Từ cao nguyên bắt đầu vàng rực dã quỳ,  tôi về miền tây giữa mùa nước  nổi. Và trời ạ, vẫn là một màu vàng tít  tắp ấy giữa bạc trắng nước.  Điên điển đấy. Nghe nhiều về cái thứ hoa  giống như hoa điền thanh ở miền  bắc dạo nào nhưng không phải điền  thanh, hình như cũng không dây mơ rễ  má gì nữa. Với người miền tây,  bông điên điển thân thuộc như rau muống  của người bắc, rau má của người  xứ thanh..
 		     Điên điển là một loại cây hoang tự nhiên. Những lưu dân nam bộ  mở  cõi đã rất giỏi khi biến tất cả những thứ cây lá gì mình gặp trên  đường  nam tiến thành thức ăn dân dã mà giờ đang trở thành đặc sản. 
  
 Tôi đã từng nhậu trên thuyền, con thuyền cứ trôi liu riu thế, trên  ấy  là một cái lẩu, và người nhậu cứ thò tay ra mạn thuyền hái những thứ  lá  xùm xòa xung quanh ấy, cũng chả cần rửa vì nó khá sạch, cứ thế nhúng   vào lẩu, mà ngọt mà ngon mà đầy dư vị, cảm xúc... những là lá xoài,   cách, kèo nèo, bông súng, đọt súng, rau đắng, rau ngổ, lá tai tượng, rau   má, rau dừa, bông bí, bông so đũa, lục bình, rau muống, rau nhút, cần   nước, rau đắng đất, cải xanh, đậu rồng, càng cua, hẹ, đọt chùm ruột,...   và bông điên điển.
 
Nhưng mà bây giờ để kiếm được một bữa điên điển đúng ý cũng  không dễ  dàng lắm. Nhà văn Hữu Nhân, thư ký tòa soạn tạp chí văn nghệ  Đồng Tháp  chở tôi trong một ngày qua 5 huyện, trưa ấy ghé quán "Bên  sông" thuộc  huyện Tam Nông, anh đãi tôi chỉ nguyên bông điên điển. Ấy là  điên điển  xào tôm, điên điển ăn sống với cá linh kho ngót, và điên điển  nhúng vào  lẩu cá kèo. Ăn bằng tâm thế khám phá, tôi đã đi từ ngạc nhiên  này sang  ngạc nhiên khác trong một tâm cảm xúc động và rưng rưng.
  
 Cái gọi là tôm ở Nam Bộ nó khác hẳn ở ngoài bắc và ngoài trung. Tôm   phải là thứ giống tép nhưng to cỡ ngón chân cái người lớn trở lên, còn   dưới đấy là... tép hết. Chao ơi là cái giống tôm đồng bằng, vỏ mỏng thịt   ngọt lừ, cắn miếng nào biết miếng ấy, nó được bông điên điển phả vị  phả  sắc vào, chả biết cái nào ngon hơn cái nào, chỉ biết cuối cùng thì  đĩa  điên điển xào tôm chỉ còn sót lại... tôm, những con tôm to kềnh...
  
 Mùa này cá linh đã lớn. Nó như cá mương cá mán, như đòng đong cân  cấn,  như cá mại mại, nhưng lại không phải. Đến mùa, cá linh đi đặc sông.   Người ta chỉ ăn cá linh khi còn nhỏ. To hơn cỡ ngón tay bị chê là...   xương. Nhiều ăn tươi không hết thì làm mắm. 
  
 Món đơn giản nhất là kho ngót với thơm hoặc nước dừa. Thì nó đơn  giản  vô cùng, rửa sạch đi, cho vào nồi, cho ít muối thôi, ngót là không  mặn,  là ngọt nữa. Cho thơm thái mỏng vào, nước sôi lúp xúp thì bắc ra,  nóng  thế, gắp bông điên điển vào bát, lấy thìa múc cá linh vào, nhớ cả  nước  cả cái, rồi và ăn như ăn ghém. Cha mẹ ơi, con tì con vị nó thức dậy   hết. 
  
 Cái ngọt của cá linh, cái tươi của bông điên điển, thoảng một vị  ngân  ngấn đắng của lòng cá và của cả nhụy bông điên điển, ta hít hà cái   hương vị đồng bằng lênh loang ngay trong cái bát vàng ươm điên điển kia   rồi mà cảm khái chiêu ngay một ngụm rượu, ngậm mà nghe cái nồng nàn cái   dư ba của nước của trời phương nam.
  
 Cá kèo là một loại đặc sản phương Nam. Giờ nó đã được bày bán ở  khắp  nước, nhưng phải vào chính nơi nó bơi nó lội, nó bầy đàn lúc nhúc  ấy,  nó quẫy sôi ùng ục ấy, vớt lên từng vợt, khéo léo đổ nó vào cái lẩu   đang sùng sục sôi, phải thật khéo bởi cá kèo rất khỏe và đương nhiên   nước sẽ bắn vào mình. 
  
 Cá kèo tươi, ngọt lừ và thấm tháp, cắn ngang một nhát, nghe vị nó  ngấm  vào chân răng rồi lừ lừ trôi xuống cổ, xuống dạ dày mà vẫn còn như   nghe cá đang tê tê giãy... Khác với cá linh, cá kèo hiện nay cũng đã   được nuôi để bổ sung cho nguồn cá tự nhiên đang cạn kiệt. 
  
 Cái lẩu cá kèo ấy, nhúng bông điên điển vào, thôi chả cần tả, bởi  cho  dẫu có "thần bút" đi nữa, chắc gì đã viết nổi cái tuyệt vời của cái  món  đã từng dân dã nhưng giờ đã được nâng lên hạng thặng thừa, trở thành   món đinh trong các nhà hàng lớn ở thành phố...
  
 Điên điển dại thường quắt queo khô héo vào mùa khô, nhưng đến mùa  mưa  thì như có một phép màu, nó cứ bừng lên cái sức sống hoang dã man  dại  như dã quỳ Tây Nguyên, lan nhanh theo con nước, rồi bung hoa, rờm  rợp  lắt lay trên nước trên bùn. Nhưng hiện nay người ta phải trồng điên   điển để bán, bởi để trị thủy, nhiều con đê bao đã được dựng lên và nó vô   tình ngăn sự phát tán của điên điển dại. 
  
 Ở xa nghe nói lũ là ngại, thấy lũ lại thương dân vất vả chống lũ,   nhưng, nếu không có lũ còn vất vả hơn. Lũ ở vùng châu thổ sông Cửu Long   nó không đơn giản chỉ là lũ như ở miền bắc, miền trung. Lũ về mang theo   no ấm. 
  
 Ông Võ Văn Kiệt bằng sự am hiểu sâu sắc về vùng này đã đưa ra một  chủ  trương rất hay là sống chung với lũ. Có tờ báo mới giật tít "Lũ đẹp"   cũng bị vài người phản ứng. Họ không biết rằng, lũ chính là nguồn sống   của cả cư dân miệt sông nước này. Nó mang phù sa mùa màng về, mang tôm   cá về, làm nên một nền văn hóa đồng bằng. 
  
 Năm ngoái chúng tôi lại xuống Long An, giữa mùa lũ mà đồng nứt nẻ,  dân  ngơ ngác hoang mang đợi lũ. Bởi nếu không có lũ, nước kiệt đi thì  toàn  bộ vùng này thiếu nước ngọt nghiêm trọng, phèn nổi lên rất nhiều và   đậm, nước chỉ còn đọng ở các lung, trấp, đìa, bàu... không dùng được,   cây cỏ khô rụi, di chuyển chủ yếu là đi bộ hoặc xe trâu, toàn bộ đời   sống sẽ ngưng trệ.
  
 Lũ tồn tại song song với người miền Tây như con lộ nào cũng song  song  một con kinh bên cạnh, làm nên một đặc trưng đồng bằng Nam Bộ.  Người ta  đào kênh (kinh) để thông thương, để lấy nước, chỉ huy nước, lấy  đất ấy  đắp đường (lộ), cứ chằng chịt như thế, những con kinh huyết mạch  nối  những cù lao, những giồng... thành một đồng bằng rộng lớn và đầy  bản  sắc. 
  
 Có điều hết điên điển dại, cũng chấm dứt cái cảnh rất lãng mạn cô  thôn  nữ đồng bằng chèo xuồng hái bông điên điển giữa mùa lũ, cái dáng  nhỏ  nhoi phơ phất khăn rằn như một điểm xuyết giữa miên man màu vàng  điên  điển nó mới gợi mới xốn xang làm sao?...
  
 Bông điên điển còn được người miền Tây chế biến ra nhiều món hấp  dẫn  nữa, như làm nhân bánh xèo, canh cua, canh cá rô... và ở "địa hạt"  nào  nó cũng đều phát huy tác dụng, đều tỏa hết vị hết sắc của mình làm  tươi  lên, rạng lên, nồng nã lên cái độc đáo dân dã của nó, để ai đó, một   lần về miền tây mùa lũ, khi đi vẫn mang mang cái mong manh mà rợn ngợp   của màu vàng điên điển...
 
              		    
Theo VĂN CÔNG HÙNG (Lâm Đồng Online)