Nhật khó thoát được khủng hoảng khi không có người lao động. Tỷ lệ  người chết nhiều hơn trẻ được sinh ra đă liên tiếp 4 năm. Nhân khẩu học  là yếu tố lớn khiến Nhật khó khăn.
 
 Trong nhóm nền kinh tế phát triển, tỷ lệ nợ/GDP của Nhật ở mức 225%, mức  cao nhất/ S&P đă hạ xếp hạng tín dụng của Nhật và Moody đă tuyên bố  có thể đưa ra quyết định tương tự.
 
 Nhật, sau khi đương đầu với 2 thập kỷ mất mát, công bố GDP quư 2/2011 hạ 3,7% so với cùng kỳ.
 
 Thủ tướng Nhật vừa qua đă vượt qua cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm thế nhưng  ông đă cam kết sẽ sớm từ chức một khi cuộc khủng hoảng hiện tại qua đi.  Nếu như vậy, Nhật sẽ chuẩn bị phải chọn ra người lănh đạo mới.
 
 Có thể kể ra nhóm đối tượng đứng đằng sau cuộc khủng hoảng tại Nhật hiện nay?
 
Chính trị gia
 
 Giới chính trị gia Nhật bị buộc tội bởi đă khiến vấn đề kinh tế của nước  này ngày một trầm trọng hơn. Lănh đạo các đảng đă lănh đạo hệ thống vốn  chi tiêu quá hoang phí. Liên tiếp chính phủ này đến chính phủ khác tiêu  hàng ngh́n tỷ yên vào đường sá, cầu cảng và các ṭa nhà.
 
 
 
 Chưa có dấu hiệu cho thấy các hành vi chi tiêu này sẽ chấm dứt. Nghị  viện Nhật chấp thuận gói kích thích 61 tỷ USD vào tháng 11/2010 và chi  phí tiêu tốn khắc phục hậu quả động đất, sóng thần có thể lên tới 310 tỷ  USD.
 
 Giới chính trị gia cũng bị đổ lỗi không đưa ra quyết định cứng rắn trong  việc cải cách hệ thống thuế và an sinh xă hội. Nhật cũng thường xuyên  đổi Thủ tướng, chỉ trong 6 năm, Nhật đă thay Thủ tướng đến 5 lần.
 
 
Người tiêu dùng
 
 Người tiêu dùng Nhật cho đến nay chưa bao giờ khôi phục được khả năng  tài chính sau thời kỳ bong bóng tài sản nước này vỡ cách đây 2 thập kỷ.
 Người nội trợ Nhật tiết kiệm từng đồng, thậm chí giấu cả lương của  chồng. Tiêu dùng giảm sút nghiêm trọng. Từ đầu thập niên 1990 đến nay,  tiêu dùng đă giảm tới 50%. Chính phủ v́ vậy khó tăng được doanh thu  thuế.
 
 
 
 Chưa có dấu hiệu nào cho thấy người tiêu dùng Nhật sẽ thoải mái chi tiêu  hơn. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2011 tăng lần đầu tiên trong 28 tháng  nhưng doanh số bán lẻ thấp hơn 5% so với cùng kỳ. Sau động đất, sóng  thần, người Nhật quá sợ hăi với những ǵ đă xảy ra nên họ c̣n giảm tiêu  dùng hơn nữa. Giá cả các loại mặt hàng sẽ giảm không ngừng, các hộ gia  đ́nh sẽ tŕ hoăn mua hàng thêm nữa.
 
Nhân khẩu học
 
 “Quả bom hẹn giờ” nhân khẩu học của Nhật đang chờ ngày phát nổ. Năm  2010, dân số Nhật giảm mạnh nhất từ năm 1899. Liên tiếp 4 năm, số người  chết nhiều hơn số người được sinh ra.
 
 
 Khoảng 25% dân số Nhật trên 65 tuổi và con số này dự kiến lên mức  40% vào năm 2050. Hệ thống an sinh xă hội sẽ chịu rất nhiều áp lực. Việc  cho phép nhập cư sẽ giải quyết được vấn đề này, tuy nhiên luật pháp của  Nhật hạn chế người lao động nước ngoài.
 
 
Nhà đầu cơ trên thị trường tiền tệ
 
 Cuộc chiến của chính phủ Nhật với nhà đầu cơ trên thị trường tiền tệ gần giống như cuộc chơi cờ vua mà chính phủ Nhật toàn thua.
 
 Kinh tế Nhật chịu tác động nặng nề bởi đồng yên mạnh. Vào năm 2002, đồng  yên giao dịch với đồng USD ở mức 133 yên/USD và hiện nay ở mức khoảng  80 yên/USD. Hoạt động kinh doanh của các công ty xuất khẩu Nhật chịu tác  động nghiêm trọng.
 
 
 Đầu năm 2011, Nhật can thiệp vào thị trường ngoại tệ để hạ giá  đồng yên, cuối cùng sau động đất, sóng thần ngày 11/03/2011, đồng yên  lại lên mức 76,25 yên/USD.
 G7 buộc phải hợp sức can thiệp. Chính phủ Nhật cho biết các bên đầu cơ  đă kỳ vọng vào việc người Nhật ở nước ngoài sẽ gửi tiền về tái thiết đất  nước sau động đất.
 
Đồng nhân dân tệ bị định giá thấp
 
 Các công ty Nhật đă chuyển sản xuất ra nước ngoài để tránh tác động từ  đồng yên mạnh. Hăng xe Nissan của Nhật sản xuất khoảng 25% xe tại Nhật  trong khi đó tỷ lệ này tại Honda là 26%.
 
 
 
 Người Nhật đă xây dựng nhiều nhà máy ở Trung Quốc bởi đồng nhân dân tệ  và chi phí lao động thấp. Từ năm 1997, Nhật liên tục chịu thâm hụt  thương mại với Trung Quốc và khả năng cạnh tranh của hàng hóa Nhật ngày  một giảm.
 Trong khi đó Trung Quốc tuyên bố Nhật thực ra có thặng dư thương mại với Trung Quốc.
 
 
Ngân hàng Trung ương Nhật
 
 Bao lâu nay, Ngân hàng Trung ương Nhật không ngừng bị chỉ trích về việc  nới lỏng chính sách tiền tệ trong thời kỳ bong bóng năm 1985 và lại  không đưa ra chính sách phù hợp khi bong bóng vỡ.
 
 Không chỉ mắc sai lầm này, Ngân hàng Trung ương Nhật c̣n bị chê bai rất  nhiều khi nâng lăi suất quá sớm vào năm 2000 trước khi kinh tế Nhật thực  sự phục hồi.
 
 
 
 Tuy nhiên, thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật đă bác bỏ mọi lời chỉ trích, đổ lỗi cho yếu tố nhân khẩu của Nhật.
 
 Ngân hàng Trung ương Nhật c̣n mua quá nhiều tài sản, tuy nhiên, nhiều  người khẳng định mọi chuyện đă quá muộn bởi Ngân hàng Trung ương đương  đầu với “bẫy thanh khoản” – mọi chính sách nới lỏng tiền tệ được đưa ra  nhưng như cầu tiền không tăng.
 
Hệ thống ngân hàng Nhật
 Các chuyên gia kinh tế Nhật khẳng định phần lớn vấn đề của Nhật trong  thập niên 1990 bắt nguồn từ hệ thống ngân hàng hoạt động yếu kém, không  tính toán được mức thua lỗ và tiếp tục cho các công ty hoạt động yếu kém  vay. Các ngân hàng cho vay lớn đă phân bổ nguồn vốn vay không hợp lư và  bóp méo cạnh tranh.
 
 
 
 Hiện nay, các ngân hàng Nhật trữ khoảng 30% tài sản của họ vào trái  phiếu chính phủ Nhật. Tuy nhiên, ông Brian Waterhouse, chuyên gia cao  cấp tại CLSA, người có hơn 30 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực  tài chính tại Nhật khẳng định các ngân hàng cho vay sẽ đương đầu với rủi  ro lớn nếu lăi suất tăng và danh mục trái phiếu chính phủ của họ mất  giá trị.
 
 
Thảm họa thiên nhiên
 
 Thảm họa động đất, sóng thần Nhật ngày 11/03/2011 được coi như thảm họa  thiên nhiên gây thiệt hại tài chính lớn nhất trong lịch sử. Thiệt hại  trực tiếp từ thảm họa ước khoảng 310 tỷ USD.
 
 
 Đang trong quá tŕnh phục hồi từ sau cuộc khủng hoảng tài chính,  kinh tế Nhật lập tức chịu tác động nặng nề. Ảnh hưởng của động đất không  chỉ đối với ngành ô tô và công nghệ Nhật mà c̣n gây chấn động toàn bộ  chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu.
 
 Chi phí tái thiết đất nước “đè nặng” lên một chính phủ vốn đă nợ chồng chất.
 
Các doanh nghiệp hoạt động yếu kém
 
 Từng nổi tiếng với sự đổi mới và hoạt động hiệu quả, các công ty Nhật  cho đến nay không ngừng bị chỉ trích v́ hàng loạt tai nạn và vấn đề an  toàn. Ngay cả Toyota, nổi tiếng về chất lượng, cùng phải xin lỗi khách  hàng.
 
 
 Các chuyên gia phân tích chỉ ra các công ty Nhật với hệ thống đưa  ra quyết định nhiều tầng lớp đă dẫn đến t́nh trạng thiếu minh bạch và  đổi mới.
 Mới đây nhất, công ty điện Tokyo (TEPCO) bị buộc tội không xử lư tốt  khủng hoảng hạt nhân và công bố thông tin rơ ràng hơn. Chủ tịch công ty  đă tránh không xuất hiện trước công chúng trong tháng sau thảm họa sóng  thần.
 
Các tổ chức xếp hạng tín dụng
 
 Moody's, Standard & Poor's và Fitch Ratings đều chê bai các biện  pháp ứng phó với khủng hoảng tài chính của Nhật. Họ nói đến tỷ lệ nợ  công/GDP của Nhật cao. Thế nhưng các tổ chức xếp hạng tín dụng đang bỏ  qua thông tin quan trọng: người Nhật tiết kiệm rất nhiều. Nếu tính cả  con số tiết kiệm, tỷ lệ nợ/GDP của Nhật chỉ khoảng 115%.
 
 
 C̣n phải kể đến Nhật có dự trữ hàng ngh́n tỷ USD. Các chuyên gia  phân tích khẳng định Nhật sẽ tiếp tục vay tiền từ ngân hàng nội địa và  các tổ chức chính phủ. Trên thực tế, khoảng 50% trái phiếu chính phủ  Nhật đang do lĩnh vực công nắm giữ và khoảng 90% tổng trái phiếu chính  phủ Nhật nằm trong tay nhà đầu tư nội địa nên rủi ro khủng hoảng cũng  được giảm thiểu.
 
 Ngọc Diệp
 Theo TTVN/CNBC