Người làng Xuân Đỗ (phường Cự Khối, quận Long Biên, Hà Nội) từ nhiều năm nay vẫn truyền tai nhau những câu chuyện lạ lùng về ngôi đ́nh làng “nổi tiếng thiêng nhất vùng”. Nhiều vụ trộm đă xảy ra tại đây nhưng kỳ lạ thay, cứ vài bữa sau khi mất th́ đồ bị trộm thế nào cũng được những đối tượng hành nghề “hai ngón” trả lại v́ sợ hăi.
Lạ lùng “kiệu bay”
Sử làng c̣n chép, cách đây đă 2.000 năm, thưở xưa làng Xuân Đỗ có sáu giáp nhỏ heo hắt nằm dọc bờ sông Hồng. Năm ấy có vị tướng giỏi của Hai Bà Trưng là Đào Khỏa Ba Sơn (SN 27 sau công nguyên) chỉ huy 500 binh sĩ trên đường tiến đánh thành Luy Lâu (tỉnh Hà Bắc cũ nay là tỉnh Bắc Ninh) đă dừng chân nghỉ lại bên miếu thờ công chúa con gái Lạc Long Quân) Đêm đó, điềm lạ đă đến khi công chúa hiển linh báo mộng với vị tướng rằng: “Nếu đánh thắng quân giặc th́ sẽ cùng cho về trời”. Sớm ngày hôm sau, vị tướng tài xuất quân đầy khí thế và chẳng mấy chốc thành giặc đă “tan tành xác pháo”.
Nhớ lời báo mộng của công chúa đêm hôm trước, vị tướng lệnh lui quân về bên miếu báo tin vui cho dân làng và mở tiệc khao quân tại một cánh đồng. Liền đêm hôm đó, trước sự chứng kiến của mọi người, vị tướng từ từ biến thành đám mây màu hồng thác lên trời. Từ đó cánh đồng xưa có tên gọi là “vườn hồng”, c̣n nhớ ơn công lao vị tướng tài đă có công diệt giặc, dân làng đă xây đ́nh Xuân Đỗ, tôn ngài làm Thành hoàng làng.
Hàng ngàn năm, ngôi đ́nh thờ vị tướng năm nào vẫn sừng sững dù đă trải qua bao thăng trầm biến cố. Ghé chân quán ven đường trước cửa đ́nh, người phụ nữ bán quán không chút ngần ngại khẳng định chắc chắn: "Đă 50 tuổi đời, cũng đi nhiều nơi nhưng tôi không thấy đâu có ngôi đ́nh thiêng như làng tôi". Trước tiên, chị chứng minh sự linh thiêng của đ́nh bằng dẫn chứng “kiệu bay” trong hội làng mùng 9-10/2 âm lịch hằng năm.
Theo sự mô tả của người phụ nữ này, chiếc kiệu bát cống nặng cả ngàn cân, thế mà chỉ cần "ngài" nhập vào th́ sẽ nhẹ chẳng khác như kiệu giấy, bốn thanh niên lúc đó chân tay cứ dẻo như kẹo, “múa may xoay tít như ngựa phi trên đường làng”. “Khối lần cả người cả kiệu xoay xuống ao đ́nh; thế nhưng dù trời lạnh cắt da cắt thịt, nước ngập tới cổ mà bỗng chốc cả người cả kiệu lại nhảy phốc từ dưới ao qua bức tường bao cao cả hai mét lên đường mà không ai hề hấn ǵ, cũng không đồ cúng lễ nào rơi văi”, chị cho biết.
Ngôi đ́nh “không thể bị mất trộm”.
Người dân trong làng cho biết, sợ nhất là ai trong đoàn lễ vô t́nh hoặc cố ư báng bổ sẽ cũng đều bị “thánh vật”, bị "ngài hành” làm chiếc kiệu bỗng nặng cả ngàn cân, trĩu người không lê chân được trong khi người bên cạnh th́ vẫn… chạy như bay.
Kiểm chứng câu chuyện, chúng tôi t́m gặp ông Nguyễn Khắc Chứ (60 tuổi, Trưởng tiểu ban quản lư di tích đ́nh) th́ cũng được khẳng định “đó là câu chuyện thật”. Ông Chứ cho biết, từ xưa tục làng đă vậy, mỗi năm một lần trước ngày hội 10 ngày, làng sẽ lựa chọn những thanh niên ưu tú để tham gia rước kiệu "ngài". Trong thời gian này, tất cả những người rước kiệu đều không được ăn tỏi, hành, đồ ăn mặn và tuyệt nhiên kiêng kị chuyện "t́nh cảm".
Ngôi đ́nh “bất khả xâm phạm”
Thế nhưng những câu chuyện đặc sắc nhất về ngôi đ́nh, theo ông Chứ phải là chuyện những món đồ tại đây không thể bị mất, dù tương đối quư hiếm và đ́nh cũng không canh pḥng cẩn mật.
Thời xưa, đ́nh làng có đôi quạt ngà một không ai rất quư giá, được xem là “bảo vật” của cả làng nhưng không may một lần đạo chích viếng thăm đă cuỗm đi khiến cả dân làng tiếc ngẩn ngơ. Bẵng đi một thời gian, tự dưng người từ một ngôi chùa cách làng 5-6 cây số bắn tin về báo đến nhận lại đôi quạt ngà của đ́nh làng đang thất lạc ở đó. Tin lạ loang nhanh cả làng, các cụ bô lăo liền tất tưởi tới xem th́ được sư thầy ở chùa đó cho biết có người tự dưng mang đôi quạt ngà đến để ở chùa nhờ trả hộ.
Rồi vào những năm 1970, trong một lần tu sửa đ́nh có một kẻ gian tự mang nộp chiếc đỉnh đồng mà hắn đă ăn trộm trước đó. Ông Chứ cười khà: "Tôi đoán chắc do kẻ gian đă lấy trộm nhưng rồi rốt cuộc cũng gặp không ít những chuyện chẳng lành nên sợ quá mà đem trả lại thôi. Thành làng tôi “thiêng” lắm, không để kẻ gian toại ư đâu".
Rồi lần mất trộm gần đây nhất cách đây 3 năm, ông Chứ vẫn nhớ buổi sáng hôm đó khi cụ từ trông đ́nh mở cửa đền thờ th́ phát hiện toàn bộ đồ đồng gồm đỉnh đồng, chuông, khánh... “không cánh mà bay”. Tin động trời ấy chẳng chốc loang khắp cả làng xóm, ai cũng hoang mang nhưng rồi lại một lần nữa chuyện đồ đạc bị mất “tự nhiên quay lại” lại xảy ra: Gần một năm sau cụ từ bỗng phát hiện một bao tải lạ được đặt ngay ngắn ở sân đ́nh. Gọi các cụ trong làng đến xem th́ quả thực toàn bộ đồ lễ đă mất nay được trả lại đầy đủ trước sự vui mừng khôn tả của cả làng. Ông Chứ tự hào: “Trong đ́nh cũng c̣n rất nhiều vật dụng quư giá, thậm chí có cả dát vàng nhưng mảy may chẳng kẻ trộm nào đủ gan để lấy đi”.
Theo dân làng, "ngài hiển linh” c̣n… xua đuổi được quân thù. Những năm giặc Pháp xâm lược, một ngày cuối năm 1946 một nhóm giặc Pháp kéo đến chiếm đóng trong đ́nh bất chấp sự phản đối của dân làng. Đêm hôm đó, trong đ́nh không biết đă xảy ra điều lạ ǵ người trong làng chỉ thấy đám lính cứ nhộn nhạo, kẻ th́ la hét, người ngă méo xẹo mồm miệng, đến sáng hôm sau ra th́ đă thấy chúng cuốn xéo đi hết không c̣n một tên. Thấy vậy, người trong làng khấp khởi mừng đồn đại ““ngài” đă hiển linh đuổi lũ giặc bảo vệ dân làng”.
Nói về sự lạ của đ́nh làng, ông Chứ cũng không thể nhớ hết có bao nhiêu chuyện nữa. Mới đây, chẳng hiểu sao có cháu bé người làng khác đến chơi, xuống ao trước đ́nh nghịch ngợm rồi không hiểu sao thằng bé khốn khổ cứ nổi bồng bềnh ở giữa ao không tài nào bơi được vào bờ. Hoảng quá, người nhà cháu bé đến phải vào đ́nh làm lễ vái van xin th́ đứa bé mới bơi vào bờ được. C̣n có những chuyện cách đây ít năm, có người trong làng trèo cây doi trong đ́nh hái quả không may làm găy cành, thế là người cứ dính tịt trên cây không thể xuống được, người nhà lại phải vào đ́nh vái xin "ngài" tha cho.
Kể là vậy, nhưng ông Chứ cười x̣a cho biết thêm: “Thánh thiêng” là vậy nhưng từ trước đến nay cũng không hành ai đến mức thập tử nhất sinh bao giờ, biết mà vào xin khấn tội th́ ngài ắt sẽ xá cho".
Điều lạ là dù những câu chuyện nhuốm màu tâm linh ly kỳ đến mấy th́ từ hàng trăm năm nay, không ai bảo ai người làng Xuân Đỗ cứ truyền từ đời này sang đời khác. Dân làng Xuân Đỗ vẫn tin đó là chuyện có thực, người ta cho rằng những câu chuyện đó trước tiên để thể hiện ḷng tôn kính với thành hoàng, sau nữ để cảm hóa, giáo dục con cháu phải biết thờ tụng tôn kính những bậc cha ông ngày xưa đă dựng làng giữ nước để con cháu có những miền quê b́nh yên, trù phú như ngày nay.
Theo Pháp luật & Thời đại