07/26/20
Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ luôn được coi là cái nôi của nền Dân Chủ tân tiến.
Ngày nay xem ra mô h́nh „Tự Do“, „B́nh Đẳng“ và „Huynh Đệ“ này đă thất bại.
Chuyện ǵ đă xảy ra?
Nguyên tác: Kerstin Kohlenberg (1)
Lược dịch: Nguyễn hữu Mỹ Nga (2)
Vào một buổi sáng tháng 2 năm 1832 có một chàng thanh niên người Pháp đă giă từ nước Mỹ sau 10 tháng tạm trú ở đây, nơi đă lưu lại nhiều điểm son nổi bật khiến hai năm sau đó anh đă bỏ công ngồi viết lại những ǵ ḿnh đă mục kích về xứ sở xa lạ này. Chàng thanh niên này lớn lên trong một lâu đài ở Normandie, đă học Triết và Luật, có một người con với cô nhân viên của ḿnh và hành nghề luật sư tại Versailles.
Điều nổi bật khiến anh khâm phục và cảm thấy mới lạ là cuộc sống ḥa đồng ở Mỹ. Ở đây không có lâu đài, không có công tước, bá tước ǵ cả, cũng không có sự phân chia thành phần trong xă hội, người được phép sở hữu đất đai hay bị người khác cấm đoán…. Đa số người Mỹ làm việc cho chính bản thân họ, họ là ông chủ của chính ḿnh. Người dân được tự do chọn lựa, quan toà chỉ thi hành trách nhiệm trước hiến pháp mà thôi. Mọi người dân Mỹ đều b́nh đẳng. Từ lúc mới sinh chẳng ai có giá trị hơn ai. Anh chàng người Pháp đă bị mê hoặc trước sự b́nh đẳng của mọi người dân của xứ sở này, một b́nh đẳng khiến cho dân Mỹ trở nên những con người toàn thiện, họ đến với nhau trong tinh thần chừng mực và tôn trọng lẫn nhau.
Tên của chàng thanh niên trẻ tuổi đó là Alexis de Tocqueville, anh mất vào năm 1859. Anh là người sáng lập ra khoa „Chính Trị Học Đối Chiếu“. Cuốn sách viết về nước Mỹ của anh mang tên „nền Dân Chủ ở Mỹ“. Đây là cuốn sách mô tả chính xác nhất về hệ thống chính trị của nước Mỹ, quyển sách mà mọi giáo sư trên khắp thế giới đều khuyên sinh viên của ḿnh nên đọc…..
Ngày hôm nay, một ngày của mùa hè 2020, 200 năm sau, nếu như Tocqueville có quay trở lại nước Mỹ có lẽ anh sẽ thất vọng ghê gớm. Anh sẽ thấy hàng trăm ngàn người đang tột cùng phẫn nộ, khóc lóc và thất vọng trên các đường phố. Anh sẽ thấy những chiếc xe đang bốc cháy mù mịt trong làn khói đầy hơi cay. Anh sẽ chứng kiến những cảnh đụng độ giữa người dân và cảnh sát. Anh sẽ phải trông thấy một vị tổng thống hăm doạ sẽ dùng quân đội và chó nghiệp vụ để dẹp bạo loạn bởi người dân mà ḿnh đang lănh đạo. Và anh cũng sẽ thấy những hàng tít chạy chữ lớn trên các tờ báo mà chính anh sẽ phải ngạc nhiên và hoàn toàn không thể giải thích nỗi:
„Chúng ta đang sống trong một đất nước thất bại“, The Atlantic.
“Một cuộc nổi dậy của người Mỹ”, The New Yorker.
“Tôi chưa bao giờ lo sợ cho nước Mỹ như hôm nay”, The Wall Street Journal.
Tocqueville đă từng viết trong quyển sách của ḿnh „ sự b́nh đẳng là yếu tố khiến nước Mỹ trở nên hùng mạnh“. Với sức mạnh đó, nước Mỹ ngày nay đáng lư ra phải rất cường thịnh, phải là một xă hội lành mạnh nhất, ổn định, vững chắc nhất mà bạn có thể tưởng tượng. Bởi v́ trong hai thế kỷ vừa qua, nước Mỹ càng ngày càng phát triển giống nhau.
Để thấu hiểu điều ǵ đă xẩy ra ở Mỹ, chúng ta chỉ cần hồi tưởng lại một ngày tháng 6 của năm 1776. Nếu không có ngày tháng lịch sử này có lẽ nước Mỹ đă không thể hấp dẫn lôi cuốn Tocqueville đến như thế này.
Ngày đó, luật sư và chính trị gia Thomas Jefferson, đang ngồi ở pḥng làm việc trong một căn nhà thuê ở Philadelphia bên một chiếc bàn xếp, ông đang soạn thảo cho nước Mỹ non trẻ bản tuyên ngôn độc lập tách rời khỏi vuơng quốc Anh. Jefferson viết: “ Những định lư sau đây được chúng tôi tôn vinh: Mọi người được tạo ra như nhau, được Tạo hóa ban cho một số quyền bất khả xâm phạm, bao gồm quyền sống, tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Bên cạnh Jefferson hôm đó là cậu con trai 14 tuổi tên là Robert Hemings. Cậu là người em trai cùng cha khác mẹ với bà Martha, vợ của Jefferson, Robert đă đi theo Jefferson từ Virginia lên Philadelphia.
Đối với Robert, những điều mà Jefferson viết trong bản tuyên ngôn chẳng mang một ư nghĩa đặc biệt nào cả. V́ cậu là một trong 6 người con mà cha của bà Martha đă có với một trong số các phụ nữ nô lệ da đen của ông. Sau cái chết của ông bố, Robert Hemings cùng mẹ và các anh chị của cậu được chuyển nhượng sang cho Thomas Jefferson. Thomas Jefferson đă chọn Robert làm người phục dịch riêng của ḿnh.
Sự b́nh đẳng của Mỹ mà sau này Tocqueville tỏ ḷng khâm phục trên thực tế phải nói là rất chi ư hạn hẹp, sự b́nh đẳng đó không được áp dụng cho người da đen. Người da đen không được quyền sở hữu nhà cửa đất đai, không được quyền bầu cử. Họ cũng không được quyền nuôi giữ con cái của riêng ḿnh. Họ vẫn tiếp tục là vật sở hữu của những người khác. Đối với phụ nữ Mỹ, họ không được bầu cử, tuy nhiên phụ nữ vẫn là những công dân tự do. Ngay cả đàn ông da trắng không có đất đai trong tay cũng bị xem là kém giá trị hơn những người có đất. Trong những năm đầu của nước Mỹ, thành phần dân chúng không có đất đai cũng không được phép đi bầu. Như thế sự b́nh đẳng với đầy đủ tất cả các quyền hạn và tự do trên thực tế chỉ áp dụng cho đàn ông da trắng, cho những kẻ có đất đai và có đóng thuế. Thành phần này chỉ chiếm khoảng 10% dân số.
Nền dân chủ của Mỹ được xây dựng trên một sự dối trá
Mặc dầu vậy cũng có rất nhiều người Mỹ đă nhận ra điều đó và họ đă không ngừng nỗ lực tranh đấu để b́nh đẳng được thực sự áp dụng cho tất cả mọi người. Một trong những nhà tranh đấu này là William Lloyd Garrison.
Garrison sinh năm 1805 trong một ngôi làng nhỏ gần Boston, cha của ông là một viên đại úy và mẹ của ông rất sùng đạo. Ông làm nghề xếp chữ, rồi trở thành biên tập viên cho tờ báo Newburyport Herald. Ông viết những bài báo kêu gọi mọi người nên hạn chế việc uống rượu và luôn đả phá công kích chế độ nô lệ…..
Garrison cư ngụ ở miền bắc nước Mỹ, nơi vốn có nhiều người chống lại chế độ nô lệ. Đa số nô lệ da đen sống ở miền nam, như Robert Hemings. Họ làm việc trong các nông trường trồng bông vải và thuốc lá. Sức lao động được trả công rẻ mạt của họ là nền tảng cho sự giàu sang của tầng lớp chủ nhân. Chính Thomas Jefferson cũng có một nông trại như thế. Ông đặt tên cho nông trại của ḿnh là Monticello, quả đồi nhỏ.
Tuy đa số người dân miền Bắc nước Mỹ không thích chế độ nô lệ, nhưng họ cũng chẳng t́m cách ngăn cản hay lên tiếng chỉ trích cách làm giàu của dân miền nam thời đó. V́ theo họ, chỉ đem lại t́nh trạng bất an rối rắm nhất là khi các nguyên liệu cần thiết cho các nhà máy sản xuất ở miền Bắc của họ được cung cấp từ miền Nam nước Mỹ.
Nhưng không v́ thế mà Garrison đâm ra nao núng ngần ngại…. Năm 1831, trước khi Tocqueville đến thăm nước Mỹ, Garrison thành lập một hiệp hội hô hào xoá bỏ chế độ nô lệ.
Garrison mong muốn nước Mỹ có nhiều b́nh đẳng hơn, một b́nh đẳng thật sự. Nhờ có trong tay một nhà máy in nên ông sáng lập ra tờ báo The Liberator. (Der Befreier=người khai phóng). Trong đó, ông viết những bài b́nh luận lên án khe khắc chế độ nô lệ. Những bài viết của ông thường không được biên soạn ra giấy, mà nhờ có sẵn ư tưởng nung nấu trong đầu nên ông cho xếp ngay vào khuôn chữ của máy để in ra. Có lẽ đó là kết quả của một trạng huống ngột ngạt, khó thở, bực bội tức giận, viết ngắn gọn nhưng có tác dụng như những đoạn Text qua tweet của ngày hôm nay.
Trong số báo đầu tiên của tờ Liberator, Garrison viết: “Tôi sẽ không do dự ngần ngừ khi suy nghĩ, khi viết hay khi nói (…). Tôi rất nghiêm túc - Tôi sẽ không mập mờ úp mở. Tôi sẽ không xin lỗi. Tôi sẽ không nhân nhượng bước lui một ly nào cả. và LỜI KÊU GỌI CỦA TÔI SẼ ĐƯỢC MỌI NGƯỜI NGHE.“. Sau bài báo này Garrison nhận được rất nhiều hăm doạ đ̣i giết ông. Ông đă phải vào ngồi tù mất 7 tuần lễ v́ đă miệt thị kẻ buôn bán nô lệ là „thằng ăn cướp, là kẻ giết người“. Dù bị bắt giam nhưng Garrison không nản chí. Sau khi được thả, ông tiếp tục viết, tiếp tục đi thuyết tŕnh và tiếp tục che dấu cho những kẻ nô lệ trốn chạy chủ nhân của ḿnh. Garrison trở thành một trong những người nổi tiếng nhất nước Mỹ thời bấy giờ.
T́nh h́nh miền bắc nước Mỹ dần dần biến chuyển. Phe nhóm chống đối chế độ nô lệ càng ngày càng quyết tâm hơn. Miền Nam lo sợ chế độ nô lệ sẽ bị hủy bỏ nhất là khi một đảng viên của đảng Cộng Ḥa – Abraham Lincoln - được bầu lên ghế tổng thống vào ngày 6 tháng 11 năm 1860. Ḿền Nam tuyên bố tách khỏi miền Bắc, khởi đầu cho cuộc nội chiến Nam Bắc.
Số báo Liberator cuối cùng được Garrison phát hành khi nội chiến Nam Bắc kết thúc vào tháng 12 năm 1865, miền bắc chiến thắng miền nam. Một vài tuần trước đó, tu chính án thứ 13 được Quốc Hội thông qua, chấm dứt chế độ nô lệ!
Nhưng cuộc đấu tranh cho b́nh đẳng vẫn tiếp diễn, chưa chấm dứt….
Năm 1870 hiến pháp Mỹ có thêm một tu chính án cho phép người da đen được đi bầu. Cũng chính trong năm đó, lần đầu tiên một thượng nghị sĩ người da đen được bầu vào Thượng Viện.
Năm 1964 việc phân biệt chủng tộc đă bị cấm ngặt trong các trường học, các rạp chiếu phim, trên các xe Bus và trong rất nhiều cơ sở công cộng.
Năm 1966 lần đầu tiên có một bộ trưởng người da đen trong chính phủ liên bang.
Năm 1990 lần đầu tiên có một người da đen được bầu lên ghế thống đốc tiểu bang.
Năm 1999 lần đầu tiên có một người da đen được bầu vào ghế chủ tịch ban giám đốc điều hành của 1 trong 500 công ty lớn nhất ở Mỹ.
Năm 2008 Barack Obama, người da đen đầu tiên được bầu làm tổng thống Mỹ.
Nếu như ngày nay có chuyên gia nào nhận lănh nhiệm vụ nghiên cứu toàn bộ các luật lệ, sắc lệnh và quy định từ liên bang cho tới các quận hạt của Mỹ, vị đó sẽ nhận ra rằng, nước Mỹ càng ngày càng trở nên b́nh đẳng hơn (trên giấy tờ văn kiện).
Ngày nay không c̣n bất cứ một điều khoản nào cho thấy người da đen có ít quyền hạn hơn người da trắng. Nạn kỳ thị chủng tộc xem ra đă bị loại bỏ hoàn toàn ra khỏi các văn kiện chính thức của nước Mỹ.
Nhưng sự phẫn nộ và bất măn vẫn c̣n đang tiếp diễn.
Vậy phải làm sao cho phù hợp với nhau đây?
Không có b́nh đẳng cho tất cả mọi người
Cái ngày bắt đầu xảy ra nhiều chuyện lộn xộn, những chuyện mà lúc này đang tiếp diễn trên các đường phố, chính là ngày 2 tháng 7 năm 1964. Ngày đó Lyndon B. Johnson, tổng thống thuộc đảng Dân Chủ, đi ngủ sớm, nhưng ông vẫn trằn trọc không ngủ được như Bill Moyers, phát ngôn viên chính phủ, đă cho biết trong một cuốn sách sau này.
Johnson nằm đọc lại bản tin của một số tờ báo lớn, ấn bản vào ban chiều, bản tin viết về ông và về đạo luật mà ông vừa kư trong ngày hôm nay: “Civil Rights Act” (CRA; Luật Quyền Dân Sự). Đó là đạo luật chấm dứt tất cả mọi phân biệt chủng tộc, một phân biệt mà miền nam nước Mỹ vẫn đang tiếp tục thực hành cho đến thời điểm này.
Kể từ 18:45 giờ, thời điểm mà TT Johnson đặt bút kư vào đạo luật, một đạo luật quyết liệt rơ ràng như những khúc ngoặc bất chợt trong biểu đồ của EKG (biểu đồ đo tim mạch): không c̣n ai có quyền cấm đoán cản trở người da đen bước chân vào khách sạn, vào nhà hàng ăn hay thậm chí bước vào một quán ăn bên đường. Không c̣n bất cứ một nhà vệ sinh hay các bồn uống nước công cộng nào chỉ dành riêng cho người da trắng. Các rạp chiếu phim, các hí viện và xe Bus phải dẹp bỏ hết các hàng ghế dành riêng cho người da đen.
“Civil Rights Act” được thông qua bởi một đa số đa chiều, một đa số không chỉ bao gồm số đông dân biểu của đảng Dân Chủ của TT Johnson, mà hầu hết các vị dân biểu của đảng Cộng Ḥa đă bỏ phiếu thuận. Tưởng cũng nên nhắc lại là từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong thập niên 1930, hai đảng DC và CH đă hợp tác với nhau làm việc chặt chẽ. Họ đă cùng nhau thảo ra kế hoạch New Deal, vực được nền kinh tế của Mỹ ra khỏi t́nh trạng suy thoái ….
Chiều tối ngày 2 tháng 7 năm 1964 khi các báo chí cùng ca ngợi thành quả lịch sử này, tôn vinh Johnson như một vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ, nhưng chính cá nhân Johnson lại u sầu không vui. Ông biết rằng, với chữ kư của ḿnh, tuy sẽ khiến xă hội Mỹ tốt đẹp hơn, nhưng đồng thời cũng sẽ gây ra những chấn động không nhỏ….
Cho tới thời điểm này đảng Dân Chủ là đảng của giới thợ thuyền và là đảng của một miền Nam nghèo nàn. Đảng Dân chủ tuy chủ trương cổ súy nghiệp đoàn thợ thuyền công nhân và chương tŕnh trợ giúp của chính phủ nhưng đứng đằng sau là một tập thể của người da trắng, những kẻ muốn tiếp tục duy tŕ sự phân biệt chủng tộc. Và lúc này, chính Dân chủ miền Nam lại bỏ phiếu chống đạo luật Civil Rights Act.
Trái lại đảng Cộng Hoà cho tới lúc đó là đảng của các nhà tư bản và của một miền bắc giàu có, cổ vũ cho sự tự do kinh doanh và ủng hộ việc hủy bỏ nạn phân biệt chủng tộc.
Ít tháng sau, trong cuộc bầu cử mùa thu năm 1964, ứng cử viên Barry Goldwater của đảng Cộng Hoà, ông là một trong thiểu số những thượng nghị sĩ chống lại CRA. Ông chỉ trích đạo luật này đi quá sâu vào thẩm quyền quốc gia. Ông thất cử. Nhưng đây là lần đầu tiên đảng Cộng Hoà thắng cử trong tất cả những tiểu bang của Deep South, là những tiểu bang xưa nay vốn vẫn bầu cho đảng Dân Chủ.
Johnson là con của một nông gia nghèo lớn lên ở Texas. Ông hiểu rất rơ, ở miền Nam màu da vẫn mang một tầm quan trọng như thế nào. Theo nhận xét của ông, một người da trắng dù nghèo nhất nhưng cũng luôn cho rằng ḿnh vẫn có giá trị hơn một người da đen giàu nhất.
Đạo luật do Johnson kư đă làm suy yếu (tổn thương, đụng chạm) „cảm giác ưu việt“ của những người da trắng vốn luôn tự coi ḿnh có giá trị hơn người da đen.
Năm 1968 nhà đấu tranh dân quyền da đen Martin Luther King Jr., người cộng tác sát cánh với Johnson, bị một cựu quân nhân và là một tay có tiền án nhẹ, 40 tuổi, ám sát chết. Anh quân nhân này muốn tái lập sự thống trị của người da trắng.
Cái chết của Luther King thời đó đă tạo chấn động không khác ǵ như cái chết của George Floyd ở Minneapolis cách đây hai tuần, chỉ khác nhau ở chỗ là thời 1968 sức hủy hoại đập phá nhiều hơn bây giờ: hơn 100 thành phố xảy ra các cuộc bạo loạn của người da đen, có khoảng 40 người chết, hàng trăm người bị thương, hàng ngàn người bị bắt giam….Phố xá của thủ đô Washington D.C. hầu như bị đập phá toàn bộ. 1200 căn nhà bị đốt. Chicago có 11 người chết, 500 người bị thương, 2150 người bị bắt. Baltimore, Kansas City, Detroit, New York đâu đâu cũng diễn ra những cảnh tượng tan hoang. Đó là cuộc nổi dậy chống đối lớn nhất kể từ thời nội chiến tới nay.
T́nh huống càng lúc càng sôi sục, cuộc sống của người da đen trên thực tế vẫn không có những chỉ dấu tiến bộ, dù các luật chống kỳ thị đă được ban hành. Thí dụ ở Los Angeles người da đen chỉ được sinh sống trong một số khu vực mà thôi. Nơi nào họ nhờ môi giới mua được nhà, nơi đó dân da trắng lại đe doạ không cho họ đến ở. Dân da trắng cũng là kẻ ngăn cản việc xây cất các loại nhà xă hội. Ngoài ra, người da đen luôn bị ngăn cản trong mọi cách thức để thăng tiến vươn lên, họ không vay được tiền để mua nhà cho chính họ.
Sau khi ṭa án tối cao ở Mỹ, theo đúng luật, phán quyết cho học sinh da đen cũng phải được nhận vào các trường của học sinh mà đa số là da trắng và ngược lại, sự kiện này đă bị dân da trắng nổi lên chống đối. Thậm chí khi trẻ con da đen theo xe Bus của trường chạy vào các khu vực da trắng th́ nhiều người da trắng dọn ra khỏi các khu vực ấy và cho rằng chẳng thà dọn ra ngoại ô c̣n tốt hơn…..
Tuy không c̣n những đạo luật lớn lao bảo vệ sự b́nh đẳng giữa đen với trắng nữa nhưng những quyết định „nho nhỏ“ trong cuộc sống thường nhật đă điều khiển tất cả: nhà địa ốc, nhà thầu xây cất, tư vấn ngân hàng, phụ huynh…..
Luật CRA trở thành một thí dụ điển h́nh của quyền lực và bất lực chính trị. Cứ mỗi thành công từ chính quyền trung ương trong việc tạo b́nh đẳng giữa đen và trắng, th́ sự chống đối bên dưới lại gia tăng cường độ. Người da trắng ở Mỹ thường có thái độ giống như một số nhà quư tộc tại Âu Châu: Dân chủ tuy là điều tốt đẹp, nhưng cũng cần phải có cái ǵ khác biệt giữa „chúng tôi“ và „người khác“.
V́ vậy, một số thành phố ở Mỹ vẫn tồn tại nạn phân biệt màu da, tách biệt nghiêm ngặt thành hai xă hội người da đen và người da trắng. Và nhiều người trong thế giới da trắng vẫn có cái nh́n trịch thượng, cái nh́n của một kẻ trên đối với kẻ dưới là người da đen.
Luật CRA c̣n ấn định rằng: cơ sở giáo dục của tôn giáo nếu không chấp nhận thâu nhận học sinh da đen sẽ không được miễn thuế. Điều luật này khiến cho các cơ sở giáo dục của tôn giáo tại Mỹ, vốn là chủ nhân của nhiều trường trung và đại học, gặp khó khăn không ít. Cuối thập niên 1960, tầm quan trọng của họ bắt đầu lu mờ. Nhiều sinh viên hiện đang ủng hộ cho tự do t́nh dục, tranh đấu cho nữ quyền và quyền tự quyết đă quay lưng lại với họ. Đă thế bây giờ cơ sở giáo dục lại c̣n phải đóng thuế!!
Các cơ sở giáo dục tôn giáo đă có thể giải quyết những khó khăn nói trên, nếu họ bằng ḷng mở cửa cho sinh viên da đen. Nhưng các mục sư ở các tiểu bang miền nam nhất quyết không chấp nhận bất cứ một h́nh thức thỏa hiệp nào. Tháng 6 năm 1964 một nhóm người da trắng đă ngăn chận không cho những nhà đấu tranh dân quyền da đen tham dự buổi lễ phụng vụ trong thành phố St. Augustine ở Florida. Theo họ, người da đen tuy cũng là những Ki-tô hữu như họ, nhưng trong mắt người da trắng, người da đen không phải là Ki-Tô hữu giống như họ. Trong vấn đề thuế má, các cơ sở giáo dục tôn giáo đă thắng kiện với viện dẫn quyền tự do tôn giáo của họ.
Một điều luật khác trong đạo luật CRA là các đại học phải dành một số chỗ cho sinh viên da đen và sinh viên thuộc các sắc dân thiểu số khác. Bởi v́, theo lư luận của tổng thống Johnson, việc được nhận vào các đại học danh tiếng vốn là một h́nh thức chạy đua, trong đó có một số lực sĩ bị thua thiệt. Cha mẹ của sinh viên da đen trong nhiều trường hợp v́ nghèo và tŕnh độ học vấn thấp, nên con cái của họ thường không có cơ hội để được thâu nhận vào các trường học nổi tiếng. Do đó phải có một quy chế mới.
Nhưng quy chế đó chỉ có giá trị trong vài năm. Một sinh viên da trắng đă kiện lên toà án, v́ cậu không có được một chỗ học y khoa trong Đại Học Davis ở miền bắc California. Ṭa án tối cao đă xử thắng cho cậu ta với phán quyết, trường đại học không được phép đưa lư do là v́ phải dành chỗ theo tỷ lệ cho sinh viên da đen và các sắc dân thiểu số khác. Tuy nhiên đại học có thể lấy yếu tố sắc dân thiểu số để cho thêm điểm vào đơn xin nhập học. Sau phán quyết đó c̣n có thêm những phán quyết khác đă giới hạn các biện pháp tạo b́nh đẳng.
Từ đó, theo một nghiên cứu của New York Times, tỷ số sinh viên người da đen trong các đại học được ưa chuộng ở Mỹ không c̣n tăng nữa. Sinh viên da đen vẫn chỉ chiếm 6% trên tổng số sinh viên của Semester đầu tiên, mặc dầu số thanh niên da đen tuổi vào đại học chiếm tỷ lệ 15% trên tổng số thanh niên ở tuổi đại học.
Cho đến khi Barack Obama, một cựu sinh viên của Đại Học Columbia ở NY và của Đại Học Havard ở Cambridge, Massachussets, bước chân vào Ṭa Bạch Ốc ngày 20 tháng 1 năm 2009, sự kiện này đă tạo cho thế giới cái cảm tưởng là nạn phân biệt chủng tộc cuối cùng đă bị tiêu diệt hoàn toàn ở Mỹ. Người da đen đă từ lâu hành nghề cảnh sát, giáo chức, thẩm phán, nhà báo. Môt số người da đen đă được vinh danh trong địa hạt nghệ thuật và truyền thông. Xem ra những cuộc chạy đua đường trường của người da đen qua các rào cản đă chấm dứt, như thể những xung đột tranh chấp giữa da trắng và da đen đă chấm dứt và những kẻ chủ trương phân biệt chủng tộc màu da như đă thua trận….
Nhưng trên thực tế, đây chỉ là một trận chiến mà người da đen đang thua, một trận đánh trong cuộc chiến dai dẳng vẫn c̣n đang tiếp diễn, tuy ít đẫm máu hơn ngày xưa. Một trận chiến thể hiện qua những trường hợp người Mỹ gốc Phi bị cảnh sát giết chết, qua những bạo động trên đường phố không thể che dấu trong những tuần vừa qua. Con số những người da đen bị giết v́ thù hận, v́ bị tổ chức Ku-Klux-Klan giết tuy vẫn tiếp tục thuyên giảm từ hàng chục năm qua, nhưng giờ đây, đấu tranh hiện đang được thực hiện trong thánh địa của nền Dân Chủ: pḥng bỏ phiếu!!!
Hết phần I
(1) Kerstin Kohlenberg là một nhà báo người Đức, bà đă từng làm việc cho đài truyền h́nh Đức ZDF và nhật báo Tagesspiegel. Bà hiện là phóng viên quốc tế của tuần báo Đức „Die Zeit“ tại Washington DC, Mỹ.
(2) Nguồn: Die Amerikanische Lüge, Kerstin Kohlenberg, Die Zeit Nr. 25/2020, 10. Juni 2020, tựa tiếng Việt của người dịch