LTS: Lễ tưởng niệm cựu phó Tổng thống VNCH, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ được tổ chức vào lúc 9 giờ sáng Chủ Nhật, 7/8/2011, tại nhà nguyện Sky Rose Chaper thuộc nghĩa trang Rose Hill Memorial Park, California với hàng trăm người tham dự.
Tro cốt của thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ sẽ được quàn tạm tại Rose Hill. Trước khi qua đời, ông Nguyễn Cao Kỳ có nguyện vọng được yên nghỉ tại quê ông, Sơn Tây, Hà Nội, nhưng gia đ́nh sẽ đợi thêm một thời gian nữa, tới “một thời điểm thuận lợi hơn” mới đưa ông trở về Việt Nam. Chưa rơ thời điểm đó là khi nào, có thể là khi Việt Nam có dân chủ chăng?
Tướng Kỳ là nhân vật gây tranh căi với luồng dư luận khen, chê trái ngưọc nhau. Nhưng ông là nhân vật lịch sử, là nhân vật cao cấp cuối cùng của VNCH, nên muốn hay không, thích hay không, th́ việc qua đời của ông cũng là một sự kiện.
Tham dự đám tang tướng Kỳ có ông Bằng Phong Đặng Văn Âu, một người bạn, người em, người thuộc cấp cũ. Bài điếu văn của ông Đặng Văn Âu – đương nhiên – thể hiện t́nh cảm của cá nhân ông đối với người quá cố.
———————————————-
Tang lễ tướng Nguyễn Cao Kỳ. Ảnh Nguoi-viet.com
Kính thưa Hương linh Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Tổ tiên ta dạy rằng “Nghĩa tử là nghĩa tận” để con cháu đời sau biết phép tắc tôn trọng vong linh người về nơi chín suối. Một phần nghi lễ truyền thống của ṇi giống ta trong buổi tiễn đưa là người c̣n sống nói lên công đức của người vừa mới ĺa trần đă làm được những ǵ cho gia đ́nh, cho xă hội, cho đất nước trên dương thế.
Nhân danh là một người em t́nh nghĩa của Thiếu tướng trong đại gia đ́nh Quân Đội, tôi xin phép được nói đôi lời trân trọng để tiễn đưa hương linh Thiếu tướng về Niết bàn.
Chợt được tin Thiếu tướng ra đi, tôi bỗng ̣a lên khóc như một đứa trẻ. Tôi khóc là bởi v́ từ nay bản thân tôi bị mất đi một người anh mà tôi vô cùng yêu quư và kính trọng. Tôi khóc là bởi v́ đất nước Việt Nam từ nay bị mất đi một nhà ái quốc có đủ tư thế của một nhà lănh đạo trải nghiệm, đủ dũng cảm, để thẳng thắn nói lên khát vọng của nhân dân trước mặt nhà cầm quyền. Hôm nay tôi cố nén cảm xúc để nói rơ từng lời con người thật của Thiếu tướng như tôi biết.
Nền Văn Hiến nước ta được dựng xây từ tư tưởng của ba tôn giáo lớn. Đó là Phật Giáo, Nho Giáo, Lăo Giáo làm cho dân ta sống hài ḥa với nhau mà chúng ta thường nghe nói đến cụm từ tam giáo đồng nguyên hay tam giáo nhất thể. Tuy là ba nguồn, nhưng mà là một. Vua Trần Thái Tông nêu lên chỗ tương đồng của Tam giáo về mặt hành thiện: “Sách Nho dạy làm điều nhân đức, kinh Lăo dạy thương yêu người và vật, Phật chủ trương hăy giữ ǵn giới cấm sát sinh…”.
Nhờ có cơ duyên, người em này được dịp gần gũi ông nên nhận thấy ông là người được hun đúc bởi ba ḍng tư tưởng Phật, Lăo, Nho. Tất cả hành động của ông đều dựa trên ba nền đạo lư đó mà ông đặt cái TÂM và cái Đức lên hàng đầu.
Ông thường kể với anh em về chuyện bà Cụ thân sinh của Ông đi Chùa Hương cầu Phật mà sinh ra ông nên ông tin tưởng ḿnh là Con Phật. Ông không thường xuyên đi chùa, không thường xuyên đọc kinh Phật, nhưng ông là người sống với ba điều căn bản Phật dạy. Đó là: BI, TRÍ, DŨNG. Nên tôi tin ông đúng là con Phật.
Những người thân của tướng Nguyễn Cao Kỳ tại lễ tang. Ảnh Nguoi-viet.com
1/ Về Bi: Ông là người có ḷng nhân đức, thương người, không bao giờ ông mưu mô hại một người nào. Nếu ông xử bắn Tạ Vinh th́ cũng chỉ v́ mục đích bài trừ nạn đầu cơ tích trữ lúa gạo để giúp đồng bào khỏi bị đói. Dù giết một người để cứu muôn người, nhưng ông đă thao thức trắng đêm chỉ v́ cái quyết định lấy đi một mạng người.
2/ Về Trí: Nhận lănh trách nhiệm lănh đạo Đất Nước khi mới 34 tuổi trong một thời điểm cực kỳ nhiễu nhương, đảo chính, chỉnh lư liên miên từ khi nền Đệ Nhất Cộng Ḥa bị giật sập, mà không ai nghĩ ông có thể đứng vững quá ba bảy hăm mốt ngày. Nếu không phải là người cơ trí lỗi lạc th́ làm sao ông có thể dẹp yên cuộc rối loạn Miền Trung mà không đổ máu, trong khi ba vị Tướng Lục quân được gửi ra trước đó đều bị bó tay? Người đời chê ông ít học v́ họ không có hiểu biết lịch sử. Đinh Bộ Lĩnh xuất thân là một cậu bé chăn trâu, học hành ǵ mà dẹp được loạn 12 sứ quân? Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ chỉ là người theo hai đi thâu thuế chợ ở B́nh Định, bằng cấp ǵ mà đại phá quân Thanh trong chớp mắt?
3/ Về Dũng: Ông từng chinh Nam phạt Bắc từ khi c̣n là sĩ quan cấp nhỏ cho đến khi làm Thủ tướng. Ông coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Ông dám chống chủ trương của chế độ đưa chính trị vào Quân Đội sẽ phát sinh ra nạn bè phái, chia rẽ, cậy thần cậy thế.
Ông không phải là người lui tới cửa Khổng sân Tŕnh, nhưng nhờ thấm nhuần nền Nho học của tổ tiên, suốt đời ông đă hành xử như một bậc chính nhân quân tử “Phú quư bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu không ham, nghèo không hèn và vũ lực không sợ.
Chưa bao giờ ông là học tṛ của Lăo tử, nhưng cuộc đời ông phản ảnh đúng với câu: “Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh”. Đạo mà ta có thể nói đến được, th́ không c̣n là Đạo nữa. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là Danh thật sự”. Ông xem công danh sự nghiệp như phù vân, gió thổi. Công danh hay sự nghiệp mà ông có là do hoàn cảnh lịch sử, t́nh thế nước nhà mang đến cho ông; chứ ông không mưu cầu. Ông giống như nhân vật Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung không hề khổ công đi t́m bí kíp vơ lâm, mà cửu âm chân kinh, cửu dương chân kinh, càn khôn đại nả di cứ tự nhiên rơi vào tay rất t́nh cờ; trong khi các môn phái chém giết nhau để đoạt cho bằng được. V́ lẽ đó mà con người nào suốt đời lận đận với nợ áo cơm, đuổi theo công danh sự nghiệp th́ không bao giờ có thể hiểu CÁI TÂM của ông được. Bởi vậy khi tôi nói cho ông nghe người nào đó nặng lời mạt sát ông th́ ông đều khuyên tôi rằng đừng nên trách họ v́ họ chưa thể hiểu việc ông làm.
Trong bài Tọa thiền luận, vua Trần thái Tông so sánh pháp môn tu luyện của Tam giáo và nêu lên sự tương đồng: “Đức Thích-Ca vào núi Tuyết sơn Himalayas, ngồi ngay ngắn trong sáu năm, chim thước, chim khách làm tổ trên đầu, cỏ mọc xuyên qua bắp vế mà thân tâm vẫn b́nh thản. Tử Cơ Đạo gia, tức Nam Quách Tử Cơ trong Nam hoa kinh của Trang tử ngồi tựa ghế, thân như cây khô, ḷng như tro nguội. Nhan Hồi, người học tṛ Đức Khổng phu tử ngồi quên, chân tay rời ră, thông minh dẹp bỏ, ĺa xa cả trí cả ngu để ḥa chung với Đạo lớn. Ba bậc Thánh hiền của Tam giáo đời xưa đó đều nhờ ngồi định mà có thành tựu.”. Ông không t́m nơi thanh vắng để tu thiền. Ông là người đi tu giữa chợ, giữ vững cái đức liêm chính, bao dung của ḿnh.
Phải chăng ba vị Thánh Hiền tĩnh tọa đă phái ông xuống trần để cứu giúp nước Việt Nam? Bởi v́ nơi con người ông là một sự kết hợp tam giáo đồng nguyên hay tam giáo nhất thể. Bước xuống đời vào thời buổi tao loạn, ông không tự nguyện vào cuộc chiến chinh, người ta bắt ông vào lính, nhưng khi đă dấn thân th́ ông sống hết ḿnh, ông trở thành Người Lính đích thực, sống trọn vẹn với ư nghĩa của cái motto “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”.
Bất cứ việc ǵ ông làm, ông đều v́ quyền lợi Tổ Quốc mà làm. Ra trường, ông phục vụ ở Bộ Binh một thời gian trước khi sang Không Quân. Mặc dầu cấp chỉ huy là người Pháp, ông dám quyết định thả những người dân bị bắt oan. Là một vị Chỉ huy trưởng Liên Phi Đoàn Vận tải, một đơn vị thường xuyên xuất ngoại, phi hành đoàn được phép mua một ít hàng hóa mang về bán kiếm lời, ai nấy đều làm, nhưng độc nhất chỉ có ông không bao giờ buôn một thứ ǵ, ngoại trừ một lần duy nhất mua cái radio transitor biếu Bà Cụ thân sinh. Ông cho thuộc cấp sang bay cho hăng Air Vietnam mà ông không hề đ̣i họ biếu một quả táo, một quả nho. Cả đời ông không hề lợi dụng quyền hạn của ḿnh để ăn cắp tài sản quốc gia đút vào tư túi ḿnh. Cho đến khi ĺa trần, ông chẳng hề có một tài sản nào, nên ông rời trần thế với tấm thân rất nhẹ, không bị đau đớn thể chất lẫn tinh thần. Cái đức tính thanh liêm của ông không một ai có thể nghi ngờ.
Khi chính phủ dân sự của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát v́ bất ḥa, trao quyền lại cho Quân Đội. Trong Đại hội, ông đề nghị Trung tướng Thiệu đứng ra thành lập Chính phủ, Hội trường vỗ tay hoan hô tán thưởng. Nhưng Tướng Thiệu nhất định không nhận. Người thứ hai ông đề nghị là Tướng Nguyễn Chánh Thi, cũng như Tướng Thiệu, Tướng Thi nhất định không nhận lời. Đại Hội tưởng chừng như bế tắc, v́ không ai chịu gách vác trọng trách. Tướng Thiệu, Tướng Thi không dám nhận v́ họ thấy t́nh h́nh quá khó khăn, chứ không phải hai ông chê chức Thủ tướng. Cuối cùng Quân Lực đề cử ông th́ v́ tinh thần trách nhiệm nên ông phải nhận lời, tuy ông cũng thừa biết có nhiều khó khăn trở ngại trước mặt. Lúc bấy giờ không một ai nghĩ Chính phủ của ông có thể tồn tại được một tháng. Thế mà ông đă đứng vững, người dân bắt đầu tin tưởng ông, ảnh hưởng của ông đă có tiếng vang trên trường quốc tế. Báo chí thuộc phe phản chiến, thân cộng sản cũng phải thán phục ông. Bằng cớ là kư giả người Ư Oriana Fallaci sau khi phỏng vấn ông, đă kết luận: “Nguyễn Cao Kỳ đáng… là lănh tụ của một vùng đất thiếu lănh tụ một cách đau đớn. Qúy vị sẽ nhận thấy điều đó khi ngỡ ngàng lắng nghe ông ta khoảng hơn 10 phút. Tướng Kỳ không phải là một anh chàng ngố, ông ấy có điều muốn nói, và ông nói huỵch toẹt mà không sợ vạ miệng.”
Tuy được sự viện trợ của Hoa Kỳ để chống lại Miền Bắc, nhưng ông tỏ ra là người có tinh thần độc lập, tự tin, chứ không phải là bù nh́n như người ta tưởng. Ở Hội nghị thượng đỉnh Honolulu, Tổng thống Lyndon Johnson khen ông nói tiếng Anh giỏi như chú Mỹ con; ông phản bác ngay: “Không! Tôi là người Việt Nam”. Trong vụ dẹp loạn ở Miền Trung, Tướng Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Lewis Walt hạch xách ông tại sao mang quân ra Vùng I mà không thông báo trước, ông cũng đă dạy Tướng Walt một bài học về lănh đạo chỉ huy. Sau cuộc kinh lư Úc Châu, ông đă làm cho phong trào phản chiến Úc xẹp xuống, v́ ông chứng minh cuộc chiến đấu bảo vệ Miền Nam là có chính nghĩa. Từ đó, các lănh đạo thế giới bắt đầu nh́n ông bằng thái độ trọng vọng. Các lănh tụ trong vùng như Tưởng Giới Thạch, Marcos, Phác Chính Hy, Quốc vương Thái lan rất lấy làm hài ḷng về cung cách ứng xử của ông đối với Hoa Kỳ, cường quốc số 1 lănh đạo Thế giới Tự do. Đặc biệt Thủ tướng Tungku Abdul Rahman đă đề nghị Hoàng gia Mă Lai phong cho ông tước vị TUN vào năm 1965 mà tới năm 2008 họ lục trong hồ sơ mới t́m thấy quên tấn phong ông. Hoàng gia Mă Lai không nhớ, ông cũng chẳng cần nhắc để được tấn phong th́ đủ biết con người không màng danh vọng, chức tước.
Dẹp xong biến loạn Miền Trung, ông tổ chức bầu cử Quốc hội Lập Hiến, viết Hiến Pháp mới để khai sinh nền Đệ Nhị Cộng Ḥa. Năm sau ông tổ chức bầu Tổng thống, Thượng Hạ Viện. Các Tướng Tư lệnh Vùng và Tư lệnh Quân Binh Chủng đă quyết định chọn ông là người đại diện Quân Đội để tranh cử. Nhưng v́ muốn thắt chặt t́nh đoàn kết, ông đă nhường địa vị đó cho Tướng Thiệu và tỏ ư muốn trở về với anh em Không Quân là đơn vị mà ông gắn bó và yêu thương nhất. Nếu không có sự kiện Tướng Hoàng Xuân Lăm khẩn thiết yêu cầu bằng câu nói chí t́nh giữa Đại hội: “Hoan hô tinh thần hy sinh của anh Kỳ. Nếu anh Kỳ đă thương Quân Đội th́ xin hăy thương cho trót. Xin anh vui ḷng đứng phó cho anh Thiệu th́ liên danh Quân đội mới mong thắng cử. Nếu anh Kỳ không nhận lời th́ tôi xin trả cặp lon Tướng này lại và xin ra khỏi Quân Đội”. Tướng Trần văn Minh, quyền Tư lệnh Không Quân lúc bấy giờ, hưởng ứng lời đề nghị của Tướng Hoàng Xuân Lăm, yêu cầu Đại hội cho một tràn pháo tay để ca ngợi tinh thần “Esprit de Corps” của ông. Cả Hội trường vỗ tay và ông đă chấp thuận. Người ta bảo ông nhường cho Trung tướng Thiệu là do áp lực của Hoa Kỳ là không đúng. Bằng cớ là Trưởng nhiệm sở T́nh báo CIA là Williams Colby đă vào Tân Sơn Nhất yêu cầu ông hủy bỏ quyết định ấy, v́ Hoa Kỳ đă chuẩn bị ủng hộ ông. Để chứng tỏ tính độc lập, ông cho rằng lời yêu cầu của Colby là xen vào nội bộ nước nhà, nên ông đă từ chối. Ông không v́ tiếc cái chức Tổng thống mà trở thành người không giữ lời hứa.
Thưa ông Tướng,
Trong lịch sử Việt Nam, chưa có một vị nào được đ́nh thần phong cho chức vua mà lại khước từ. Tôi chỉ biết có vị vua nhường ngôi cho con để lên làm Thái Thượng Hoàng mà thôi. Trong vụ Tết Mậu thân, nếu ông là người say mê quyền lực th́ việc lật Tổng thống Nguyễn văn Thiệu không phải là điều khó khăn. Trong giờ phút lâm chung của Đất Nước, lần đầu tiên tôi mới nghe ông mở lời xin Cụ Trần văn Hương bổ nhiệm cho ông chức vụ Tổng Tham Mưu trưởng để ông có quyền điều động binh lính. Tuy bị Cụ Hương khước từ, ông vẫn dùng trực thăng riêng để hướng dẫn cho khu trục oanh kích các ổ trọng pháo của địch. Khi thế cùng lực kiệt th́ ông mới quyết định bay ra Hạm đội 7; chứ không phải lẩn trốn trách nhiệm của người làm Tướng như kẻ ác ư cáo buộc. Người ta buộc tội ông hèn nhát, không chịu chết để giữ tṛn danh tiết; nhưng Tướng Ngô Quang Trưởng được ông cứu khỏi bị tù đày th́ được người ta ca tụng là vị Tướng anh hùng! Ông không thèm lên tiếng bào chữa, phân trần. Thế mới biết ông là người đại lượng, chỉ âm thầm nói một ḿnh: “Chí ta, ta biết; ḷng ta, ta hay!”
Khi Tướng Nguyễn Ngọc Loan bị bọn phản chiến tố cáo về tội sát nhân và đ̣i đưa ra ṭa án trục xuất khỏi Hoa Kỳ. Không một Tướng lănh nào đứng ra bênh vực, bào chữa cho Tướng Loan. Chỉ có một ḿnh ông kư một affidavit nhận trách nhiệm là người chỉ thị có cấp chỉ huy ở chiến trường có quyền xử bắn tại chỗ bất cứ tên khủng bố nào. Nhờ lời biện luận của ông trước ṭa rằng Tướng Loan bắn một tên khủng bố; chứ không bắn người lính mặc quân phục nên Tướng Loan không vi phạm quy ước Genève. Ṭa bèn phán quyết tha bổng Tướng Loan.
Câu nói chí t́nh của ông với Tướng Loan làm tôi ghi nhớ măi cho tới chết: “Nếu Mỹ trục xuất anh, dù tới ở bất cứ một nước lạc hậu nào, tôi cũng đi với anh”. Cái t́nh huynh đệ chi binh, cái tinh thần “không bỏ anh em, không bỏ bạn bè” của ông thật là tuyệt vời. Trái lại, khi ông dấn thân đi làm chuyện đất nước, th́ có người anh em từng bay hợp đoàn với ông đă bỏ ông. Trong đám tang Tướng Loan, nhiếp ảnh gia chụp tấm h́nh Tướng Loan bắn tên khủng bố đă đến xin lỗi vong hồn Tướng Loan và viết một bài ai điếu bày tỏ sự hối tiếc đăng trên tờ tuần báo Newsweek rất cảm động. Giờ phút này, thử hỏi có người Việt Nam nào đă nhẫn tâm vu cho một người yêu nước như ông là phản quốc, là chạy theo cộng sản, dám bày tỏ sự hối tiếc như nhiếp ảnh gia kia không?
Từ thế kỷ trước, ông đă nh́n thấy tham vọng bành trướng của Trung Cộng. Ông đă ra sức vận động Hoa Kỳ xóa bỏ thù hận chiến tranh để quay lại giúp Việt Nam. Vài ông Nghị sĩ, Dân biểu Chống Cộng không nh́n ra nguy cơ bị Hán hóa, đă nặng lời với ông bằng những ngôn từ vô văn hóa. Họ quên rằng họ có cái chức danh Nghị sĩ, Dân biểu là nhờ ông dẹp yên loạn Miền Trung, nên mới có Quốc hội. Năm 2004, ông về nước để cảnh báo cho nhà cầm quyền cái mối họa Phương Bắc, th́ một ông Tiến Sĩ đầu têu ra tuyên cáo miệt thị ông là người không có căn bản học vấn. Từ đó, một làn sóng dư luận a dua theo phụ họa. Ông vẫn thản nhiên tiến bước, mặc kệ những ḥ hét ồn ào, đoàn lữ hành cứ đi.
Phải là một con người có tấm ḷng yêu nước vô cùng to lớn như ông mới có thể an nhiên tự tại giữa cơn gió tanh mưa máu. Tôi nhắc lại lời Chúa Jésus phán hơn hai ngàn năm trước rằng “ai cảm thấy ḿnh vô tội th́ cứ việc ném đá vào người đàn bà ấy đi”, nhưng vẫn có những con người đầy rẫy tội lỗi tiếp tục ném những ḥn đá bẩn thỉu vào ông để chứng tỏ kiên định lập trường. Tuy ông là con của Phật, nhưng ông đă biết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục như Đức Chúa Jésus.
Nay ông đă khuất, vâng ông đă khuất; chứ ông không chết, bởi v́ ông vẫn thường nhắc câu nói bất hủ của danh tướng MacAthur: “Người lính già không bao giờ chết, họ chỉ khuất đi mà thôi!”. (Old soldiers never died, they just fade away). Đúng thế! Người lính trước gục ngă, người lính sau tiến lên. Sau khi ông khuất đi, tôi tin rằng c̣n có những người lính dũng cảm tiếp nối giấc mơ của ông.
Giấc mơ của ông là đoàn kết dân tộc để có sức mạnh chống lại sự xâm lăng của ngoại bang. Ông nhận thức rằng Đất Nước ḿnh không may rơi vào cuộc tương tranh giữa Tư Bản – Cộng Sản. Chúng ta được hai thế lực đó phong cho một bên là người lính tiền phong và một bên là người lính tiền đồn để được phát khí giới, tiền bạc nhằm thanh toán lẫn nhau. Thực chất chúng ta chỉ là những tên lính đánh thuê, khi một bên bị hết nguồn cung cấp th́ đành thua trận. Vậy th́ kẻ chiến thắng có ǵ là vinh quang, kẻ chiến bại có ǵ là nhục nhă? Tại sao anh em một nhà, cùng máu huyết mà lại không thể làm ḥa với nhau khi nhận ra thân phận lính đánh thuê của ḿnh?