Từ đường mòn Tân Hòa đến con phố mang tên Bùi Viện
Theo một số tài liệu, cái tên Bùi Viện đã chính thức gắn với con đường ở quận 1 Sài Gòn từ ngày 6/10/1955. Trước đó, dưới thời Bảo Đại, con đường này mang tên Bảo Hộ Thoại, xa xưa hơn nữa chỉ là một lối mòn của ngôi làng Tân Hòa. Bản thân tên gọi “phố Tây Bùi Viện” lại không phải do triều đình hay chính quyền đặt, mà là sản phẩm của đời sống dân gian, của thói quen gọi tên theo ký ức và trải nghiệm của người Sài Gòn.
Vì sao Bùi Viện trở thành “phố Tây” náo nhiệt?
Sau năm 1975, khu vực này dần thu hút nhiều người nước ngoài đến sinh sống và làm ăn, đặc biệt là người Mỹ và khách nói tiếng Anh. Những quán nhậu, bar, khách sạn mini, travel agency mọc lên san sát, bảng hiệu đủ thứ ngôn ngữ. Lâu dần, người Sài Gòn quen miệng gọi đây là “phố Tây Bùi Viện” – một con phố đa văn hóa, đa sắc tộc, nơi balô, dép lê và ly bia lạnh gặp nhau trên cùng một vỉa hè. Với mật độ người qua lại ngày càng đông, chính quyền TP.HCM quyết định biến Bùi Viện thành phố đi bộ vào cuối tuần từ ngày 20/8/2017. Mỗi tối thứ bảy, chủ nhật, từ 19 giờ đến 2 giờ sáng, con đường này được “nhường chỗ” cho người đi bộ, cho tiếng nhạc, tiếng cười, cho dòng người trẻ Sài Gòn và du khách nườm nượp đổ về vui chơi, giải trí. Ngày nay, nếu có dịp ghé Sài Gòn, nhiều người coi việc dạo một vòng Bùi Viện, ngồi bên vỉa hè uống bia, nghe nhạc, ngắm phố xá như một “thủ tục” không thể thiếu để cảm nhận nhịp sống náo nhiệt của thành phố này. Ít ai chợt nghĩ: tên con phố ồn ào ấy lại là tên của một nhà canh tân, nhà ngoại giao từng dọc đất ngang trời vì vận mệnh quốc gia.
Bùi Viện – từ làng Trình Phố đến hoài bão kinh bang tế thế
Bùi Viện (1839–1878), hiệu Mạnh Dực, sinh ra tại làng Trình Phố, tổng An Bồi, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định xưa (nay là thôn Trình Nhì, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình), trong một gia đình nhà nho kiêm nghề bốc thuốc. Ông đỗ Tú tài năm Giáp Tý 1864, đỗ Cử nhân năm Mậu Thìn 1868 nhưng không đỗ Tiến sĩ. Dù không leo hết nấc thang khoa bảng, Bùi Viện lại được đánh giá là một trong những nhà canh tân lỗi lạc của Việt Nam cuối thế kỷ XIX – vừa là nhà ngoại giao, vừa là nhà tổ chức kinh tế, quân sự gắn chặt với thực tiễn. Khi sáu tỉnh Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn rơi vào thế bị dồn ép. Tháng 7 năm 1873, vua Tự Đức cử Bùi Viện ra nước ngoài tìm hiểu tình hình, với hy vọng có thể dựa vào một cường quốc khác để làm đối trọng, giảm bớt áp lực từ Pháp đang ráo riết mưu chiếm nốt Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Khác với nhiều nhà nho đương thời vẫn quay sang phương Đông tìm chỗ dựa, Bùi Viện lại nhìn về phía bên kia Thái Bình Dương, nơi Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đang lên như một thế lực mới.
Hai chuyến “vạn lý độc hành” tới Hoa Kỳ
Năm 32 tuổi, nhờ sự giúp đỡ của viên lãnh sự Mỹ gặp tại Hương Cảng, cùng một lá thư giới thiệu gửi cho người bạn thân cận với Tổng thống Mỹ, Bùi Viện bắt đầu chuyến hành trình vượt biển: từ Hồng Kông sang Nhật, rồi từ đó vượt Thái Bình Dương sang Hoa Kỳ. Sau gần một năm kiên trì vận động, ông được Tổng thống Ulysses Simpson Grant tiếp kiến. Trong bối cảnh Mỹ và Pháp đang cạnh tranh ảnh hưởng tại Mexico, phía Mỹ tỏ ra sẵn sàng lắng nghe và bày tỏ thiện chí giúp đỡ một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Nhưng chuyến đi đầu tiên ấy vướng một trở ngại chí tử: Bùi Viện không mang theo quốc thư chính thức, nên hai bên không thể ký kết bất kỳ cam kết pháp lý nào. Ông đành quay lại kinh đô Huế, thuyết phục vua Tự Đức. Năm 1875, Tự Đức phong ông làm Khâm sai đại thần, cầm đầu đoàn sứ bộ mang quốc thư trở lại Hoa Kỳ. Lần này, Tổng thống Grant vẫn tiếp đón trọng thị, nhưng thời thế đã đổi: Hoa Kỳ thay đổi chính sách, không còn mặn mà can dự sâu vào cuộc đối đầu với Pháp ở Đông Dương. Bùi Viện tay không trở về, mang theo một cơ hội đã vuột mất cho đất nước.
Nhà canh tân: hải quân, thương chính và cửa biển Hải Phòng
Trở về nước, Bùi Viện không chôn vùi hoài bão canh tân trong thất vọng. Ông trình lên vua Tự Đức nhiều đề xuất cải cách táo bạo, đến mức cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến phải thốt lên: Bùi Viện đã “Làm việc chửa ai từng làm. Dọc đất ngang trời trơ trí lớn”. Trong khi các bản điều trần của Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Trần Đình Túc, Đinh Văn Điền… lần lượt bị gạt sang một bên, thì một số đề nghị của Bùi Viện – tuy không mang tính hệ thống toàn diện – lại được chấp thuận vì gắn rất sát với nhu cầu sinh tử của đất nước lúc bấy giờ. Về quân sự, tháng 8 năm 1876, vua Tự Đức giao cho ông tổ chức Nhu tuần tải và cử ông làm Chánh quản đốc trực tiếp phụ trách. Từ lực lượng dân chài am hiểu sông biển, ông xây dựng Tuần dương quân – một thứ hải quân thường trực sơ khai, vừa phòng vệ vùng biển, vừa bảo vệ thuyền buôn trước nạn hải tặc. Về kinh tế, Bùi Viện được trao chức Tham biện thương chính, đề nghị triều đình gấp rút đào sông, vét ngòi, mở đường thủy, xây dựng hải cảng và bến sông. Ông nhấn mạnh: muốn buôn bán phải có giao thông tốt và một lực lượng thủy quân đủ mạnh để bảo vệ, từ đó mới nuôi dưỡng được một nền kinh tế biển. Từ tầm nhìn ấy, ông lập ra Chiêu dương thương cục – một công ty buôn lớn phụ trách giao thương Việt – Trung, xuất khẩu nông thổ sản, nhập về gốm sứ, tơ lụa, hàng hóa thiết yếu. Ông cũng là người đặt nền móng cho cửa biển Hải Phòng – bến Ninh Hải thuở đó – mở ra một cửa ngõ thương mại quan trọng với bên ngoài.
Một cái tên, hai thế giới: Bùi Viện của quá khứ và Bùi Viện của hôm nay
Có thể nói vào thời điểm ngắn ngủi trước khi qua đời, Bùi Viện được xem là một nhà kinh bang tế thế đúng nghĩa: góp công hình thành cảng Hải Phòng, lập Tuần dương quân, xây dựng hệ thống thương điếm dọc các tỉnh ven biển, đưa tư tưởng kinh tế biển vào chính sách triều Nguyễn. Ông mất khi tuổi đời còn trẻ, nhưng triều đình và dân chúng đều thương tiếc. Hơn một thế kỷ sau, tên ông được đặt cho một con đường nhỏ ở Sài Gòn, rồi trở thành “phố Tây Bùi Viện” – nơi khách du lịch nâng ly, giới trẻ “quẩy” xuyên đêm giữa ánh đèn neon và tiếng nhạc xập xình. Giữa những tiếng cười ồn ào ấy, ít ai nhớ trên tấm biển xanh nhỏ nơi đầu đường là tên của một người từng vượt nửa vòng trái đất, hai lần đứng trước Tổng thống Mỹ để tìm một con đường sống cho Đại Nam; là người đã nghĩ tới hải quân, thương cảng, giao thông đường thủy khi phần lớn triều thần vẫn loay hoay trong những khuôn phép cũ. Điều đó không có nghĩa là phố Tây phải trở nên nghiêm trang hay “đóng cửa vui chơi”, nhưng có lẽ đâu đó, giữa những quán bar và hostel, chúng ta cũng nên nhớ rằng đằng sau cái tên Bùi Viện là một bóng dáng canh tân, một trí tuệ đã sớm nhìn ra biển lớn – trước cả khi đất nước kịp bước ra khỏi lũy tre làng.