Những phát minh được trao giải Nobel làm thay đổi nền y học thế giới. Nhiều bí ẩn được các nhà khoa học giải mă. Con người thay đổi cuộc sống nhờ những phát minh hữu ích.
Giải Nobel được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1901, được trao hàng năm cho những cá nhân có đóng góp nổi bật trong lĩnh vực: vật lư, hóa học, y học, văn học, kinh tế, ḥa b́nh. Giải thưởng Nobel do nhà hóa học Thụy Điển Alfred Nobel, người đă phát minh ra thuốc nổ, thành lập từ năm 1895.
Đến nay, giải Nobel đă được trao cho nhiều cá nhân xuất sắc với những thành tựu nổi bật. Có những thành tựu được cho là phát minh vĩ đại trong lịch sử làm thay đổi nền y tế thế giới, theo Nobelprize.
Tia X ( Bức xạ điện từ )
Tối 8/11/1895, sau khi rời pḥng thí nghiệm một quăng, sực nhớ quên chưa ngắt cầu dao điện cao thế dẫn vào ống tia catod, Wilhelm Conrad Roentgen quay lại pḥng và bỗng thấy một vệt sáng màu xanh lục trên bàn tuy pḥng tối om.
Nhận thấy điều lạ, suốt 49 ngày, ông ở ĺ trong pḥng thí nghiệm và cuối cùng t́m ra tính chất của thứ tia bí mật mà ông tạm đặt tên là tia X.
Sau khi tia X được phát hiện, nhà khoa học Roentgen đă dùng nó chụp bàn tay vợ, khi tráng ảnh thấy rất rơ từng đốt xương và cả chiếc nhẫn cưới trên ngón tay bà. Bức ảnh này đă được giới thiệu trong hội nghị của Hội vật lư học thành phố Wurtzbourg (Đức) năm 1896 nhằm chứng minh khả năng đâm xuyên của tia X qua cơ thể con người.
Nhà khoa học Wilhelm Roentgen nhận thấy sự tồn tại một loại tia vô h́nh có thể nh́n xuyên qua một lớp chắn sáng, nh́n được bộ phận bên trong của con người, sau 49 ngày ông ở ĺ trong pḥng thí nghiệm. Ảnh: Sciencehistory
Từ đó, tia X được sử dụng rộng răi trong y tế nhằm xác định các vấn đề liên quan đến cấu trúc xương. Ngày nay, tia X c̣n là công cụ chính trong lĩnh vực chẩn đoán h́nh ảnh, phát hiện các vấn đề về nội tạng trong cơ thể con người.
Ngoài y học, tia X c̣n được sử dụng rộng răi trong ngành công nghiệp và các vấn đề liên quan đến kỹ thuật như kiểm tra hành lư ở sân bay. Công tŕnh này mang lại cho Wilhelm Röntgen giải Nobel về vật lư đầu tiên vào năm 1901.
Hormone insulin chữa tiểu đường
Bệnh tiểu đường từng được biết đến từ thời cổ đại, được mô tả như một bệnh suy ṃn với t́nh trạng nước tiểu của người bệnh có vị ngọt. Vào thời điểm đó chưa có biện pháp điều trị hiệu quả nào. Bệnh nhân tiểu đường nhanh chóng trở thành những bộ xương di động và thường chết sớm do bị giảm cân nghiêm trọng.
Năm 1922, Fred Banting và Charles Best thuộc Đại học Tổng hợp Toronto (Canada) đă làm thử nghiệm trên những chú chó. Họ cắt bỏ tuyến tụy của những chú chó, hậu quả là chúng bị tiểu đường. Thử nghiệm này nghe có vẻ tàn nhẫn, nhưng đă giúp cứu sống hàng triệu con người. Sau đó, các nhà khoa học tinh chế ra một hormone hóa học từ tụy và chiết xuất nhiều thành phần từ tiểu đảo Langerhan (được gọi là insulin). Những chất này được tiêm vào chó bị bệnh tiểu đường để thử nghiệm và bệnh tiểu đường đă bị đẩy lùi.
Fred Banting và Charles Best thử nghiệm trên những chú chó để t́m cách chữa bệnh tiểu đường. Ảnh: Sciencehistory
Tháng 5/1922, Leonard Thompson 14 tuổi, đă được điều trị thành công ở Bệnh viện Toronto bằng tinh chất này. Tin tức về sự thành công của Banting và Best đă nhanh chóng lan rộng. Năm 1923, hai nhà khoa học Frederick Grant Banting và John James Rickard Macleod giành giải thưởng Nobel Y học.
Năm 1928, các nhà khoa học đă chứng minh rằng insulin là một protein.
Ngày nay, tiêm insulin trở thành một phương pháp điều trị bắt buộc đối với các bệnh nhân tiểu đường, đặc biệt là những bệnh nhân bị tiểu đường tuưp 1.
Nhóm máu trong cơ thể người
Bác sĩ người Áo tên là Karl Landsteiner được biết đến với tên gọi "cha đẻ của ngành miễn dịch học" khi sử dụng máu của chính ḿnh để xác minh giả thuyết rằng những người khác nhau có các loại máu khác nhau.
Landsteiner cho rằng con người có các loại kháng thể khác nhau trong máu. Một số kháng thể tấn công tế bào máu có chứa loại kháng thể khác. Khi kháng thể tấn công loại khác, gây tiến tŕnh truyền máu bị gián đoạn, thường dẫn đến tử vong.
Karl Landsteiner (1868-1943), người t́m ra nhóm máu trong cơ thể người. Ảnh: Sciencehistory
Vào năm 1901, Landsteiner t́m ra 4 loại máu bằng những thí nghiệm trên máu của ông, đó là: A, B, O và AB. Bảy năm sau, ca truyền máu đầu tiên trên thế giới đă được thực hiện thành công tại New York (Mỹ). Đây được coi là một phát hiện vĩ đại trong lịch sử y học thế giới, cứu sống hàng ngh́n người bằng phương pháp truyền máu.
Năm 1930, Karl Landsteiner đă được vinh danh tại giải Nobel Y học nhờ thành tựu này.