So với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, số lượng bằng sáng chế và công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam còn thấp, có thể nói là quá thấp. Chất lượng rất kém, thường bị đánh giá là chưa đáp ứng được kỳ vọng trong việc tạo ra giá trị thực tiễn. Thế nhưng, trong buồi gặp mặt giới trí thức và các nhà khoa học Việt Nam hôm 30/12/2024. Tô Lâm đã có lời yêu cầu như người đang mê sảng: "Phấn đấu đến năm 2030 phải có 100 phát minh, sáng chế, công trình khoa học trong bảng xếp hạng của khoa học thế giới; ít nhất 03 tạp chí khoa học của Việt Nam đạt trình độ khu vực và trên thế giới; đến năm 2045, đội ngũ trí thức Việt Nam đứng đầu khu vực, thuộc tốp đầu thế giới; có hàng trăm nhà khoa học có ảnh hưởng trên thế giới, đạt các giải thưởng quốc tế trên các lĩnh vực”.
Vậy làm sao để Việt Nam đạt được mục tiêu này với thể chế chính trị độc tài và độc đảng hiện nay? Theo thống kê từ Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) thì Việt Nam, trong năm 2022, số lượng bằng sáng chế “đăng ký” quốc tế theo Hiệp ước Hợp tác Sáng chế (PCT) đạt khoảng 25-30 bằng sáng chế/năm. Trong khi đó, cùng năm, Singapore có hơn 1.200; Thái Lan: khoảng 160-200; Malaysia: khoảng 200-300 bằng sáng chế/năm. Trước đó, từ năm 2006 đến 2010, Việt Nam, với số dân khoảng 100 triệu, chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, trung bình mỗi năm có 1 bằng sáng chế. Năm 2011, không có bằng sáng chế nào được đăng ký.
Riêng các bằng sáng chế tại đất nước Hoa Kỳ, Singapore, năm 2011, với dân số khoảng 4,8 triệu người, có 647 bằng sáng chế tại Mỹ, tương đương khoảng 134,8 bằng sáng chế trên một triệu dân. Malaysia: Với dân số khoảng 27,9 triệu người, có 161 bằng sáng chế tại Mỹ trong năm 2011, tương đương khoảng 5,8 bằng sáng chế trên một triệu dân. Thái Lan: Với dân số khoảng 68,1 triệu người, có 53 bằng sáng chế tại Mỹ cũng trong năm 2011, tương đương khoảng 0,8 bằng sáng chế trên một triệu dân.
Còn với các nước có nền khoa học, công nghệ phát triển cao hơn như Hàn Quốc thì năm 2011, có 12.262 bằng sáng chế tại Mỹ. Với dân số khoảng 50 triệu người, tương đương khoảng 245,2 bằng sáng chế trên một triệu dân. Nhật Bản: cùng năm, có 46.139 bằng sáng chế tại Mỹ. Với dân số khoảng 127 triệu người, tương đương khoảng 363,7 bằng sáng chế trên một triệu dân.
Tóm lại, nguyên nhân dẫn đến hạn chế này thì nhiều, nhưng dưới chế độ chủ trương “ngu dân” của csVN, thì làm sao có chiến lược rõ ràng để thúc đẩy nghiên cứu theo hướng giải quyết bài toán thực tiễn, đáp ứng nhu cầu thị trường và doanh nghiệp. Các quỹ tài trợ nghiên cứu thường ưu tiên các công trình mang tính lý luận hoặc theo định hướng của cơ quan quản lý, thay vì tập trung vào các nghiên cứu ứng dụng. Nhưng căn bệnh tham nhũng của chế độ csVN tràn lan từ trên xuốg dưới, thì lấy đâu còn tiền mà đầu tư vào trí tuệ để phát triễn công nghệ. Chỉ có một giải pháp duy nhất là phải thay đổi chế độ đa nguyên đa đảng thì dân trí Việt Nam mới có cơ hội phát triễn ngang tầm cao thế giới.
Lão Thất