủ quyền ấy đúng công pháp quốc tế. Pháp đă  xây dựng hai trạm khí tượng theo hệ thống quốc tế trên đảo Hoàng Sa và  đảo Ba B́nh trong quần đảo Trường Sa.
Năm 1947, chính phủ Trung  Hoa dân quốc đưa ra yêu sách về chủ quyền biển Đông theo “đường lưỡi ḅ  gồm 11 khúc đứt đoạn”. Năm 1949, chính quyền Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa  cũng yêu cầu tương tự nhưng không quyết liệt, quốc tế coi như làm ngơ.  Ngày 14-10-1950, tại Hội nghị kư ḥa ước San Francisco (Liên Hiệp Quốc),  Thủ tướng Trần Văn Hữu của chính quyền Bảo Đại do Pháp bảo trợ đă tuyên  bố: “Chúng tôi xác nhận chủ quyền đă có từ lâu đời của chúng tôi trên  quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”…

Bản đồ An Nam quốc với biển Đông Nam hải, trích Hải quốc đồ chí (Ảnh chụp lại từ tư liệu của Nhà nghiên cứu Nguyễn Đ́nh Đầu) 
 
Những bước leo thang trên biển Đông
Ngày  15-1-1974, Trung Quốc đem quân đến đánh chiếm các đảo Hoàng Sa. Dưới  thời của nước Cộng ḥa XHCN Việt Nam, Trung Quốc đem thủy quân hùng hậu  đánh chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam (năm 1988).
Ngày  21-2-1992, Trung Quốc ra quy định biển Đông thuộc lănh hải tỉnh Hải  Nam, theo bản đồ với những “đường cắt khúc chín đoạn” chiếm hầu hết biển  Đông, thâu tóm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trung Quốc đă  chính thức tŕnh lên Liên Hiệp Quốc bản đồ “đường lưỡi ḅ” vào năm 2009.  Việt Nam và các nước liên quan đă phản đối sự phi lư, không phù hợp với  luật pháp quốc tế của “đường lưỡi ḅ” này.
Mấy tháng gần đầy,  Trung Quốc ngang nhiên cấm đánh cá trên biển Đông, xâm phạm vào cả vùng  biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Gần đây nhất, Trung Quốc có hành động  ngang ngược là gây hấn với các tàu thăm ḍ dầu khí hay các chương tŕnh  nghiên cứu khác về biển. Những hành vi gây hấn này được Trung Quốc tiến  hành trong phạm vi “đường lưỡi ḅ”, mặc dù đường ranh giới này vi phạm  Công ước quốc tế về Luật Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc.
Phải khẳng  định rằng những hành vi của Trung Quốc là sai trái, vi phạm nghiêm  trọng luật pháp quốc tế, xâm phạm trắng trợn vào vùng đặc quyền kinh tế  của Việt Nam. Việc gọi tên biển Nam Trung Hoa không có nghĩa đó là biển  của Trung Quốc và Trung Quốc có quyền thực thi chủ quyền xâm phạm cả vào  vùng biển của các nước khác được xác lập theo đúng Công ước quốc tế về  luật biển 1982.
Từ biển Giao Chỉ đến “đường lưỡi ḅ”
Các  bản đồ cổ của chính những người Trung Quốc vẽ từ thời xưa đều ghi rơ  Biển Đông là Giao Chỉ Dương, Đông Dương Đại hải hoặc Đông Nam Hải.
Từ  đây, một vấn đề khác đặt ra là: Biển Đông từ tên gọi Giao Chỉ Dương  (thế kỷ XV), v́ sao lại bị người Phương Tây ghi nhầm là biển Nam Trung  Hoa (hay biển Trung Hoa) như hiện nay?
Từ thời thượng cổ đến thế  kỷ XV, người ta tưởng rằng địa cầu chỉ có ba châu lục: châu Âu, châu Á  và châu Phi. Có lẽ khởi đầu là nhà địa lư Ptoléméo (người Hy Lạp) đă vẽ  ra bản đồ thế giới gồm ba châu lục kéo dài từ Nam cực đến Bắc cực và từ  Đông phương sang Tây phương, chiếm phần lớn diện tích địa cầu, diện tích  đại dương không c̣n bao nhiêu. Các nhà địa lư và bản đồ học Tây phương  cứ theo mẫu đó mà hoàn thiện dần.
Nhiều sai nhầm thuở sơ khai
Năm  1492, Christophe Colomb (c̣n gọi là Kha Luân Bố, người Tây Ban Nha) tin  theo bản đồ đương thời, tưởng rằng cho thuyền vượt Đại Tây Dương một  hành tŕnh không xa th́ sẽ tới Ấn Độ. Nên khi tới châu lục tân thế giới  (châu Mỹ), ông tin liền đây là Ấn Độ và gọi thổ dân nơi đây là người Ấn  Độ (indien, Indian). Danh xưng sai nhầm này c̣n tồn tại măi đến nay.
Năm  1497, Vasco de Gama (1469-1524), người Bồ Đào Nha, đă chỉ huy một đội  thương thuyền hùng hậu lần đầu tiên phát kiến đường hàng hải sang Ấn Độ  bằng cách đi ṿng qua Phi châu qua mũi Hảo Vọng rồi ngược lên và rẽ sang  phải theo duyên hải Ấn Độ Dương. Ngày 20-5-1498, đoàn thuyền Vasco de  Gama mới tới ngoài thành Calicút, sau hơn 10 tháng gian nan, lênh đênh  trên biển cả. (1)
Dù sao địa danh Ấn Độ cũng rất tiêu biểu và hấp  dẫn dưới thời cổ đại và trung cổ: Kha Luân Bố theo hướng tây đi t́m,  hóa ra phát kiến châu Mỹ và Vasco de Gama theo hướng đông đi t́m, phát  kiến cả phần Đông Á văn minh từ ngàn xưa và cư dân đông đúc nhất thiên  hạ.

Bản  đồ thế giới (cụm lục địa) do Henricus Matellus Germanus vẽ năm 1489.  
 (Ảnh chụp lại từ tư liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đ́nh Đầu) Ảnh: MINH  CƯỜNG

Bản  đồ bán đảo Ấn Độ bên ngoài sông Hằng (do Vô Danh vẽ) thế kỷ XVII, in  tại Amsterdam, ghi chú bằng Pháp ngữ. 
(Ảnh chụp lại từ tư liệu của nhà  nghiên cứu Nguyễn Đ́nh Đầu) Ảnh:MINH CƯỜNG 
Vào thế kỷ XVI,  các nhà hàng hải Bồ Đào Nha theo đường biển đi lên phía bắc qua duyên  hải Việt Nam thăm ḍ Trung Hoa rồi Nhật. Họ chiếm lănh Macau của Trung  Hoa và đặt thương điếm lớn nhất tại đó năm 1557. Đến đâu họ cũng điều  tra kinh tế và vẽ bản đồ theo khoa học cho đúng kinh độ và vĩ độ (2).
Bản  đồ bán đảo Đông Dương được vẽ đúng với thực tế để đính chính lại phần  Đông Nam Á đă vẽ theo tưởng tượng sai nhầm ở các bản đồ phổ biến trước  đó suốt nhiều năm. (Xin so sánh phần địa lư ấy của hai bản đồ đính kèm).  Bán đảo này được gọi là bán đảo Ấn Độ ở bên ngoài sông Hằng (Presqu’ile  de l’Inde delà le Gange). V́ thế hầu hết bản đồ Tây phương suốt ba thế  kỷ XVI, XVII, XVIII đều ghi địa danh phần này là Đông Ấn Độ (India  Orientalis). Tất nhiên không có chỗ nào ghi là biển Trung Hoa (Mer de  Chine).
Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam
Cũng  vào thời ấy, giữa bờ biển nước ta và quần đảo Paracel (gồm cả Hoàng Sa  và Trường Sa), các bản đồ thường ghi là vịnh Giao Chỉ gần Trung Hoa  (Golfe de la Cochinchine). Địa danh Cochinchine nguyên là tên hai nước  Giao Chỉ (Cochin) và nước Tần (Chine), viết theo Hán tự. Người Tây  phương đọc âm hơi khác rồi ghi bằng chữ latin: Giao Chỉ (tức Việt Nam)  thành Cauchy, Cochi, Cochin; c̣n Tần thành ghi là T’sin, Cin, Chine hay  China. Nước Cochin (Giao Chỉ) trùng tên một thị trấn Cochin ở Ấn Độ nên  người Bồ Đào Nha ghi CochinChina (Giao Chỉ gần nước Tần-China) cho dễ  phân biệt. Cochin là chủ từ, China là túc từ. China thành tên nước Trung  Hoa.
Từ năm 1525, nhà hàng hải Bồ Đào Nha Diogo Ribeiro đă phát  hiện quần đảo Pracel rất lớn (gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa) nằm ở giữa  biển Đông. Ông xác định quần đảo này thuộc chủ quyền Cochin (Giao Chỉ)  nên ghi bờ biển Pracel (Costa da Pracel) ở duyên hải Quảng Ngăi ngày nay  (3).
Đến thế kỷ XIX, người ta mới thấy rơ khối quần đảo Paracel  (là những ḥn đảo nhỏ nằm rải rác từ Bắc xuống Nam. Ở Bắc gọi là quần  đảo Paracel (Hoàng Sa), ở Nam gọi là quần đảo Spratly (Trường Sa). Biển  Đông bao quanh quần đảo ấy không c̣n là biển Cochinchina mà ghi sai nhầm  là biển China (China Sea, tức lấy túc từ mà bỏ chủ từ). Đến thế kỷ XX,  địa danh biển Trung Hoa trở thành phổ biến.
Có lẽ phần nào từ sự  sai nhầm ấy mà Trung Quốc khẳng định biển Giao Chỉ hay biển Đông là biển  của ḿnh kể cả các quần đảo trong biển ấy nữa. Giữa thế kỷ XX, Trung  Hoa Dân Quốc (chính quyền Tưởng Giới Thạch) đă đưa ra “đường lưỡi ḅ” để  đ̣i quyền làm chủ 80% biển Đông. Rồi sau đó là đến Cộng ḥa Nhân dân  Trung Hoa kéo dài sự hiểu nhầm này, gần nhất là vào năm 2009, họ đă tiếp  tục tŕnh lên Liên Hiệp Quốc phần lănh hải của ḿnh với đường chữ U vô  lư, không phù hợp với luật pháp quốc tế. Sự ghi nhầm địa danh gây ra  thật nhiều tai hại và sẽ c̣n phức tạp hơn nếu sự hiểu nhầm ấy c̣n kéo  dài nữa.
Nhà nghiên cứu NGUYỄN Đ̀NH ĐẦU
(1), (2), (3), P.Y Manguin, Les Potugais sur les côtes du VietNam et du Campa, BEFEO, Paris, 1972 (lần lượt, trang 28, 39, 47)