Mùa Đông Surrey và tấm bảng “The White House”
Mùa Đông năm 1976, chúng tôi bay từ Washington, DC sang London để thăm ông bà cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trước đó, chúng tôi đã viết thư báo giờ giấc, chuyến bay, và chỉ được ông trả lời vỏn vẹn một câu: “Sẽ có người ra đón.” Tưởng sẽ là ai đó trong toán tùy tùng, ai dè vừa bước ra cửa phi trường Heathrow đã thấy chính ông đứng đó, tay vẫy, mặt cười hiền. Cảm giác lúc ấy thật khó tả: hơn một năm sau bao biến cố, bỗng gặp lại người từng ngồi ghế nguyên thủ ở một góc phi trường lạnh buốt xứ người.

Ông tự tay lái xe đưa chúng tôi về căn nhà nhỏ xinh ở vùng Surrey, ngoại ô London. Trên cửa treo một tấm bảng với mấy chữ khá lớn: “The White House.” Chúng tôi ghé tai hỏi nhỏ: “Bảng này tổng thống cho treo à?” Ông cười, bảo: “Bên này villa người ta hay đặt tên cho dễ nhận, bảng này chủ cũ để lại.” Tự tay ông xách va-li cho khách, đưa lên phòng trên lầu hai, cúi xuống vặn hộp sưởi cho ấm rồi dặn dò như một người anh trong nhà: nếu lạnh quá thì cứ bật thêm cái hộp sưởi thứ hai. Chiều hôm ấy ông khuyên nên đi ngủ sớm cho lại sức sau chuyến bay dài, sáng hôm sau “thủng thẳng dậy lúc nào cũng được.”
Phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh – người đàn bà đứng phía sau
Sáng hôm sau, từ trên lầu bước xuống, chúng tôi thấy ông đang ngồi đọc báo, gương mặt đã bớt đi cái căng thẳng của những bữa điểm tâm trong Tháng Ba, Tháng Tư năm 1975. Chỉ hơn một năm mà trông ông già đi thấy rõ, nhưng phong độ vẫn chững chạc, dáng ngồi vẫn đường bệ của một nguyên thủ. Còn bà thì gần như không đổi: vẫn trẻ trung, dịu dàng, nồng ấm.
Trong khi ông xem báo, bà loay hoay trong bếp. Chỉ ít phút sau, trên bàn đã bày sẵn hai tô hủ tiếu đúng hương vị miền Nam, thơm nức mùi Mỹ Tho, thêm ly cà phê đậm đà. Bà Thiệu vốn là người Mỹ Tho, mà hủ tiếu Mỹ Tho thì ngon có tiếng. Bà mời chúng tôi lại ăn cho nóng. Hỏi sao bà không ngồi cùng cho vui, bà chỉ mỉm cười: “Tôi ăn rồi, để cho hai ông dễ nói chuyện.”

Câu nói tưởng như chuyện thường ngày nhưng lại phản chiếu rất rõ nếp sống của bà trong suốt mười năm ông làm tổng thống. Bà luôn đứng lùi ra phía sau, xa chính trị, không can dự chuyện triều chính, chỉ lo gia đình và những công tác xã hội. Trong những năm chúng tôi làm việc ở Dinh Độc Lập, rất ít khi thấy bà xuất hiện, ngay cả khi tổng thống tiếp khách ngoại giao. Hình ảnh phu nhân tổng thống ở đây không phải là một “Đệ nhất phu nhân quyền lực” mà là một người phụ nữ miền Tây hiền lành, chọn đứng ngoài ánh đèn chính trị, lặng lẽ làm điểm tựa phía sau.
Bệnh viện Vì Dân – món quà cho người nghèo
Ngồi với chúng tôi trong căn nhà nhỏ ở Surrey, điều bà nói nhiều nhất không phải là chuyện quyền lực, không phải những buổi quốc yến hay quốc khách, mà lại là Bệnh viện Vì Dân. Bà kể, ý tưởng xây một nhà thương bắt đầu từ những lần vào Chợ Rẫy thăm bệnh nhân. Có hôm thấy hai người phải chen chúc trên một giường nhỏ, bà mủi lòng đến ám ảnh. Từ đó, bà bắt đầu vận động xây một bệnh viện đàng hoàng, như một bước đầu để cải thiện nền y tế cho người nghèo.

Bệnh viện Vì Dân được xây theo tiêu chuẩn quốc tế, có 400 giường bệnh, trang bị hiện đại. Người bệnh đến khám, chữa trị đều được miễn phí. Bác sĩ, y sĩ, y tá được chọn lọc kỹ lưỡng, thêm sinh viên y, dược tình nguyện đến làm việc từ thiện. Bà nhấn mạnh: tài trợ cho bệnh viện hoàn toàn không dính đến ngân sách quốc gia, mà do các cơ quan từ thiện, những người hảo tâm trong nước và ngoại giao đoàn đóng góp. Bà nhắc đến sự hỗ trợ đặc biệt của bốn tòa đại sứ: Đài Loan, Nam Hàn, Nhật và Hòa Lan.
Bà đi vận động xây nhà thương không phải để đánh bóng tên tuổi, không phải để lấy điểm chính trị như lời đồn, mà vì một niềm đam mê công tác xã hội rất… đàn bà, rất người. Trong ký ức bà, đó là niềm vui lớn, là thứ di sản bà muốn để lại cho dân nghèo. Về sau, khi sống ở Boston, mỗi lần kể đến những lần phải lái xe chở ông Thiệu đi cấp cứu ban đêm, bà thở dài: “Tiếc là bây giờ không còn Bệnh viện Vì Dân để chị săn sóc cho ông già.”
Bom rơi trên nóc Dinh và câu chuyện “ông già định ở lại”
Nhắc đến chính trị, có một biến cố làm bà rúng động, nhớ mãi: vụ ném bom Dinh Độc Lập ngày 8 Tháng Tư, 1975. Một phi công VNCH nổi loạn đã thả hai quả bom xuống dinh. Một quả xuyên thủng bãi trực thăng trên nóc, lọt xuống rồi nổ tung. Khi ấy, ông Thiệu vừa ngồi xuống bàn nhỏ ngoài hành lang để dùng bát phở sáng, mới gắp sợi bánh đầu tiên thì cận vệ đã xô tới, kéo ông vào thang máy xuống hầm trú ẩn.
Bà kể, ngay gần thang máy có một quả bom “dài thòng” rơi sát bên nhưng không nổ. Trên bãi trực thăng, chỗ mỏng nhất bị đánh trúng, thảm dày bốc cháy, mùi khét tỏa khắp nơi. Bà bị kẹt trong phòng gia đình vì cô giúp việc hoảng loạn, tay run đến mức không mở nổi khóa cầu thang. Một lúc lâu sau mới có sĩ quan chạy đến dìu bà xuống hầm, khói đặc đến mức bà gần như nghẹt thở.
Đầu Tháng Tư năm ấy, phong trào chống đối nổi lên khắp nơi, người người, phe phái đòi ông từ chức. Ngày 20 Tháng Tư, Đại sứ Graham Martin – theo chỉ thị của Henry Kissinger – tới Dinh Độc Lập khuyên ông nhường ghế, với kế hoạch đưa Tướng Dương Văn Minh lên thay. Câu hỏi của ông Thiệu rất thẳng: “Nếu tôi từ chức thì viện trợ có đến không?” Martin trả lời lấp lửng: “Tôi không dám hứa, nhưng cũng có thể.”
Hôm sau, ông mời các tướng lãnh đến họp. Ông kể lại chuyện đại sứ Mỹ nói, rồi bảo: nếu ông là chướng ngại cho hòa bình, ông sẵn sàng từ chức. Cả phòng im lặng. “Thế là đã rõ họ không muốn tôi ngồi lại,” ông nói với chúng tôi sau này. Chiều 22 Tháng Tư, ông lên truyền hình tuyên bố từ chức, tố cáo Hoa Kỳ đã thất ước, cắt quân viện để “chiến sĩ của chúng tôi chết đuối dưới làn mưa đạn của địch.” Ông khẳng định: “Tôi từ chức, nhưng tôi không đào ngũ.”

Vậy tại sao ông ra đi? Lịch sử và dư luận đã cãi nhau mấy chục năm nay. Nhưng trong câu chuyện đời riêng, bà lại kể một chi tiết khác: sau khi từ chức, ông mặc quần xà lỏn, quay qua nói với vợ: “Mẹ con mày đi đi, tôi ở lại.” Trong miệng ông lúc đó còn ngậm một “cục gì” trong hàm răng – thứ thuốc độc mà điệp viên thường dùng để phòng khi rơi vào bước đường cùng. Bà bảo rất giản dị: “Ông già định ở lại.”
Việc ông ra đi ngày 25 Tháng Tư, 1975, phần lớn là do áp lực từ tân Tổng Thống Trần Văn Hương – người ký sắc lệnh cử cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm sang Đài Loan phân ưu khi Tưởng Giới Thạch qua đời – và cũng vì chính phía Mỹ, phía tướng Minh đều muốn ông rời khỏi Việt Nam. Câu chuyện về “đào ngũ” vì vậy không chỉ có một mặt, và lịch sử không đơn giản là một dòng chữ kết tội.
Lưu vong xứ sương mù và người bạn mang biểu tượng “lên voi”
Sau ngày rời Sài Gòn, ông bà chọn nước Anh làm nơi tạm dung. Chính phủ Anh tôn trọng đời sống riêng tư của gia đình, chỉ âm thầm bố trí một sĩ quan an ninh cấp đại úy để bảo vệ, hướng dẫn ông hòa nhập với môi trường mới. Trong căn villa nhỏ mang cái tên “The White House” ở Surrey, một nguyên thủ quốc gia bắt đầu học lại từ đầu: tự lái xe, tự đi chợ, tự lo những chuyện vặt mà ở Dinh Độc Lập từng có cả một bộ máy phục vụ.
Câu chuyện với Hoa Kỳ thì không chấm dứt ở đó. Sau Hiệp Định Paris, Tổng Thống Richard Nixon mời ông sang thăm, nhưng tiếp tại tư dinh Casa Pacifica ở San Clemente chứ không phải Washington. Bữa tiệc khoản đãi chỉ vỏn vẹn mười hai người, với cái cớ là “không đủ chỗ.” Trong cái lạnh lẽo đó, điều an ủi ông là thái độ và tình cảm của Thống Đốc Ronald Reagan. Trước đó, khi ông Reagan qua Sài Gòn, ông Thiệu tiếp đón nồng hậu và tặng cho vị thống đốc một cặp ngà voi, đùa rằng: “Một ngày nào đó, ngài sẽ lên voi.”
Lịch sử trớ trêu mà cũng khéo sắp đặt: năm 1976, Reagan tranh cử nhưng chưa được đảng Cộng Hòa chọn; nước Mỹ sau Nixon và Ford ngày càng mất uy tín; rồi đến thời Jimmy Carter, hình ảnh Hoa Kỳ sau “tháo chạy khỏi Việt Nam” càng bị coi thường hơn. Mãi đến cuộc bầu cử 1980, Reagan mới thật sự “lên voi”, lời nói đùa ở Sài Gòn biến thành sự thật. Cũng từ thời Reagan, gia đình ông Thiệu mới dọn sang Mỹ định cư.
Mùa Thu Boston, 9/11 và giấc ngủ ngàn thu
Ở Mỹ, ông bà sống rất đạm bạc tại một căn nhà nhỏ gần Boston. Trong bếp, mì gói Mama chất đầy từng chồng. Bà cười hiền, bảo: “Không sao, quen rồi, quen từ lúc ông già còn làm tổng thống.” Bà hay gọi chồng là “ông già” hoặc “tía”, giọng miền Tây nghe vừa mộc mạc, vừa thương. Người ta đồn đãi đủ điều về chuyện “ông già với bà này cô kia”, bà cũng chỉ nhún vai: “Tía đi rồi tía lại về,” một câu nói vừa thản nhiên, vừa chan chứa độ lượng.

Có những năm ông bệnh tim nặng, bà phải tự lái xe chở ông đi cấp cứu ban đêm. Trên đất Mỹ rộng lớn, một phụ nữ nhỏ bé tuổi xế chiều phải lái xe vòng vèo tới bệnh viện, có hôm 1 giờ sáng mới về tới nhà, một mình lò dò trong hầm đậu xe tối om, sợ ma đến mức phải… đi giật lùi. Sáng hôm sau, bà vẫn đùa: “Thôi thì cũng còn tôi để lái xe cho ông tổng thống.” Ông chỉ mỉm cười: “Cám ơn bà.” Trong những câu chuyện nhỏ nhặt ấy, người ta thấy rõ hơn bất cứ bản tiểu sử nào thứ tình nghĩa vợ chồng lặng lẽ, bền bĩ suốt đời.

Năm kỷ niệm 50 năm thành hôn, người con trai Nguyễn Quang Lộc mời ba má sang Hawaii nghỉ ngơi. Vừa đến nơi được vài hôm thì biến cố 11 Tháng Chín 2001 xảy ra. Ông xem truyền hình, thấy chiếc máy bay cất cánh từ chính phi trường Boston – nơi ông đang cư ngụ – lao vào tòa tháp Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế, rồi một chiếc khác đâm vào Ngũ Giác Đài. Ông bàng hoàng, lo ra, như thấy lại một lịch sử khác đang lặp lại. Xúc động này ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe vốn đã yếu của ông.
Ông nôn nóng muốn về lại Boston ngay, nhưng máy bay toàn quốc bị đình chỉ, cả tuần sau mới bay được. Về đến nhà, bệnh ông trở nặng. Chiều Thứ Bảy, ngày 29 Tháng Chín, 2001, tại Trung Tâm Y Tế Beth Israel Deaconess, ông lặng lẽ đi vào giấc ngủ muôn đời, chưa đầy ba tuần sau biến cố 9/11. Có nhà bình luận Mỹ đã đặt câu hỏi: sau kinh nghiệm Việt Nam và cái chết của Nguyễn Văn Thiệu, liệu Hoa Kỳ có thực sự quyết tâm và nhất quán khi bước vào cuộc chiến chống khủng bố và công cuộc xây dựng Afghanistan hay không? Ở một nơi nào đó bên kia thế giới, có lẽ ông đã tự có câu trả lời cho riêng mình.
“Đức Lưu Quang” và người phụ nữ tên Mai Anh
Sau khi ông mất, trong cái lạnh cắt da của mùa Đông Boston, chúng tôi cùng một người bạn – Tiến sĩ Tạ Văn Tài ở Harvard – đến thăm bà. Bà sống một mình với con chó nhỏ, trong căn nhà đơn sơ, bộ xa lông cũ kỹ đã sờn. Trên một bục cao là tấm hình ông và một chai sâm banh. Bà kể: năm nào tới ngày kỷ niệm thành hôn, ông cũng mua một chai sâm banh, tự tay mở, rót cho bà một ly dù bà không biết uống rượu, chỉ để giữ một nghi thức, một kỷ niệm không bao giờ phai. Khi ông mất, bà vẫn để chai rượu đó bên hình ông, như muốn giữ lại mãi cái ngày vui riêng của hai người.
Có lần, ngồi trước bàn thờ, chúng tôi hỏi ông người Mỹ nghĩ gì về ông. Ông thở dài, bảo: khen có, chê có, có vị tướng Mỹ còn nói ông “nhu nhược.” Lý do: “Tổng thống không cương quyết đủ để ra lệnh tử hình khi cần thiết.” Ông thiệt thà trả lời: “Suốt đời, tôi đã tránh không có cái nợ máu.” Thực tế, trong mười năm cầm quyền, không có tội nhân chính trị nào phải ra pháp trường. Trên bàn thờ nhà bà ở Newton, Massachusetts, vẫn treo bức hoành “Đức Lưu Quang” – ba chữ do chính tay ông viết rồi cho người thêu, để nhắc con cái rằng ánh sáng của đạo đức mới là thứ còn lại sau cùng.
Nếu tin rằng mọi sự trên đời đều do Trời an bài, thì có lẽ Trời cũng đã giữ ông qua ít nhất sáu lần bị đe dọa đảo chính, để bà không phải trở thành quả phụ của một tổng thống khi ông còn tại chức. Rồi đến ngày 15 Tháng Mười, 2021, bà cũng lặng lẽ ra đi, theo “ông già” về thế giới bên kia. Từ đó, “Cô Bảy Mỹ Tho” Nguyễn Thị Mai Anh chắc đã được gần “Cậu Tám Phan Rang” Nguyễn Văn Thiệu, không còn cảnh lái xe một mình trong đêm tuyết, cũng không còn những lời dèm pha, thị phi chính trị nào chạm tới.

Lịch sử sẽ còn tranh luận mãi về vai trò và trách nhiệm của ông trong sự sụp đổ của VNCH. Có người xem ông là biểu tượng của một thời đã mất, có người trách ông chưa đủ cứng rắn, chưa đủ quyết liệt. Nhưng câu chuyện đời thường về một “ông già định ở lại”, về một người vợ tên Mai Anh lặng lẽ đứng sau lưng chồng, về Bệnh viện Vì Dân, về chai sâm banh kỷ niệm và bức hoành “Đức Lưu Quang” – tất cả những điều đó giúp chúng ta nhìn ông bà bằng một ánh mắt khác: ít phán xét hơn, nhiều nhân tình hơn.
Và biết đâu, ở một góc nào đó trên Nước Chúa Kitô mà nhiều người vẫn cầu xin cho ông bà được nghỉ yên, hai bóng dáng xưa của Dinh Độc Lập giờ đang ngồi bên nhau, nhắc lại chuyện hủ tiếu Mỹ Tho ở Surrey, chuyện cặp ngà voi tặng Ronald Reagan, chuyện “tía đi rồi tía lại về”, và mỉm cười trước những cơn bão chính trị đã trôi tuột như mây bay trên bầu trời Việt Nam năm nào.
Tác giả: Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng (chỉnh sửa Gibbs VIETBF)