Nguyễn Thượng Chánh và Nguyễn Thị Ngọc Lan Gặp lại sponsors ngày xưa.
Thuyền nhân Nguyễn Thượng Chánh
Để tưởng nhớ đến các đồng bào VN đă bỏ ḿnh trên bước đường đi t́m tự do.
Hắn và vợ, tay bồng tay dắt hai đứa con c̣n nhỏ, lặng lẽ, bùi ngùi bước ra khỏi nhà cha mẹ, nơi mà hai vợ chồng hắn tá túc từ hơn một năm nay tại Saigon. Đồ đạc chỉ vỏn vẹn có hai cái xách tay nhỏ, đựng một vài bộ quần áo cũ và một ít thức ăn khô. Đó là ngày 23 tháng 3 năm 1980. Hắn vừa tṛn được 37 tuổi.
Trời c̣n tối om khoảng ba- bốn giờ sáng. Trong nhà, ngoài một cô em vợ ra th́ không c̣n ai hay biết ǵ hết. Hắn dặn cô em nhờ nói lại với Pa Má, là Anh Chị cần phải về Cần Thơ gấp để xin lại căn nhà bị tịch thâu một năm trước đó v́ đă đi không lọt và bị bắt...
Đây là lần thứ ba mà hắn liều mạng lôi vợ con mạo hiểm theo hắn. Chợt một ư nghĩ loé lên trong đầu hắn, coi chừng “nhứt quá tam” hay “jamais deux sans trois” làm hắn cũng thấy ngài ngại...
Lần đầu năm 78, xuống cá nhỏ ngay tại bến Ninh-Kiều ở Cầnthơ nhưng chuyến đi bị gài bẫy từ đầu, nên khi vừa leo qua cá lớn đậu ngay vàm Cầnthơ th́ công an đă chờ sẵn trong ghe đón tiếp nồng hậu không sót một mống nào, chẳng khác nào cá vào rọ.
Hắn và vợ con bị nhốt hết hai ngày ở Chấp Pháp Cầnthơ nằm gần mé sông, xế khỏi Trại Nhập Ngũ số 4 cũ, một quăng trên đường vô Cái Răng.
Qua ngày hôm sau, một diễn biến thật bất ngờ xảy ra như một giấc chiêm bao: hắn và vợ con được thả ra. Đây là một cái bất ngờ tuyệt điệu chẳng khác nào cá mắc cạn được đem thả trở lại xuống nước.
Khỏi phải nói hai vợ chồng hắn đều mừng hết lớn. Tưởng đâu là cuộc đời ḿnh đă bị tiêu tán đường rồi, nhưng có lẽ nhờ phước đức ông bà để lại hay nhờ có số may mắn ǵ đó mà gia đ́nh hắn được ban lănh đạo Đại Học, vận động với bên công an thành phố Cần thơ để thả gia đ́nh hắn ra thật sớm và phải về làm tờ…tự kiểm.
Thời điểm đó phong trào vượt biên nở rộ khắp miền Nam. Đặc biệt là đa số giới trí thức cũ, đều bằng mọi giá t́m cách bỏ đi. Anh nào không đi th́ bị thiên hạ mỉa mai và liệt vào nhóm trí thức 3N tức là hoặc nghèo hoặc nhát hoặc ngu?! Chất xám thất thoát nhiều khiến nhà nước cộng sản phải cấp bách đề ra chính sách o bế giới trí thức cũ để khuyến dụ họ ở lại phục vụ đất nước, v.v...
Cḥm xóm không ai hay biết ǵ hết, nhà cửa vẫn c̣n nguyên vẹn. Hú hồn hú vía!
Rồi hắn được cho đi làm việc trở lại tại nhiệm sở cũ là trường Đại học Cần thơ. Vợ hắn, dược sĩ ngụy, th́ cũng được... gởi gắm đi làm tại một nhà thuốc Tây quốc doanh nằm trên đường Nguyễn an Ninh ngay trong thị xă Cầnthơ, dĩ nhiên là dưới quyền sai bảo của chị thủ trưởng dược tá giải phóng. Nói là đi làm cho nó ngon vậy đó chớ thật sự ra có làm cái ǵ đâu, mà họ cũng chẳng có dám giao cho cái ǵ đâu mà làm. Hắn biết là hai vợ chồng hắn đang bị người ta theo dơi và canh chừng gắt củ kiệu lắm. Tối ngày cứ lo luây quây học tập chánh trị, họp tổ, rồi sau đó là lo ba cái vụ chầu chực để mua nhu yếu phẩm theo giá chánh thức cũng đă hết thời giờ rồi. Hắn rầu thúi ruột và hết c̣n biết tính sao nữa.
Bế tắc hoàn toàn! Chỉ c̣n có một con đường duy nhất là phải t́m cách binh nữa. Bằng cách nào? Hắn cũng chưa biết được. Chỉ c̣n biết cầu xin Trời Phật và chờ phép lạ mà thôi.
Rồi một dịp may khác lại xuất hiện một năm sau tức năm 79… Xuống băi tại Phong Điền. Ghe là một loại tam bản lớn không có mui ǵ hết, ớn quá chừng nhưng lỡ rồi. Ghe được thả theo ḍng nước sông Hậu, tà tà hướng xuống Cà Mau để t́m đường ra biển.
Nhưng than ôi! Kỳ nầy lại bị tổ trát một lần nữa, xui xẻo hết cỡ ngoài dự tính. Đúng là mưu sự tại nhân, nhưng thành sự tại thiên. Một trạm kiểm soát trên sông Ông Đốc th́nh ĺnh gọi ghe tấp vào bờ để xét hỏi. Thế là bể! Cả ghe bị tóm. Hắn và tất cả bạn đồng hành đều bị áp giải vô Rạch Rán ở Cà Mau.
Trong chuyến đi nầy, ngoài nhóm bạn bè của hắn trong Đại học Cầnthơ như Anh Chị PL (nay c̣n ở bên nhà), dược sĩ TĐB (hành nghề lại tại Bắc Cali), hai vợ chồng dược sĩ C&D. và mấy đứa con, và vợ chồng Trung tá y sĩ HNT, Quân y viện Phan thanh Giản Cầnthơ cũng có mặt trong chuyến vượt biên nầy (Bs T nghe nói mấy năm trước ở Houston,Tx).
Hắn lo cho hắn th́ ít nhưng lo cho vợ và hai đứa nhỏ (5 tuổi và 3 tuổi) bị nhốt cùng với nhóm dàn bà con nít trong vựa lúa phía sau láng đàn ông chừng vài chục thước th́ nhiều. Ăn uống làm sao đây? Lỡ có bệnh hoạn bất tử th́ lấy thuốc đâu mà chữa trị.
Nhưng cũng may, một hai tuần sau, th́ gia đ́nh bên vợ hắn ở Saigon hay được hung tin là chuyến đi bị vướng. Tội nghiệp, Ông bà ngoại các cháu phải cực khổ tức tốc lặn lội từ Saigon xuống thị xă Cà Mau, rồi từ đó đón đ̣ máy đi cả buổi mới tới Rạch Rán để xin lănh hai đứa cháu nhỏ (3tuổi và 5 tuổi) về nhà...Trời ơi! Nhớ lại thuở đó sao mà khổ vô cùng tận vậy.
Sau vài tuần bị nhốt, th́ vợ hắn cũng được thả về trước, c̣n hắn th́ bị giam thêm một thời gian nữa. Ban ngày, họ bắt bọn hắn đi lội nước nhổ cỏ ngoài ruộng cho bỏ ghét và cũng để cho biết thế nào là lao động. Tối về láng, hắn và các bạn tù bị xiềng một cẳng lại với nhau qua một thanh sắt dài khóa lại ở một đầu phía ngoài cửa vào. Tiểu tiện phải “làm” trong lon ngay tại chỗ, xong th́ chuyền cho người nằm sát vách phía bên trong, vạch tấm phên ra và hất đại xuống mương. Nhớ lại có một hôm nhân lúc đi lao động, v́ đói, ai nấy lúc về cũng ham nhổ theo cả bó rau muống ruộng để ăn sống. Tối bữa đó th́ đa số đều bị tào tháo rượt, phải làm ren rét tùm lum ngay tại chổ. Cuộc đời tù tội là thế đó.
Nhưng có lẽ là cảnh khổ cực của bọn hắn chẳng nhầm nḥ ǵ so với hoàn cảnh của các anh em “ ngụy quân ngụy quyền” bị CS trả thù và đ́ về tinh thần lẫn thể xác trong những trại tù cải tạo.
Muỗi Cà Mau nhiều không thể tưởng tượng được. Mới 4-5 giờ chiều là chúng bay vo vo đen nghệch thấy mà phát sợ. Vướng lần thứ hai nầy hắn nghĩ rằng chắc phải bị kẹt lâu lắm chớ không mong ǵ được thả ra sớm đâu.
Hắn thuộc gia đ́nh ngụy quyền mà, có ông già bị đưa đi tu nghiệp vô thời hạn ngoài Bắc. Vợ hắn thuộc loại tư sản v́ có nhà thuốc Tây ở Saigon. Mặc dù đă bị kiểm kê ốp hết ráo hết trọi, của thiên trả địa, nhưng gia đ́nh hắn vẫn nằm trong diện không được thiện cảm của chế độ đương thời cho lắm!.
Lúc bị nhốt, tin bên ngoài từ Cầnthơ cho biết là có vài người trong ĐH Cần Thơ không đồng ư xin cho hắn ra v́ hắn thuộc loại quá ngoan cố hết thuốc chữa rồi. Chắc cũng không mấy sai đâu. Người ta đă tha cho một lần rồi mà không tởn, kho8ng biết ăn năn hối cải.. Hắn rầu lắm. Tương lai mù mịt. Nhưng rồi hắn thầm nghĩ, đây là một canh bạc, có lúc ăn th́ cũng có lúc phải thua, đó là lẽ thường t́nh ở đời mà thôi. Cũng may, sau khi bị nhốt hết ba tháng th́ cả nhóm được Thành Hội Trí Thức Yêu Nước Cần thơ cử Anh ba T. xuống lănh hết ra...(h́nh như Anh ba T ngày xưa là nhân viên nằm vùng trong Ṭa Án Cần Thơ?)
Lần nầy th́ mất hết tất cả. Te tua. Lỡ leo lên lưng cọp rồi th́ không thể xuống được!. Đúng là cùi rồi nên không c̣n sợ lở nữa!. Tới đâu th́ tới.
Nhà cửa của cải bị mất hết, mất luôn cả hộ khẩu, nên gia đ́nh hắn chẳng c̣n chỗ nào ở đành phải về tá túc một cách bất hợp pháp trong nhà ông bà già vợ tại Sàig̣n. Vốn liếng, nữ trang và bao nhiêu cây dành dụm từ bấy lâu nay đều được đem chụm hết trong hai chuyến đi hụt vừa qua. Căn nhà của hắn ở đường Mậu Thân gần cầu Rạch Ngỗng Cần Thơ cũng bị mất luôn và được họ biếu cho Năm P trưởng ty Nông nghiệp thời đó.
Láng túi sạch sẽ!
Để kiếm sống qua ngày, vợ hắn phải nấu xôi, pha cà phê bán ngay bên lề đường cạnh tiệm thuốc Tây cũ của ḿnh tại góc đường BC/HTT Sài G̣n. Ngày nay pharmacie vẫn c̣n đó, vẫn c̣n mang tên cũ NL nhưng là của người khác.
C̣n hoàn cảnh của vợ chồng người bạn là ds C. và ds D. cũng bi đát lắm. Họ cũng mất nhà và mất cả nhà thuốc CD ở Cầnthơ nên đành phải bắt buộc dẫn bầy con về tá túc nhà bố mẹ ở Saigon. Để kiếm sống, anh chị C.&D. làm bánh cam rồi mỗi ngày Anh C. từ nhà ở Sân Cộng Ḥa cong lưng h́ hục đạp xe ra bỏ mối cho vợ chồng hắn bán tại quán cà phê lề đường. Đây là t́nh nghĩa bạn bè lúc hoạn nạn...Và đó cũng là h́nh ảnh thê lương của hầu hết các dược sĩ ngụy một thời le lói hết sức, nhưng lúc sa cơ thất thế th́ cũng bi thảm không ai bằng! Lên voi xuống chó là như thế đó!.
Từ gần 31 năm nay hắn không thể bắt liên lạc lại được với gia đ́nh anh chị C & D. Có người cho biết h́nh như gia đ́nh dược sĩ C&D đă không có may mắn đến được bến bờ Tự Do lúc vượt biển sau nầy...
C̣n hắn th́ chạy tới chạy lui phụ giúp ba cái chuyện lặt vặt cho bà xă. Hắn xuống tinh thần mất moral, chán chường thấy rơ, nhất là mỗi khi nghe tin có một người bạn nào đó đă tới nơi yên ổn sướng quá. Hắn cảm thấy ḿnh là kẻ thua cuộc, bất lực, lẻ loi và cô độc hết sức!. Có nhiều người khi xưa là bạn, nay thấy hắn th́ lại lơ lơ là là, có lẽ họ sợ bị liên lụy đến bản thân chăng?
Đời là thế!. C'est la vie!
Sa cơ thất thế là hoàn cảnh chung của phe thua cuộc. Thôi th́ cứ nghĩ đó là cái nghiệp chung của dân miền Nam phải đồng gánh chịu. Hy vọng có ngày rồi trời sẽ sáng trở lại...
Và cũng vào thuở đó, người ta hô hào lao động v́ lao động là vinh quang nên phong trào tăng gia sản xuất bằng cách nuôi heo rất phổ biến trong các thành phố. Bất cứ chỗ nào người ta cũng có thể nuôi heo được hết.
Heo và nguời ở chung với nhau. Người ta nuôi heo ngay tại Saigon trong những căn nhà lầu, trong một số villa sang trọng mà lúc đó đă đổi chủ, trong nhà bếp, ngoài sân và thậm chí c̣n có người nuôi heo cả…trên sân thượng nữa. Hắn chụp thời cơ nhảy ra làm nghề chích dạo và chữa bệnh cho heo. Phần đông thân chủ của hắn là những cán bộ quyền thế của chế độ mới. Họ cho xe lại đón hắn về nhà khám bệnh cho heo, tiền bạc ṣng phẳng!
Hắn sống lây lất qua ngày để chờ thời. Hắn cảm thấy tuyệt vọng trước một viễn ảnh đen tối không c̣n lối thoát.
Mỗi khi nh́n thấy ghe tàu đậu dưới sông là hắn thầm mơ tưởng viễn vong và ước ao…phải chi nầy, phải chi nọ, v.v…Hắn mơ, hắn ước, hắn cầu nguyện là có thể đưa gia đ́nh đến một nơi nào đó, sẵn sàng làm bất cứ công việc ǵ, miễn sao nơi đó hắn có thể hít thở được không khí thật sự tự do mà thôi...
Rồi một hôm, có một anh bạn đến móc nối hắn v́ biết hắn đă từng du học nhiều năm tại Bangkok và nói được chút ít tiếng Thái, để làm thông dịch khi cần.
…Ra đến bến xe xa cảng Miền Tây, hắn lấy vé chợ đen đi Cần thơ, nơi chôn nhau cắt rún và cũng là nơi mà hắn có rất nhiều kỷ niệm trong suốt 10 năm dạy học tại đó.
Ngủ nhờ qua đêm tại nhà của một em học tṛ cũ trong một tâm trạng hết sức phập pḥng lo sợ bị phường khóm xét hỏi bất tử. Trời vừa hừng sáng th́ gia đ́nh hắn lật đật ra Bến Xe Mới ở lộ 19 Cần thơ thật sớm để lấy vé đi SócTrăng. Hắn rất sợ phải chạm mặt bất ngờ với mấy em sinh viên hay người quen th́ coi như bể hết.
Tại Sóc Trăng, gia đ́nh hắn đổi xe dong tuốt xuống Cà Mau. Tới thị xă Cà Mau khoảng 4-5 giờ chiều. C̣n đang đứng lớ ngớ ở bến xe chưa định hồn không biết phải làm ǵ bây giờ, vừa hồi hợp lo sợ công an xét giấy đi đường và cũng vừa lo lắng không biết người liên lạc có đến đúng hẹn hay không, th́ may thay hắn gặp được một hai người quen ở Đại học Cầnthơ. Họ cũng đồng một cảnh ngộ như gia đ́nh hắn vậy. Trong chuyến đi nầy c̣n có cả nhạc sĩ PMC dẫn theo hai đứa con (anh PMC và các cháu hiện đang sống tại Montréal). Hắn cảm thấy hơi bớt lo đôi chút.
Mướn chiếu ngủ đỡ giữa trời ngay tại bến xe. Nằm trằn trọc, lăn qua lăn lại suốt đêm, đầu óc thật căng thẳng, măi đến 4 giờ sáng th́ có người đến ra dấu cho từng tốp nhỏ đi theo họ xuống băi một cách thật là lặng lẽ.
Nối gót theo người dẫn đường đi một khoảng xa ở phía trước, hắn lôi vợ con hấp tấp bước theo, xuyên qua những con hẻm quanh co giữa các xóm nhà b́nh dân c̣n ch́m đắm trong đêm khuya tĩnh mịch.
Trống ngực hắn đánh th́nh thịch liên hồi. Hắn sợ tất cả: sợ gặp phải tổ dân phố, sợ công an, sợ người lạ, sợ con nít và sợ luôn cả mấy con chó trong xóm.
Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi ngùi đứt ruột v́ phải xa ĺa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đ́nh hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng…
Hắn niệm Phật thầm trong bụng. Rồi ḱa, Cá lớn đậu ch́nh ́nh ngay tại bờ sông trước mắt. Đây là loại ghe bầu để chở hàng trên sông, dài cỡ 12 mét là cùng, có mui bịt kín khoang và ở phía đàng sau là cabine nhô cao lên để tài công lái. Hắn không nói ra nhưng trong bụng hơi lo v́ không biết loại ghe này đi biển có được không?
Thôi th́ đành chịu vậy, vả lại đài radio tiên đoán t́nh h́nh thời tiết ở biển Đông và vịnh Thái Lan khá tốt. Có người c̣n nói tháng ba bà già đi biển v́ biển rất êm vào mùa này. Mấy người tổ chức cho biết là họ đă chuẩn bị kỹ lắm đừng có lo. Máy ghe là máy Yanmar loại mới, 6 hay 7 blocs ǵ đó?
Nói vậy th́ nghe vậy chớ hắn nào có biết ất giáp ǵ đâu.
Tất cả mọi người đều bị ếm trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong khoang ghe, tất cả được chia nhau ngồi chen chút dọc theo hai bên vách. Mọi người đều im lặng. Trên cabine th́ chỉ có tài công và Ba P.“người hướng dẫn” địa phương mà thôi (nghe đâu anh ta là đại úy công an địa phương ǵ đó?)
Tất cả có 69 người khách vừa lớn vừa nhỏ. Ghe mở máy chạy b́nh bịch một cách thong thả xuôi theo gịng nước Sông Ông Đốc đổ ra biển để vào vịnh Thái Lan.
Vĩnh biệt quê hương, vĩnh biệt đất mẹ yêu dấu!
Hai bên sông, xóm làng khi ẩn khi hiện sau những rặng cây bần xanh tươi. Dưới nước, ghe xuồng và tác ráng xuôi ngược không ngơi. Càng ra gần cửa biển ḷng sông càng mở rộng ra.
Bà con trong ghe th́ không ai nói với ai lời nào cả, tinh thần mọi người đều rất ư là căng thẳng v́ chưa ra tới biển. Trời đă bắt đầu tối. Đến khoảng 11 giờ khuya, th́nh ĺnh từ trong màn đêm lóe lên tia sáng chớp tắt của ánh đèn Pile nào đó, rồi chẳng bao lâu không biết từ đâu đến, một chiếc xuồng nhỏ cặp sát vào ghe, sau khi nhận một cái túi ($$$?) do người tổ chức giao, “người hướng dẫn” từ cabine tuột xuống xuồng và biến mất trong đêm tối.
Sắp tới trạm biên pḥng rồi, mọi người đều im lặng, ghe tắt máy tắt hết đèn và thả trôi theo gịng nước. Mọi người đều nín thở im lặng và cầu nguyện thầm trong bụng. Thật là đứng tim trong 25 phút dài bất tận. Qua khỏi trạm kiểm soát một đổi khá xa, máy ghe được mở trở lại xả hết tốc lực về hướng cửa biển. Nhưng không bao lâu th́nh ĺnh ghe bị khựng lại, h́nh như đụng phải vật ǵ ở dưới nước. Mọi người đều xanh mặt hồn vía lên mây. Có 1-2 anh em khỏe mạnh nhảy xuống nước để xem t́nh h́nh thế nào. Trời ơi ghe bị vướng đáy rồi, xui ơi là xui. Biết làm sao bây giờ?
Nhưng Trời cũng c̣n thương, lối một tiếng đồng hồ sau, nhờ con nước lớn chiếc ghe tự nhiên xút ra khỏi đáy và tiếp tục vọt ra biển với hy vọng có thể ra tới hải phận quốc tế trước khi trời sáng tỏ. Láng cháng dám gặp đám tàu đánh cá quốc doanh th́ phiền phức lắm.
Biển đây rồi, gió thổi ào ào, trời nước mênh mông vô tận. Ghe nhảy sóng một cách cḥng chành, lắc lư làm nhiều người bắt đầu bị say sóng ói mửa tùm lum. Chạy theo hướng nào đây?
Nhiệm vụ này đă được phân công cho anh T. trung úy hải quân, nhưng ra tới biển là anh ta bị say sóng như chết rồi nên không giúp ích ǵ được hết. Té ra anh ta chỉ làm việc trong văn pḥng mà thôi chớ không có kinh nghiệm về hải hành ǵ hết. Có bạn nóng mũi, văng tục Đ.M. đ̣i quăng anh ta xuống biển cho đỡ tức. Nhưng rồi cũng bỏ qua thôi.
Cái la bàn nhỏ xíu được lôi ra để định hướng. Người bàn thế nầy, người nói thế kia, căi cọ om ṣm. Cuối cùng th́ nhắm hướng mặt trời lặng mà chạy cầu may.
Đến quá trưa, th́nh ĺnh tiếng máy nổ khác thường, lạch cạch lạch cạch rồi êm ru bà rù. Anh thợ máy bất đắc dĩ nhảy xuống tháo các bộ phận máy ra, xem cái nầy, ṃ mẫm cái kia, mở ra lấp vào cả tiếng đồng hồ, mồ hôi nhuể nhại, rồi thử quay máy cho chạy. Mọi người đều nín thở. Một lần, hai lần, ba lần, bốn lần…Tất cả đều im lặng chỉ có tiếng gió thổi ào ào bên ngoài ghe mà thôi.
Vô ích: máy hư rồi! Mọi người đều vô cùng thất vọng ra mặt. Trời ơi! Làm sao đây Trời? Gió càng lúc càng thổi mạnh, trời bắt đầu kéo mây đen kịt. Những con sóng to nối tiếp nhau đợt này đến đợt khác, nhồi chiếc ghe lên xuống, lắc qua lắc lại như một cái hột vịt vậy. Ai nấy cũng đều điếng hồn hết. Thế này th́ cái chết cầm chắc trong tay thôi.
Cũng may là trên ghe có một chị đă từng đi sông đi biển rồi nên có một chút kinh nghiệm. Chị ta hướng dẫn các anh tài công bất đắc dĩ về cách bẻ càng lái để chặt sóng.
Trước t́nh thế thập tử nhứt sanh, hắn và một số anh em trên ghe phải thay phiên nhau ra phía sau ghe ráng sức kềm cái càng lái. Đó là một cái cán gỗ rất dài để điều khiển bánh lái. Kềm nó cho đúng hướng rất nặng nề và rất khó khăn, v́ sóng to và gió quá mạnh.
Những lúc ghe nghiêng th́ rất nguy hiểm, không khéo là bị cái càng lái gạt té xuống biển như chơi. Nhiều lúc hắn cũng xém bị hất xuống biển. Trời kéo mây thêm nữa, gió bắt đầu nổi lên càng lúc càng mạnh hơn đẩy chiếc ghe đi rất nhanh, nhồi lên hụp xuống, thật kinh hăi hết sức.
Đàng xa hiện rơ dần dần bóng dáng lờ mờ của một ḥn núi mà có người cho biết đó là đảo Thổ Châu, cách đảo Phú Quốc 100km về hướng nam. Tâm trạng của anh em lúc đó thật phức tạp, mừng lo lẫn lộn v́ nếu ghe tấp vào đảo th́ khỏi phải chết, nhưng lại phải bị đi tù mút chỉ cà tha.
Nhưng tự nhiên lối một giờ sau th́ gió lại đổi hướng thổi bạt chiếc ghe trở ra, đi măi và đi măi ra khơi...Thỉnh thoảng có những con cá nược phóng theo hai bên ghe như muốn lội đua cùng chiếc ghe khốn khổ.
Hắn cảm thấy ḿnh bất lực hoàn toàn trước hoàn cảnh bi đát nầy. Chỉ nằm chờ chết. Ôm vợ con vào ḷng mà đầu óc thật ngổn ngang trăm ngàn ư tưởng không mạch lạc.
Hắn lâm râm niệm chú…Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn, quảng đại linh cảm Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát...
Trước cái chết gần kề ḿnh mới cảm nhận được giá trị của cái sống. Hắn nghĩ đến lúc ghe bị lật úp chắc hăi hùng lắm. Hắn cảm thấy thật ân hận khi nh́n vợ và hai đứa con c̣n quá nhỏ tuổi. Không lẽ nghiệp quả của ḿnh nặng nề như thế nầy sao? Không lẽ số ḿnh là số con rệp hay sao? Rồi hắn nhớ lại lá số tử vi do một thầy lập cho hắn hơn 15 năm về trước, lúc hắn vừa mới ra trường chưa có vợ con ǵ hết. Lá số đâu có nói là hắn sẽ phải chết thảm như vầy đâu. Hắn nhớ ông thầy có nói hắn có sao Thiên di nên sau nầy phải ở xa nơi chôn nhau cắt rún ǵ đó, ngoài ra cung mạng và cung phúc đức của hắn cũng khá tốt. Trước khi đi một ngày, vợ chồng hắn cũng có lên chùa ở miệt Phú Nhuận để trước lễ Phật sau là nhờ Thầy trụ tŕ xem coi có đi được hay không. Sau khi bấm độn, Thầy nói: được! Nhớ tới đây, hắn lại lên tinh thần. Hắn nghĩ chết sống đều do số mạng cả, lo làm chi cho mệt mất công...
Mọi người trên ghe đều kiệt sức, đói khát, ngủ gà ngủ gật, chỉ chờ một phép lạ đến cứu ḿnh mà thôi. Bao nhiêu tàu bè nhấp nhô ở chân trời để rồi cũng rẽ sang hướng khác. Tối đến, mỗi khi thấy ánh đèn đàng xa, th́ bọn hắn đốt đuốc lên làm hiệu, nhưng cũng chỉ toi công vô ích, thất vọng hoàn toàn.
Rồi th́ chuyện ǵ sẽ đến th́ nó phải đến. Qua ngày thứ ba, có một chiếc tàu đánh cá Thái Lan xăm xăm tiến tới. Đây là loại tàu khá lớn và có cả radar. Mọi người đều kinh hoàng và hồi hộp. Đàn bà con gái lo t́m dầu mỡ bôi lên mặt lên mày cho nó thúi tha ghê tởm. Tàu Thái xáp gần, trên bong lố nhố 5-7 tên có vẻ dữ dằn, rồi th́ tàu cặp vào sát ghe kêu một cái rầm. Ghe bị cḥng chành dữ dội và nứt một bên hông. Thật khiếp đảm không lường. Mọi người trên ghe đều ngồi yên thinh thích và hồi hộp, im lặng chờ đợi.
Bọn Thái nhảy qua ghe, 4-5 tên cầm mă tấu, c̣n một tên th́ cầm súng lục.
Nhờ biết chút ít tiếng Thái lúc đi du học mấy năm ở Bangkok, nên hắn lănh nhiệm vụ làm thông dịch và thương thuyết với bọn hải tặc. Lúc đầu, tụi nó hơi giật ḿnh không hiểu tại sao trên ghe có người lại biết nói tiếng Thái. Hắn cắt nghĩa, hắn tả oán hoàn cảnh bi đát và xin tụi nó giúp đỡ. Thằng cầm súng, có lẽ là tên đầu đảng, chĩa con chó lửa vào đầu hắn và bắt buộc hắn nói lại với tất cả là phải nộp hết ṿng vàng tiền bạc, bằng không th́ tụi nó sẽ bụp một phát là đời hắn tiêu tùng luôn. Hắn rất lạnh xương sống. Hắn năn nỉ hụt hơi thiếu điều lạy lục tất cả mọi người trên ghe nên đưa hết tiền bạc ra để đổi lấy mạng sống. Tụi nó lục lạo, tung bới tất cả đồ đạt, ṃ xét khắp nơi, đổ bỏ cả thùng nước ngọt để t́m kiếm nữ trang cất dấu trong đó. Cũng may là tụi nó không có làm hỗn với ai hết. Xong rồi th́ rút đi rất nhanh. Ghe bị vô nước, tuy chưa nhiều nhưng cũng phải lo tát ra.
Không bao lâu sau th́ có một chiếc tàu đánh cá khác lại đến để...ăn mót. Có lẽ là bọn hải tặc dùng máy radio thông báo với nhau. Trước khi đi tụi sau nầy c̣n oái oăm bắt theo một cháu bé 2-3 tuổi ǵ đó, không biết để làm ǵ khiến cha mẹ đứa trẻ quá khiếp đảm kêu gào khóc la thảm thiết. Nhưng may thay, độ một giờ sau th́ tụi nó quày trở lại trả đứa nhỏ.
Giữa trưa hôm đó th́ lại có một chiếc tàu đánh cá thứ ba đến, nhưng lạ thay, tụi nó không xáp vô mà chỉ đậu ở ngoài xa cách ghe vài chục thước và ra hiệu biểu ḿnh qua.
Một lần nữa, hắn lại xung phong lănh nhiệm vụ nầy. Nhảy xuống biển lội thiếu điều hụt hơi hắn mới qua được bên tàu Thái. Tụi nầy có vẻ hiền hơn mấy đám kia. Hắn trổ tài ngoại giao, quọt quẹt ba mớ tiếng Thái, nhờ họ giúp kéo ghe vào bờ. Tụi nó chịu nhưng đ̣i ăn tiền. Hắn lại trở về ghe, bàn với mọi người và năn nỉ người nào c̣n dấu được tiền bạc th́ xin làm ơn làm phước bỏ ra chớ không th́ chết hết cả đám. Cuối cùng th́ cũng gom góp được thêm một số ít tiền đem nạp cho tụi cướp. Bọn chúng suy nghĩ sao đó không biết, nhưng cuối cùng cũng chịu. Chúng nhảy qua ghe quan sát t́nh h́nh một lúc, xong chúng hè nhau tháo cái máy ghe đem về tàu đánh cá và ra lệnh cho tất cả mọi người phải leo qua tàu của chúng, chỉ chừa lại hai người ở lại để điều khiển chiếc ghe. Sau đó th́ chúng thả dây cột chặt chiếc ghe để tàu đánh cá kéo đi. Đến đây th́ mọi người đều thở phào, phấn khởi lên tinh thần thấy rơ.
Chúng nấu cơm cho ăn. Thức ăn chính là món cá chiên, ăn ngon ơi là ngon. Nước đá uống thả giàn, v́ có cả hầm lận. Chúng nói chưa vô bờ liền được v́ c̣n phải đi kéo lưới thêm một ngày nữa. Muốn sao th́ ḿnh đành phải chịu vậy. Tối đến, mưa trút xuống dữ dội như thác nước, ai nấy đều ước loi ngoi như chuột và lạnh cóng run cầm cập. Thằng nhỏ con trai ba tuổi của hắn bắt đầu sốt nóng và ho nhiều. Chắc là nó bị cảm nặng hay bị sưng phổi ǵ đó. Vợ hắn đè nó ra lấy dầu cù là cạo gió, rồi sau đó hắn ṃ được trong túi xách một hũ ampicilline, đem ra lụi cho thằng nhỏ mấy phát nó mới bớt sốt...
Giữa đêm có tiếng la thất thanh từ chiếc ghe ở phía sau: Anh S. té dưới biển rồi. Mọi người đều hốt hoảng. Hắn báo động cho bọn Thái hay liền. Tàu bớt máy và quay ngược trở lại, rọi đèn pha rà tới rà lui khắp mặt biển. Sau một hồi t́m kiếm th́ thấy nạn nhân đang ngụp lặn dưới nước. Chúng thả phao xuống và kéo anh ta lên. Khỏi phải nói người mừng nhất là vợ con của anh ta.
Qua đêm hôm sau khoảng 1-2 giờ khuya, th́nh ĺnh chúng ngưng tàu lại. Ai nấy đều nhốn nháo lên. Có chuyện ǵ đây? Chúng kêu hắn lại và chỉ ở chân trời phía trước có một đốm đỏ cỡ lớn hơn đầu điếu thuốc một chút, chớp tắt đều đặn từng chập. Chúng bảo đó là ánh đèn của ngọn hải đăng nằm trên một ḥn đảo nhỏ không mấy xa bờ Thái Lan cho lắm. Chúng bảo là không thể kéo ḿnh vô đất liền được v́ sợ cảnh sát Thái bắt, nên ra lệnh bắt buộc tất cả phải trở về ghe ngay lập tức. Ai nấy đều nhao nhao lên quá sợ v́ ghe đă bị bể rồi, lại nữa đất liền c̣n xa quá, làm sao đây? Mọi người xúm nhau năn nỉ bọn chúng bằng đủ các thứ ngôn ngữ để xin chúng kéo tiếp vào bờ. Vô ích. Có hai ba chị dằn co khóc la dữ quá khiến chúng nổi dóa phải đè khiêng thải qua ghe. Khi mọi người trở về hết bên ghe, bọn Thái liền chặt dây và rồ máy vọt mất trong đêm tối...
Ghe tiếp tục trôi chầm chậm theo sóng nước. Biển rất yên. Trời dần dần sáng tỏ. Đàng xa, bóng dáng của một trái núi bắt đầu xuất hiện lờ mờ ở chân trời phía trước và càng lúc càng rơ nét thêm hơn. Hầu như tất cả bọn đàn ông con trai đều kéo róc nhau lên ngồi trên mui ghe, hồi hộp chờ đợi…
Chầm chậm và chầm chậm chiếc ghe định mệnh từ từ trôi về hướng núi... 10 giờ, rồi 11 giờ, trái núi lần lần hiện ra rơ nét thêm, có thể nh́n thấy những đám rừng trên cao chen lẫn những tảng đá to tướng xám x́ xám xịt,...11 giờ ruỡi mọi người hết sức hồi hộp. C̣n khoảng 200 mét th́ tới bờ. Rồi 100 mét… Rồi 50 mét… th́nh ĺnh lườn ghe chạm đá ngầm kêu rồn rột, cḥng chành lắc qua lắc lại, nghiêng qua một bên và rồi dừng hẳn lại.
Hắn và các bạn cùng phóng xuống nước chỉ tới ngang ngực mà thôi. Chân hắn vừa chạm đất th́…nước mắt hắn cũng tuôn trào ra v́ quá vui mừng và quá xúc động.
Thế là thoát chết!...
Khi tất cả mọi người trên ghe đều vô được trong băi cát, hắn và vài người bạn mới đi ṿng qua các đồi nhỏ, len lơi giữa đám cây rừng hoang dă, theo đường ṃn ṿng qua phía bên kia núi. Th́nh ĺnh, ngước lên vách núi ở đàng xa bọn hắn thấy có bóng dáng một người đang đi lơn tơn. Hắn và mấy người bạn đều đồng loạt la lên, ra dấu bằng cách quơ tay quơ chân tới tấp. Người đó đă nhận thấy và đi chầm chậm về hướng của bọn hắn. Đó là một anh lính Thái có nhiệm vụ gát trạm đèn pha trên đảo hoang nầy. Ngoài ra không có nhà cửa của dân cư nào khác tại đây hết. Hắn bèn tŕnh bày sơ sơ hoàn cảnh cho anh ta biết. Anh ta lập tức trở về đồn và điện vô đất liền. Anh cho biết đây là một đảo nhỏ của Thái Lan nằm ngoài khơi, không mấy xa thành phố duyên hải Rayong, 150km về phiá nam của thủ đô Bangkok, Thái Lan.
Thế là kể như thoát nạn rồi, nhưng để cho chắc ăn, tối hôm đó hắn và vài người bạn lẻn xuống chiếc ghe và dùng búa đập phá cho nước vào thêm trong hầm khoang để khỏi bị cưỡng bách kéo ra khơi trở lại.
Sáng ra, một tàu cảnh sát Thái đến đón tất cả 69 người về sở cảnh sát Rayong để lấy lời khai và làm thủ tục nhập cảnh. Chấm dứt một cuộc vượt sóng kinh hoàng! Cái giá phải trả cho sự Tự Do!...
Ngủ tại đây một đêm, hôm sau th́ tất cả mọi người đều được đưa về trại tỵ nạn Laem Sing. Đó là ngày 31 tháng 3 năm 1980.
Ngày 22 tháng 6 năm 1980, hắn cùng vợ và hai đứa con được bốc đi định cư tại Canada, xứ lạnh t́nh nồng, đất lành chim đậu, cuộc đời trước mặt đổi thay và hắn vẫn tiếp tục đi…
Nguyen Thuong Chanh and his family arrived in Montague last week after a three month odessey from South Vietnam, and despite the culture shock and homesickness for family and friends in Saigon, they are glad to be here.
Thuong Chanh, his wife Ngoc Lan, five year old daughter Ngoc Lan Chau and three year old son Thuong Nghia, left their home on March 25, joining the ranks of boat people on the precarious voyage to Thailand. Pirates and lack of food and water marked the grueling trip and the four arrived at a refugee camp in Thailand with only the clothes on their backs and no shoes.
Thuong speaks English but had difficulty finding the words to describe their feelings upon arriving in Montague last Tuesday night and being ushered into a fully furnished, grocery stocked mobile home.
“ We lost everything in Vietnam but we have more here” marvelled Thuong. Despite the upheaval in their lives and the uncertainty of a new country, the Nguyens covet their newfound freedom.” We can go to sleep at night without fear of the police breaking in”, related Thuong and added “freedom is priceless”.
He made a few remarks about the political climate in his country and then nervously requested that any such comments be omitted from any story written about them.The fear of reprisals still apparently looms large in their minds after years of conditioning to the communist regime in their homeland.
Thuong is amazed at the hospitality they have received in Montague. “I walked down the street and people said hello and I've never met them before”, he related with pleasure.
Accustomed to a few bowls of rice and a small piece of meat or fish as their daily diet, the Nguyens may be a while getting used to their refrigerator full of western foods. They are also trying to get used to the slow pace of the area after the bustle of Saigon.
“It's so quiet here” he exclaimed adding, however, that the Island landscape is similar to the resort area of Dalat which is 300 km from Saigon.
Training in English is the priority in their lives right now and as for the future both have hopes of eventually being able to return to the professions they had in Vietnam. Thuong is a veterinarian and his wife a pharmacist.
Hillcrest United Church, St Mary's Parish, and a group from Cardigan have sponsored the Nguyens.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.