MỘT CÂU CHUYỆN Ư NGHĨA
Ông Winston Churchill –
Cựu Thủ tướng Anh từng nói rằng “chúng ta sinh sống bằng những ǵ chúng ta kiếm được, nhưng chúng ta tạo lập đời ḿnh bằng chính những ǵ mà chúng ta cho đi”.
Thế giới này là một nơi tuyệt vời. Bạn cho đi thứ ǵ th́ sẽ nhận được những điều tốt đẹp đáp lại!
Câu chuyện ư nghĩa dưới đây sẽ giúp mỗi chúng ta nh́n thấy được “nhân” và “quả” của cuộc đời ḿnh, nó cũng sẽ là bài học để mỗi khi bạn đứng trước một hoàn cảnh cần phải gieo hạt tốt, bạn sẽ không ngần ngại hành động.
THOÁT CHẾT V̀ HÀNH ĐỘNG THEO NHÂN – QUẢ
Câu chuyện kể về vị danh tướng Dwight Eisenhower. Ông là một vị tướng 5 sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Thế chiến thứ 2, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại Châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944 – 45 từ mặt trận phía Tây.
Vào thời đó, một hôm ông Eisenhower cùng với đoàn tùy tùng vội vă lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp.
Lúc đó trời đang mùa đông lạnh buốt lại thêm mưa tuyết rơi phủ đầy khắp nơi. Xe đang chạy th́ ông bất ngờ để ư nh́n thấy có hai vợ chồng già người Pháp ngồi ở bên lề đường đang run rẩy v́ cái lạnh giá buốt.
Ông lập tức ra lệnh cho đoàn tùy tùng ngừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp tới hỏi thăm cặp vợ chồng này.
Một viên tham mưu nhắc nhở ông là nên để cho nhân viên công vụ tại địa phương lo chuyện này, phái đoàn phải đi nhanh lên v́ sợ trễ cuộc họp. Ông nói nếu đợi cảnh sát địa phương tới th́ sợ là quá muộn và hai người này sẽ chết cóng.
Sau khi hỏi thăm, ông Eisenhower biết được là họ đang muốn tới Paris để gặp con trai nhưng xe của họ bị chết máy giữa đường.
Ông bảo hai vợ chồng già mau lên xe của ông. Ông liền ra lệnh thay đổi lộ tŕnh, đưa cặp vợ chồng tới Paris trước, rồi ông và đoàn tùy tùng mới lái xe tới tổng hành dinh để dự cuộc họp.
Không ngờ chính sự chuyển hướng bất ngờ ngoài kế hoạch này đă cứu mạng ông! Quân Quốc Xă có tin t́nh báo nên biết chính xác hành tŕnh của ông và đă bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp ŕnh tại các ngă tư. Nếu ông tới th́ sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào ḷng tốt gieo đúng lúc đă giúp ông đổi lộ tŕnh và tránh thoát cuộc mưu sát.
THOÁT CHẾT
Câu chuyện thâm thúy trên đang nói với chúng ta một triết lư mà không phải ai cũng thấu hiểu, tin tưởng.
Sự cho đi hay “gieo hạt” là một quy luật vũ trụ, sự cho đi có ư nghĩa, giá trị chính là ở thời điểm và cách cho. Bạn gieo hạt đúng lúc, có thể thay đổi cả số mệnh và cuộc đời của bạn.
V́ vậy, nếu bạn đang khó khăn, bế tắc,… hăy nh́n lại hành tŕnh mà bạn đă đi qua, sự cho đi đă đúng và đủ hay chưa. Đừng đ̣i hỏi quá nhiều cho bản thân khi chúng ta chưa biết cho đi nhiều hơn.
– Thưa cha, tôi nhận thấy sản phụ nghe thấy tiếng chuông là kinh khủng, nhắm mắt lại, có kẻ run lên. Mà tôi ngờ rằng v́ họ sợ quá mà họ chết ở tiểu khu này nhiều như vậy. Nên tôi yêu cầu cha v́ ḷng nhân, đừng rung chuông nữa, cứ lẳng lặng đi, thưa, có được không ạ?
Suy nghĩ một chút, mục sư đáp:
– Nếu bác sĩ cho rằng có lợi th́ tôi cũng ch́u ư.
– Đa tạ cha!
Hay tin đó, Klein gọi Semmelweis vào pḥng để rầy. Chàng hăng hái giảng giải. Klein ngắt lời:
– Tôi đă bảo thầy rằng bệnh sốt sản hậu do sữa lên và vô phương trị kia mà. Tôi cảnh cáo lần này là lần thứ nh́.
Nhưng Klein quên không ra lệnh cho mục sư cứ rung chuông như trước, thành thử thí nghiệm của Semmelweis vẫn tiếp tục. Tới cuối tháng, kết quả vẫn như cũ, có phần tệ hơn. Không, không phải là họ sợ tiếng chuông. Nhưng lạ quá, họ chết nhiều là vậy, ít nhất cũng 30%, nhưng báo cáo của dưỡng đường chỉ có 3,22%. Th́ ra Klein đă sửa con số để nhà cầm quyền không phái ủy ban lại điều tra.
o0o
Mặc dù vậy, Klein cũng chỉ dấu nhẹm được trong một thời gian thôi, v́ số người chết nhiều quá, đồn tới tai các cụ lớn, các cụ sợ mang tiếng phải cho mở một cuộc điều tra lấy lệ.
Ta c̣n lạ ǵ cái thói điều tra lấy lệ để bịt miệng dân chúng đó. Ủy ban điều tra không có Skoda, Rokitansky, cũng không có cả Semmelweis mà chỉ gồm một bọn bồ bịch của Klein, chẳng biết chút ǵ cề bệnh sốt sản hậu cả. Họ đi một lượt qua các tiểu khu rồi vào pḥng giấy của Klein uống rượu, hút thuốc, nghe Klein giảng giải. Khi thảo bản phúc tŕnh, họ chép đúng lời tŕnh bày của Klein, tuyên bố rằng tiểu khu I chết nhiều hơn tiểu khu II v́ các sinh viên không nhẹ tay đỡ đẻ như các cô đỡ ở tiểu khu II. Họ đổ lỗi cho các sinh viên ngoại quốc để sinh viên Áo không phản kháng họ. Và người ta đuổi luôn một lúc 22 sinh viên ngoại quốc. Klein lại b́nh chân như vại, các sản phụ vẫn chết oan v́ sau khi sinh viên ngoại quốc đi rồi, bệnh dịch giảm được một chút rồi lại hoành hành như cũ.
o0o
Hết niên khóa đó, Semmelweis đậu bằng cấp giải phẩu, nhưng năm sau mới được thăng chứ đệ nhất phụ tá ở tiểu khu I, dưới quyền trực tiếp của Klein. Lúc này, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về ḿnh rồi, chàng càng thấy rơ bổn phận phải trị được bệnh đó.
Thật lạ lùng, gọi là bệnh sản hậu mà sao có những phụ nữ không sinh sản cũng chết v́ bệnh đó, cả con nít cũng mắc, có khi cả đàn ông cũng mắc, như vậy là đâu phải tại sữa lên như Klein đă nói? Mà cũng không phải tại các sinh viên làm mạnh tay quá, thực là oan uổng cho họ.
Chàng đọc lại một lần nữa hết những thuyết về nguyên nhân của bệnh, vẫn không thỏa măn và chàng ngờ rằng các lư thuyết gia đều lầm triệu chứng với nguyên nhân. Chẳng hạn thấy bụng bệnh nhân sưng lên th́ cho rằng bao tử, mật sinh mà sinh ra sốt sản hậu. Thấy trong huyết có nhiều chất độc th́ cho rằng tại huyết hư nên sinh ra sốt sản hậu …
Semmelweis t́m đọc cả những sách Anh viết về bệnh đó nữa. Thời ấy ở Anh, số người chết v́ bệnh sản hậu tương đối ít hơn những nước khác và một số y sĩ Anh đă gần đoán được nguyên nhân của bệnh. Chẳng hạn Alexander Godon, năm 1795 đă viết đại ư rằng:
Tôi có chứng cớ chắc chắn rằng nguyên nhân của bệnh là do lây mà bị nhiễm độc. Khi các y sĩ, cô đỡ và nữ điều dưỡng săn sóc cho những người bị bệnh, họ truyền một “không khí lây bệnh” cho những người mạnh.
Và Gordon khuyên phải đốt hết quần áo, mền nệm của người bệnh. C̣n những người săn sóc bệnh nhân th́ phải tắm rửa kỹ và thay quần áo trước khi đi thăm khám một bệnh nhân khác.
Năm 1829, một y sĩ Anh khác là Robert Collins dùng những thuốc sát trùng để tẩy uế pḥng bệnh nhân, c̣n quần áo của họ th́ bỏ vào một ḷ không khí nóng tới 120 – 130 độ, nhờ vậy mà ông chận được bệnh sốt sản hậu trong dưỡng đường Dublin.
Các y sĩ Anh đă gần t́m ra cách trị, nhưng vẫn không biết nguyên nhân gây ra bệnh. Những chữ “Không khí lây bệnh” trừu tượng quá, không giảng được ǵ cả. Bảo là do không khí lây bệnh th́ ở tiểu khu II, mỗi khi có người mắc bệnh sao không lây hết pḥng, lây nhiều như ở tiểu khu I?
Semmelweis rất thắc mắc về việc đó. Chàng tự hỏi hoài: Tiểu khu II bao giờ cũng chết ít hơn tiểu khu I là tại sao?
Rồi chàng kê ra hết những điểm khác nhau của hai tiểu khu để loại từng điểm một và ráng t́m xem điểm nào là nguyên nhân của hiện tượng?
Không phải là tại sản phụ ở tiểu khu I nghe tiếng chuông của mục sư mà phát bệnh, thế th́ tại cái ǵ? Các pḥng có khác hướng nhau không? Chất vôi và các thứ gỗ xây cất có khác nhau không? Hay tại các ṭa nhà xung quanh tiểu khu II cản hơi độc? Vô lư! Càng suy nghĩ, chàng càng rối trí, hoang mang.
Bỗng một hôm, chàng t́m ra được một dị điểm: Ở tiểu khu I khi đỡ đẻ, người ta cho sản phụ nằm ngửa, c̣n ở tiểu khu II người ta cho họ nằm nghiêng. Hay là tại vậy chăng? Thử thí nghiệm xem. Chàng ra lệnh cho các sinh viên và các cô đỡ làm theo như tiểu khu II. Và chàng phải ngày đêm giám sát họ thi hành đúng chỉ thị v́ nếu chàng quay lưng đi là họ lại làm theo lối cũ.
Nhưng rồi cũng chẳng có kết quả ǵ cả. Chàng phải bỏ lệnh đó và t́m một giả thuyết khác. Chàng không nản ḷng v́ biết rằng càng loại được nhiều dị điểm th́ càng tới gần mục đích.
Chàng bàn với bác sĩ Skoda cho điều tra những sản phụ sanh ở lề đường, ở bờ suối chết là bao nhiêu để làm thống kê. Klein phản đối kịch liệt, vận động với viên Thượng thư bộ Quốc gia giáo dục cấm ngặt chuyện đó. Có kẻ hỏi ông: “Tại sao tiểu khu II chết ít hơn tiểu khu I?”. Ông chỉ đáp:
– Chết cũng như nhau. Khi nào tiểu khu I chết nhiều hơn th́ tất cũng có những lư do chính đáng.
Semmelweis bị Klein ghét, ít lâu sau bị giáng xuống làm phụ tá thứ nh́. Lại nhằm lúc thân phụ chàng mất, chàng chán nản, xin nghỉ về quê nhà ít lâu. Qua năm 1847 rời Vienne nửa tháng. Khi trở lại Vienne th́ hay tin một đồng nghiệp của chàng là Kolletschka mới từ trần.
Kolletschka là một bác sĩ nhũn nhặn, tận tâm, hiền lành, mới 43 tuổi và được toàn thể học tṛ và bạn bè kính mến. Trong một giờ giải phẩu, một sinh viên thực hành vụng về, ông vội vàng tḥ tay để ngăn lại, không dè lưỡi dao của sinh viên đưa mạnh quá, chạm vào đầu ngón tay của ông: Vết thương rất nhẹ, chỉ chảy vài giọt máu. Ông vẫn tiếp tục giảng bài. Hôm sau, thấy ngây ngất, bệnh mỗi ngày một tăng, được bảy bữa th́ chết. Bị nhiễm độc của tử thi!
Semmelweis làm việc trở lại. Các bạn thân của chàng đă vận động cho chàng giữ chức cũ: Đệ nhất phụ tá. Nhưng chàng vẫn không vui v́ cái tang cha và v́ trong đầu cứ lởn vởn những câu hỏi:
“Tại sao tiểu khu I luôn chết gấp ba lần tiểu khu II? tại sao có tháng tăng lên, chết gấp 10 lần so với tiểu khu II? Những thiếu phụ khỏe mạnh, hồng hào mà đẻ xong ít ngày là sốt rồi chết, chết từng loạt là tại sao?”
o0o
Một đêm, không ngủ được, chàng đi thăm một Kolletschka, đột nhiên nảy ra ư coi hồ sơ về cái chết của bạn. Hồ sơ ghi:
“Hệ thống lâm ba sưng rất nặng ở phần trên.
Tĩnh mạch cũng sưng.
Phổi sưng.
Tim sưng.
Bụng sưng.
Màng óc sưng. Tất cả những bộ phận đó đều có mủ máu như rửa, rất hôi thối. Mắt bên trái cũng vậy.”
Đủ hết, đủ hết các triệu chứng của bệnh sốt sản hậu. Một ánh sáng rực rỡ lóe lên trong óc của Semmelweis. Chàng đọc đi, đọc lại hồ sơ, nhớ lại thi thể của một sản phụ chết v́ sốt sản hậu mà chàng mới mổ hồi sáng. Đúng, chỉ một điều là Kolletschka không có tử cung, nếu có th́ tất tử cung cũng phải sưng. Chàng lại nghĩ tới những hài nhi sanh ra được năm sáu ngày rồi chết v́ sốt. Thi thể của chúng mổ ra, cũng y như thi thể của mẹ chúng, y như của Kolletschka. Tất phải cùng do một nguyên nhân. Chàng t́m thấy nguyên nhân đó rồi: Nhiễm độc tử thi(°)
o0o
Kolletschka bị nhiễm những chất độc tử thi ở lưỡi dao, những chất đó vào máu rồi phá phách cơ thể. Những sản phụ mắc bệnh là do những bàn tay của sinh viên và y sĩ đem lại trong khi đỡ đẻ cho họ. Chàng rùng ḿnh. Các hài nhi tử vong cũng v́ do những bàn tay sát nhân đó chăm sóc. Những bàn tay nhơ nhớp mủ và máu mà khám xét những thân thể khỏe mạnh. Chàng đă giết biết bao mạng người? Các bạn đồng nghiệp, các sinh viên trong Đại dưỡng đường Vienne này đă giết mấy vạn, mấy ức người rồi? Ở khắp Châu Âu, người ta đă giết mấy chục triệu người rồi từ khi đặt ra cái lệ giải phẩu tử thi? Nhất là tội của chàng không sao tha thứ được, chàng đă giết nhiều mạng người hơn các bạn đồng nghiệp v́ chàng giải phẩu tử thi nhiều hơn họ, do đó, truyền bệnh ra nhiều hơn họ. Ừ, rất đúng. Bây giờ th́ thấy tỏ như ban ngày: Tiểu khu II chết ít v́ do các cô đỡ săn sóc, mà các cô này không giải phẩu tử thi, tay không dính độc tử thi. Các sản phụ sanh ở ngoài rồi mới vô nằm dưỡng đường, sở dĩ ít bị bệnh sốt sản hậu là do ít bị các sinh viên khám bệnh. Rồi chàng sung sướng nhảy nhót v́ đă kiếm được một phương cứu đời. Rất giản dị: Chỉ cần rửa tay thật kỹ trước khi khám bệnh là trị được bệnh sốt sản hậu. Chàng lại ngay bàn giấy, ghi cảm tưởng của ḿnh lên giấy. Năm đó là năm 1847, chàng 29 tuổi.
Mới hửng sáng hôm sau, Semmelweis đă tới nhà thương, vẻ mặt hớn hở. Chàng muốn chạy khắp các pḥng, lay các sản phụ, hô lớn lên:
– Từ nay các bà yên tâm. Không c̣n lo bị bệnh sốt sản hậu nữa. Hết rồi, hết hẳn.
Khi các sinh viên tới đủ, chàng nhóm họ lại, cảm động quá, không biết mở đầu ra sao. Mắt chàng rưng rưng. Đột nhiên chàng mở lời:
– Chúng ta sẽ trị được bệnh sốt sản hậu. Tôi đă kiếm được cách. Các ông biết đấy chứ, bác sĩ Kolletschka chết v́ nhiễm độc tử thi. Triệu chứng của ông y như triệu chứng bệnh sốt sản hậu. Tôi đă đọc kỹ hồ sơ … Chính chúng ta là kẻ sát nhân. Từ nay, chúng ta phải rửa tay cho sạch.
– Các ông nghe rơ chưa? Từ nay, các ông, các cô và tôi, bất kỳ ai trong tiểu khu này cũng phải rửa tay thật kỹ trước khi khám bệnh.
– Tại sao vậy bác sĩ?
– Tại tay chúng ta dơ, dính độc tử thi rồi truyền độc đó vào cơ thể sản phụ, cho nên chúng ta phải rửa tay cho hết những độc đó đi. Nào, bây giờ chúng ta đi rửa tay.
Có kẻ khúc khích cười, có kẻ bĩu môi, có kẻ nhún vai. Nhưng rồi người ta cũng đi rửa tay.
– Các ông đưa tay tôi khám.
A! Thế này th́ quá lố rồi. Người ta là sinh viên, chứ đâu phải con nít nữa mà khám xem tay có sạch không?
– Xin lỗi bác sĩ, thuyết của bác sĩ có chắc đúng không đă, hay bác sĩ chỉ muốn làm nhục chúng tôi thôi? Chúng tôi đâu phải là em nhỏ?
Semmelweis nổi giận la:
– Các thầy c̣n nghi ngờ hả? Th́ cứ theo lời tôi xem có trị được bệnh sốt sản hậu không. Rửa tay mà là nhục ư? Hay các thầy muốn tiếp tục giết người? Tôi chỉ đ̣i một điều rất dễ là rửa tay để cứu hàng vạn, hàng ức nhân mạng mà các thầy không chịu nghe. Làm biếng. Cái đó mới là nhục. Tôi có trách nhiệm bảo vệ sinh mạng của sản phụ và hài nhi trong tiểu khu này. Nếu các thầy không muốn tuân lệnh tôi th́ các thầy có quyền đi ra. C̣n như muốn ở lại đây th́ nhất định phải rửa tay.
Trong y học, một kỹ nguyên mới xuất hiện, kỹ nguyên pḥng độc. Cuộc đời gian truân của Semmelweis cũng bắt đầu, một phần v́ buổi sáng hôm đó, ông đă vụng về, nóng nảy quá làm mất cảm t́nh của những người giúp việc ông và những người này sẽ phá công việc của ông.
***
Sáng hôm sau, bác sĩ Klein vô khám pḥng. Semmelweis chạy ra ngăn ông ở cửa pḥng, chỉ thau nước. Klein ngạc nhiên hỏi:
– Để làm ǵ vậy?
– Thưa ông giám đốc, để ông rửa tay ạ.
– Bác sĩ điên ư?
– Thưa ông giám đốc, tôi đă t́m ra nguyên nhân bệnh sốt sản hậu. Cách trị rất giản dị: Chỉ cần rửa tay thôi.
– Tôi đă bảo có muốn thay đổi thủ tục nào th́ phải xin phép tôi mà
– Thưa ông giám đốc, tôi đă gởi tờ phúc bẩm lên ông rồi ạ.
– Nhưng tôi chưa cho phép mà sao đă tự tiện thi hành? Ai lănh trách nhiệm ở dưỡng đường này? Thầy hay tôi?
– Thưa ông giám đốc, công việc rửa tay không làm cho các sản phụ chết được mà tôi c̣n tin rằng nhờ nó, họ sẽ sống. Tôi đă thưa rơ trong tờ phúc bẩm rồi ạ.
– Có, tôi đă đọc. Thôi tránh đường cho tôi đi khám.
– Thưa bác sĩ, tôi nhất định không để ngài khám bệnh nhân nếu ngài không chịu rửa tay. Tôi làm vậy không phải v́ tôi đâu mà v́ sinh mạng của sản phụ và hài nhi.
Klein tái mặt đi nhưng rồi cũng cúi xuống rửa tay.
– Xin ngài rửa thật kỹ cho!
Chàng lại vụng về một lần nữa, gây oán với Klein.
o0o
Kết quả số chết giảm trông thấy. Hai tuần lễ sau, Semmelweis lại chơi chỗ Skoda và Rokitansky. Hai bác sĩ này khuyến khích chàng, nhưng bảo phải tiếp tục thí nghiệm lâu nữa, mới nửa tháng chưa thể kết luận được.
Tới cuối tháng 5 năm 1847, số tử ở tiểu khu I hạ từ 18,26% xuống c̣n 12,24%. Semmelweis vui mừng, nhưng chưa măn nguyện, nghĩ rằng xà bông và nước lạnh chưa đủ để khử độc. Nhớ lại bài học về chất chlore, mà giáo sư cũ của chàng đă cho là chất mạnh nhất để trừ bệnh truyền nhiễm và khử hơi độc. Chàng bèn xin nước Chlorina, rồi bắt các sinh viên, các cô đỡ rửa tay thật kỹ bằng xà bông, xong lại rửa lần nữa bằng nước Chlorina. Chàng gí mũi vào sát bàn tay họ để hít xem c̣n mùi hôi thối của tử thi không, coi từng ngón tay một xem c̣n dính chất dơ nào trong kẽ không, luôn luôn nhắc họ:
– Nhớ rửa tay hai lần trước khi đi khám bệnh.
Kết quả lần này không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Cuối tháng sáu, số người chết ở tiểu khu I hạ từ 12,24% xuống c̣n 2,28%. Độc giả mừng cho chàng phương pháp đă thành công và sẽ được truyền bá khắp Châu Âu? Nhưng tôi đă nói, làm việc thiện đâu phải dễ như vậy. Nếu dễ th́ hôm nay, tôi đă không chép lại câu chuyện này.
Trong lịch sử Y học, chưa có một phát kiến nào lớn mà được người đương thời chấp nhận ngay; luôn luôn có những người nghi ngờ, chỉ trích. Như vậy th́ có lợi là tránh được những giả thuyết không vững, nhưng cũng có hại là nhiều nhân mạng bị hy sinh quá.
Thời nào cũng có hạng người chỉ theo đuổi mỗi mục đích là cầu cạnh cho được địa vị. Và một khi được th́ cố bám lấy nó. Càng bất tài th́ lại càng bám chặt, đến nổi có mắt cũng như đui, không trông thấy sự thực, hoặc có thấy cũng t́m cách che mắt người trên, dù hành động đó làm hại hàng vạn, hàng ức nhân mạng cũng mặc. Phần đông những kẻ đó được sống sang trọng trên xương máu đồng bào cho đến khi chết. Nhờ khéo luồn cúi, nâng chiều nào, che chiều ấy, một số ít bị “Hạ bệ”, nhưng khi lui về vườn, họ vẫn ung dung, sung sướng với vợ con ở nước ngoài hoặc ở ngay trong nước, v́ có ai bắt họ chịu trách nhiệm v́ hành động của họ đâu? Vấn đề trách nhiệm là vấn đề quan trọng số một của nhân loại. Không giải quyết được nó, hễ c̣n những kẻ có thể làm hại cả triệu người khác th́ nhân loại không thể nào có hạnh phúc được, không thể gọi là văn minh được. Phải đào tạo một hạng người có tài, có đức, liêm khiết, chính đại, sáng suốt và nhân từ, phải giao cho họ đủ quyền hành kiểm soát hành động của những người có thể làm hại dân được, th́ nhân loại mới đỡ khổ. Nhưng người ta chỉ đào tạo được những thạc sĩ, những nhà bác học, chứ có trường nào đào tạo được con người có đức. Cho nên những kẻ như Klein, nhan nhăn khắp nơi, kéo bè, kéo đảng để làm hại đồng bào.
Tại Đại dưỡng đường Vienne, hồi đó đă chia làm hai phe: Phe Bảo Thủ (Đúng hơn là phe bợ đỡ) cùng Klein mà chủ trương là củng cố địa vị. Phe Đối Lập là phe Skoda gồm Rokitansky, Hebra (Chủ bút một tạp chí Y học) và Semmelweis (Có óc cấp tiến, muốn cải thiện phương pháp chẩn mạch, trị bệnh).
Klein thấy kết quả của Semmelweis, sợ địa vị của ḿnh sẽ lung lay, bắt đầu tấn công với sức kiên nhẫn của một con mọt và tánh nham hiểm của một con cáo. Hắn lại thù Semmelweis bắt hắn phải rửa tay nên ra lệnh cấm dùng nước Chlorina, lấy lẽ rằng đắt tiền quá, quỹ sẽ bị thâm hụt.
Semmelweis phải tra cứu những sách hóa học, chế tạo thứ thuốc khử độc rất rẻ tiền là nước vôi pha với Chlore (Chaux Chlorurée). Kết quả rất khả quan. Tháng bảy, số người chết chỉ c̣n có 1,2%.
Nhưng tháng tám, số đó tăng lên một chút: 1,89%, rồi bỗng nhiên tăng vọt: 5,25%.
Semmelweis lo lắng, cố t́m ra nguyên nhân, bắt được tại trận một sinh viên làm biếng, không chịu rửa tay. Ông đuổi ra ngay khỏi nhà thương rồi suốt ngày đêm kiểm soát từng ly, từng tư. Số tử lại bớt đi, rồi lại tăng. Trong số 12 người bệnh, có 11 người chết.
Lại điều tra, ḍ xét: Tại một con bệnh làm lây qua những con bệnh khác. Như vậy rửa tay trước khi vô pḥng khám bệnh cũng chưa đủ mà phải rửa tay sau mỗi lần khám cho một bệnh nhân. Không phải chỉ cái độc của tử thi, mà cả cái độc của người c̣n sống nhưng mang bệnh cũng đủ sinh ra sốt sản hậu. Ông bèn ra lệnh, mỗi lần khám một bệnh nhân, phải rửa tay. Kết quả không ngờ: Tháng sau, không có một người nào chết cả.
Ba bạn thân của ông là Skoda, Rokitansky và Hebra mới hoàn toàn tin, rủ nhau lên báo cáo cho Klein.
Klein sợ sệt, lúng túng, nh́n bảng thống kê bảo:
– Tin ǵ được những con số? Người ta bắt nó nói ǵ chẳng được? Lúc này hết thời bị dịch rồi, chứ có ǵ đâu?
Skoda viết một bài tường thuật đăng vô tờ báo của hội Y Học Vienne. Các sinh viên thân tín của ông và của Semmelweis gởi báo cùng 12 bức thư đi khắp nơi ở trong nước và ngoài nước: Qua Anh, lên Na Uy, lại Kiel, nơi mà số tử vong lên tới 75%, lại Bá Linh, mà cứ ba sản phụ, có hai người chết, sang Ư, Nga, Ḥa Lan, Pháp … . Rồi cả bọn đợi.
Một tháng sau mới nhận được một bức của bác sĩ Simson ở Luân Đôn, bảo rằng tính cách trừ độc của nước Chaux Chlorurée, ở bên Anh, người ta vẫn biết từ xưa, mà bệnh sốt sản hậu ai cũng biết là bệnh truyền nhiễm.
Semmelweis thất vọng: Người ta không đọc kỹ bài báo, không nhận thấy chỗ quan trọng là phải rửa tay để khử độc trước khi khám bệnh.
Năm 1848, Cách mạng nổi ở Áo, nhưng cũng không mang lại một sự thay đổi nào cả. Klein vẫn giữ chức cũ. Semmelweis tiếp tục thí nghiệm, lần này vào loài thỏ và kết quả là chín con thỏ khỏe mạnh bị ông chích mủ sốt sản hậu vào cơ thể th́ cả chín con đều mắc bệnh và có bảy con chết, chỉ có hai con sống sót.
Thí nghiệm đó tŕnh lên Hàn Lâm Viện khoa học Vienne, nhưng các ông Hàn bảo rằng nó không giá trị ǵ cả, chỉ có những thống kê ở dưỡng đường – Tức những thống kê của Klein – Mới đáng tin thôi!
Măi đến tháng tư năm 1849, Skoda mới nhận được lời cám ơn đầu tiên của bác sĩ Michaelis ở Kiel, nơi mà người ta phải đóng cửa nhà hộ sinh v́ bệnh sốt sản hậu giết nhiều người quá. Thư rằng:
“Khi tôi nhận được thư của ông th́ tinh thần tôi đương chán nản ghê gớm. Nhà hộ sinh của chúng tôi phải đóng cửa từ ngày mùng một tháng bảy đến ngày mùng một tháng mười một. Rồi lại tiếp ba bệnh nhân, người thứ nhất chết, hai người sau, may mà cứu được. …Bài báo của ông làm cho tôi tin tưởng trở lại … Lần thứ nhất, tôi thấy có một chút hy vọng. Tức th́ tôi áp dụng phương pháp khử độc bằng nước vôi pha Chlore. Và từ đó, không thấy một sản phụ nào mắc bệnh sốt sản hậu nữa, trừ mỗi một người trong tháng hai … Cho nên, tôi hết ḷng cảm tạ ông … Ông đă giúp cho nhà hộ sinh của chúng tôi khỏi bị đóng cửa. Ông đă cứu được hàng trăm nhân mạng … Xin ông cho tôi gởi lời ngưỡng mộ và cám ơn bác sĩ Semmelweis … Khi tôi nghĩ đến những sản phụ mà chính tôi đă giết! …”
– Rồi sẽ nhận những bức thư như vậy nữa ở khắp xứ. Phải đóng khung nó lại rồi đăng báo Y Học Vienne.
Ngay tối hôm đó, Semmelweis trả lời bác sĩ Michaelis, hy vọng ông này sẽ là một người truyền bá đắc lực phương pháp của ḿnh. Nhưng trớ trêu thay! Bức thư không bao giờ tới tay Michaelis cả. V́ quá đau khổ, hối hận v́ tội lỗi của ḿnh, Michaelis đă đâm đầu vào xe lửa tự tử. Bác sĩ Litzmann lên thay ông ta, tức th́ bỏ phương pháp pḥng độc, cho là ngây thơ!
o0o
Trong lúc đó, ở Vienne, nhóm Skoda phấn khởi thảo một bản thỉnh nguyện xin cấp tốc triệu tập một ủy ban gồm các y sĩ để định giá trị của sự phát minh.
Đơn gởi lên triều đ́nh. Klein phản công tức th́, báo động tất cả các giới thủ cựu và các giáo phái. Triều đ́nh ra lệnh cho Thượng Thư bộ giáo dục bác bỏ đơn đó, lấy lẽ rằng:
”Vấn đề đó cũng đáng nghiên cứu, nhưng chưa phải lúc, v́ năm nay không có dịch sốt sản hậu, không thể so sánh t́nh h́nh năm nay với t́nh h́nh các năm trước được. Mà khi nào cần điều tra th́ chỉ có giáo sư Klein là được quyền điều tra thôi.”
Sự thực rành rành ra vậy, hễ khử độc th́ sống, không khử độc th́ chết mà người ta đổ cho thời tiết rồi lại cấm nhóm Semmelweis, Skoda điều tra nữa!
Klein c̣n hô hào mọi giới tấn công Skoda.
Các giáo phái la lên:
– Đồ Duy Vật! Bỏ tù hết ráo đi!
Và các bác sĩ cũng hùa theo:
– Hoàn toàn duy vật! Duy vật một cách ghê gớm!
Semmelweis bị cất chức phụ tá ở khu Hộ sinh. Bây giờ th́ không c̣n nghe tiếng rên rỉ, tiếng khóc của các sản phụ, tiếng chuông rùng rợn của mục sư nữa. Nh́n những bà mẹ hồng hào, những em bé mủm mỉm, ḷng ông bùi ngùi. Nhưng ông vừa quay lưng để ra cửa, th́ có tiếng cười lanh lảnh của một cô đỡ:
– Ha ha, từ nay khỏi phải rửa tay, bác sĩ!
Đau đớn nhất là một sản phụ mà ông đă cứu được mạng,cong cớn lên, lớn tiếng:
– Chào bác sĩ nhé! Về Hung Gia Lợi đi! Ở đây, chúng tôi không cần đến ông. Đàn bà chúng tôi dơ dáy quá mà! Nên khám xong, bác sĩ phải rửa tay! Về Hung mà rửa tay rồi khám các sản phụ của mi!
Bây giờ ông mới thấy sự phản bội của những kẻ giúp việc cho ông. Tới cửa nhà thương, viên bác sĩ Carl Braun, thay chân ông, ch́a ra một ve thuốc bảo:
– Ông c̣n bỏ quên cái này, bác sĩ!
Ông đỡ ve nước vôi pha Chlore mà ḷng chua xót.
Skoda ráng vận động cho ông một chân giảng viên ở Đại học do chính phủ bổ nhiệm, nhưng lương bổng th́ do các sinh viên chung nhau lại đài thọ. Ông miễn cưỡng nhận lời v́ không muốn lănh lương của các sinh viên hầu hết đều nghèo. Mọi việc thu xếp đă gần xong, nhưng khi danh sách giáo sư được niêm yết th́ người ta không thấy tên ông. Tất có bàn tay bí mật của cáo già Klein nhúng vào.
Trong lúc đó, số tử thi ở khu hộ sinh tăng vọt lên 34% v́ chỉ một số ít sinh viên vẫn giữ phương pháp khử độc, c̣n th́ làm biếng không chịu rửa tay. Mà chỉ một bàn tay dơ khám khắp lượt bệnh nhân là đủ gieo cái chết khủng khiếp. Người ta đưa cái số đó cho Klein coi. Hắn tươi cười đáp:
– Đó, các ông thấy không? Tôi đă bảo rồi mà, phương pháp rửa tay có kết quả ǵ đâu? Nếu có kết quả, chỉ là làm cho t́nh trạng thêm nguy kịch mà thôi. Chà, tới trên một phần ba rồi!
Semmelweis nghe thấy mà đứt ruột.
Skoda, Rokitansky và Hebra lại vận động cho ông vô Hàn Lâm Viện Áo. Hay tin đó, Klein cho phao tin rằng ông đă phá thai nhiều sản phụ, rằng con Quỷ Semmelweis chẳng có lương tâm ǵ cả đối với phụ nữ.
Thế là khi danh sách các ông Hàn được công bố, người ta lại không thấy tên ông.
Skoda cũng kiên nhẫn không kém Klein. Ông để cho vụ đó nguôi nguôi, rồi một hôm, niềm nở, lễ phép vào thăm Klein:
– Kính chào ngài giám đốc, tôi lại xin ngài ban cho tôi một ân huệ!
– Cái ǵ vậy, bác sĩ? Tôi sẵn ḷng lắm. Lúc nào tôi cũng vui vẻ giúp đỡ cựu sinh viên của tôi.
– Thưa ngài, tôi muốn thu thập tài liệu để … viết một bài ngăn ngắn.
– Chịu khó khảo cứu nhỉ?
– Dạ, có ǵ đâu ạ. Tôi xin ngài cho tôi dùng văn thư của tiểu khu I. Thưa, tôi sẽ không dám làm phiền ai hết đâu ạ. Tôi không mang về nhà mà tới pḥng văn thư vào buổi tối, t́m kiếm lấy rồi ghi chép ít hàng thôi ạ.
– À! Ông muốn lục văn thư của tôi, cái đó th́ không được.
– Thưa, tôi chỉ coi công văn thôi ạ.
– Công văn cũng không được.
– Thưa ngài giám đốc, công văn mà cũng không được ư?
– Tôi nói không là không.
– Thưa ngài, tôi xin coi để nghiên cứu khoa học mà?
– Thôi, tôi bận việc lắm, bác sĩ ra đi.
Nhưng nói rồi, Skoda cũng kiếm được một bản sao các công văn đó, viết một bài so sánh kết quả của phương pháp khử độc khi Semmelweis c̣n làm ở tiểu khu I với số chết kinh khủng khi người ta đuổi Semmelweis đi và bỏ phương pháp của ông.
Bài đó đọc ở Hàn Lâm Viện khoa học có tiếng vang lớn. Hàn Lâm Viện trợ cấp cho Semmelweis một số tiền để tiếp tục nghiên cứu, nhưng không được vô pḥng hộ sinh, không được vô pḥng giải phẩu th́ nghiên cứu cách nào bây giờ? Tuy nhiên, đó cũng là một thắng lợi về tinh thần.
Klein tím gan lại, huy động ngay một số lang băm vô lương tâm, nhao nhao lên chưởi Semmelweis, viết bài mạt sát. Ông phải đăng đàn ở Hàn Lâm Viện vài lần nữa để bênh vực thuyết của ḿnh. Phe Klein cho người tới phá, bảo:
– Thuyết Semmelweis có một nhược điểm lớn là giản dị quá. V́ nó giản dị quá cho nên nó không có giá trị.
– Thuyết Semmelweis duy vật. Mà duy vật là không có trời, là phạm thượng!
Và mặc dầu được làm hội viên Hàn Lâm Viện khoa học, mà tới khi Skoda vận động cho ông một lần nữa chức giảng viên th́ người ta không gạt hẳn tên Ignace Philippe Semmelweis ra, nhưng chỉ bớt đi ba chữ.
Đó là khi ông Thượng thư Bộ Giáo dục kư nghị định bổ Semmelweis giữ chức: ”Giảng Viên được mổ xẻ tử thi và h́nh nộm để dạy sinh viên’. Nhưng khi nghị định được đăng trên công báo, không hiểu v́ đâu mà mất đi ba chữ: “Tử Thi Và”. Như vậy c̣n dạy cái ǵ nữa? Sinh viên nào chịu đóng tiền cho một giảng viên để học cách mổ xẻ h́nh nộm!
Chán nản, Semmelweis từ biệt các bạn thân về Hung Gia Lợi, quê hương của ông. Đất Vienne này bạc bẻo, nhỏ mọn lắm, ông không thể ở lại thêm một ngày nào nữa được. Nhất định phải đi! Các bạn thân can ngăn ông, bảo: ”Chịu khó kiên nhẫn đợi, thua keo này, bày keo khac”, ông chỉ lắc đầu. Hết muốn chiến đấu rồi!
Bác sĩ Kenneth Walker, tác giả cuốn La grande aventure de la Médecine (NXB Gérard et Cie), phê b́nh ông như vầy:
“Semmelweis không có những thiên tư cần thiết cho một nhà cải cách”.
Frank G. Slaughter trong cuốn Cet inconnu …Semmelweis, cũng chê ông là vội vàng bỏ cuộc; giá cứ nhận ghế giảng viên đó mà đợi thời th́ các bạn bè của ông thế nào cũng c̣n giúp ông được và ông sẽ thành công mau hơn.
Những lời trách đó đều đúng cả. Ông là một nhà bác học có ḷng nhân đạo chứ không có tinh thần chiến đấu. Ông đau khổ thấy hàng vạn sản phụ và hài nhi chết mỗi năm ở trước mắt ḿnh, biết cách trị mà phải bó tay nên đi t́m một nơi khác người ta biết dùng ḿnh chứ không chịu nổi cái không khí cải vả nhau, hại ngầm nhau như cái không khí đê tiện ở Vienne nữa. Ông đă chịu thua Klein. Các sản phụ và hài nhi ở Vienne, từ nay lại tiếp tục chết như rạ v́ vị cứu tinh của họ đă phải gạt lệ mà xa họ.
Về tổ quốc, ông gặp bạn thân cũ là Markussovsky, được giới thiệu vào nhà hộ sinh Saint Roch của tỉnh Pesth. Nhà hộ sinh này rất nhỏ, chỉ bằng một phần mười khu hộ sinh Vienne, cả năm chỉ tiếp nhận chừng một – hai trăm sản phụ. Viên giám đốc là bác sĩ Birly, hiền lành nhưng óc hẹp ḥi. Mặc dầu đă đọc thuyết của ông, nhưng tuyệt nhiên không tin, cho rằng chỉ có mỗi một cách hiệu nghiệm để trị chứng sốt sản hậu là bắt sản phụ xổ mỗi ngày.
Cuối tháng đầu, Semmelweis làm cho số tử trụt từ 13% xuống 0,46%. Birly trông con số ấy, tươi cười nói:
– Đó, tôi nói có đúng không? Từ khi ông mới tới, tôi đă dặn ông cứ cho họ xổ mỗi ngày là họ mạnh. Cám ơn ông, những sản phụ của nhà thương chúng ta được xổ kỹ nhất ở khắp nước.
Được cái Birly không hề cản trở, ghen ghét ông, có lần lại c̣n tỏ ḷng thương hại nữa:
– Bác sĩ tận tâm quá, sao mà lao lực suốt ngày đêm, coi bệnh nhân như là ruột thịt của bác sĩ vậy?
– Thưa ông giám đốc, tôi không có gia đ́nh nên coi họ như là người thân vậy.
– Thật họ có phước mới gặp được bác sĩ. Nhưng bác sĩ nhớ đấy nhé. Cho xổ mỗi ngày đi. Cứ cho xổ đi, cho xổ hoài đi, sẽ không có một người nào chết nữa, 0,46%, tốt lắm rồi!
Semmelweis chỉ đứng trơ trơ ra, không mỉm cười, cũng không thở dài được nữa. Chẳng một ai hiểu ḿnh cả!
Trong mấy năm, lời phê b́nh của các bác sĩ ở khắp nơi cũng thỉnh thoảng được bạn bè gởi tới cho ông, nhưng đều một giọng: Đâu có giản dị như vậy?. Hoặc: Nguyên do là tại Khí Độc, tại Thời Tiết, tại Lên Sữa … . Người ta chỉ biết lặp lại những thuyết cũ học ở trường. Người ta cũng chẳng thèm thí nghiệm nữa, cứ thấy cái ǵ mới là tin chắc rằng sai!
o0o
Nhà thương nhỏ, lương không được bao nhiêu, ông thiếu hụt, ăn bận lôi thôi. Markussovsky thương hại, khuyên ông khám bệnh thêm ở nhà. Muốn vậy, cần sắm thêm vài bộ quần áo sang trọng và một con ngựa tốt. Bạn bè giúp tiền và ông nghe lời họ mở một pḥng khám bệnh. Mới đầu, thân chủ chỉ lưa thưa vài người v́ tuy ông giỏi và tận tâm, nhưng ông lại không khéo xă giao.
Dịp may tới, Hầu tước phu nhân Gradinish bị một chứng nan y, cho mời ông tới chẩn mạch. Bà là người quyền thế và hách nhất trong xứ, tất cả hạng quư phái đều sợ. Y sĩ nào được chẩn mạch cho bà th́ sẽ nổi danh khắp nước. Semmelweis và một y sĩ nữa ngồi xe tới biệt thự, qua ba bốn lần cửa, ở mỗi cửa một tên lính hầu chực sẵn, dẫn vô pḥng trong. Sau cùng, hai ông tới trước giường Hầu tước, gập ḿnh xuống chào rồi đứng đợi. Hầu tước đưa mắt ra lệnh cho thị nữ ra ngoài.
Semmelweis lại cúi chào lần nữa, thưa:
– Xin Hầu tước cho phép.
Ông kéo mền phủ thân thể bà Hâu tước cho ngay ngắn, luồn tay xuống dưới xét.
Bạn ông khám lại một lần nữa. Rồi hai người lánh ra một góc, nói nhỏ với nhau. Một lát sau, trở lại bên giường bà Hầu tước. Hầu tước hất hàm hỏi như hỏi người ở:
– Sao?
– Bẩm Hầu tước, chúng tôi đau đớn mà thưa thực rằng Hầu tước bị chứng Ung thư tử cung.
– Chắc chắn?
– Bẩm, chắc chắn.
– Phương thuốc?
– Bẩm. Vô phương.
Hầu tước gật đầu, họ lặng lẻ đi ra.
Ngay sáng hôm sau, tin đồn khắp Châu thành và các bà quư phái nườm nượp lại pḥng khám bệnh của Semmelweis. Hết giờ tiếp khách, một người bạn bảo ông:
– Thấy không? Tôi đă đoán trước rồi, phải gạt bớt ra chứ tiếp không xuể. Anh cho họ những thuốc ǵ?
– Chẳng cho thuốc ǵ cả. Họ khỏe mạnh, có bệnh ǵ đâu? Họ kêu hay chóng mặt, nhức đầu, ăn không ngon, ngủ không ngon, mệt. Tôi kêu họ bớt ăn thịt đi, đi bộ nhiều lên th́ hết. Họ có vẻ không bằng ḷng.
– Anh này điên! Tiền tới tay mà không biết nhận! Cứ kê những toa thật mắc tiền cho họ, họ sẽ rủ nhau tới nhiều hơn nữa.
– Một y sĩ không thể làm như vậy được!
– Muốn nghèo th́ mặc!
Tối hôm đó, ông thao thức nhớ lại hồi c̣n đi học, có lần một giáo sư cho ông khám một cái mụn ở tử cung và cảm giác lần đó y như lần này. Mụn đó chỉ là một cái bướu nhỏ, không phải là ung thư. Đương đêm, ông tung mền dậy, chạy một mạch tới lâu đài của nữ Hầu tước, kéo chuông liên hồi, làm gia nhân hoảng hốt ra mở cửa. Ông sồng sộc chạy vô, hổn hển tới bên giường bà Hầu tước. Bà ta đương đọc sách, ngó lên, vẻ khinh bỉ. Ông tiến lại:
– Bẩm Hầu tước, về nhà tôi vẫn nghi ngờ. Lúc năy nhớ lại, vội vàng lại đây thưa Hầu tước hay để Hầu tước khỏi lo. Không phải là ung thư, chỉ là một cái bướu thôi ạ!
– Được! Bác sĩ về đi!
Tới nhà ông mới hay ḿnh vẫn đang mặc quần áo ngủ mà đi thăm bệnh.
Tin lại đồn vang cả Châu thành. Và từ đó, thân chủ vắng hoe. Ai mà c̣n muốn lại khám bệnh ở chỗ một bác sĩ “Rừng rú” tới bực đó? Semmelweis lại an phận sống trong cảnh nghèo.
o0o
Mới 36 tuổi mà tóc ông đă hoa râm. Bác sĩ Birly qua đời, ông được thay chân giáo sư sản khoa. Số chết ở pḥng hộ sinh xuống tới 0,39%.
Ở Vienne, Klein chết, Carl Braun lên thế. Chắc các độc giả c̣n nhớ Braun, người đă đứng chờ ông ở cửa nhà thương Vienne để trả lại ông chai nước vôi pha Cơ lo. Số tử trở lại như xưa: 25 – 30%. Hébra không c̣n quản lư tờ Y Học Vienne nữa. Người thế chân cho đăng ngay một bài đả kích phương pháp pḥng độc của Semmelweis, đoạn kết có câu:
“Chúng tôi nghĩ rằng thuyết khử độc bằng nước Chlorine đă chết từ lâu, chết hẳn rồi. … Chúng tôi khuyên độc giả đừng để cho ngụy thuyết đó làm lầm lạc nữa”
Hay những tin đó, ông chán nản. Trong lúc tinh thần đang xuống th́ may mắn thay, ông gặp được một thiếu nữ, nàng Maria Weidenhofer. Nàng th́ trẻ, con nhà giàu mà ông th́ lớn tuổi, vẻ mặt khắc khổ, y phục lôi thôi. Nhưng lần đầu mới gặp nhau, họ đă thương nhau liền. Ông đ̣i theo nàng về nhà. Nàng bằng ḷng; tới nơi, ông xin hỏi nàng liền. Song thân nàng rất ngạc nhiên, chưa có thiện cảm với ông nên c̣n do dự, hứa một năm sẽ cho cưới. Nhưng nhờ cô Maria năn nỉ cha mẹ, và nhờ tấm ḷng thành khẩn của Semmelweis, hôn lễ chỉ ba tháng sau đă cử hành.
Cô Maria hiểu ḷng ông, hiểu tính t́nh, nhất là hiểu lư tưởng của ông nên ông đă được sống nhiều năm sung sướng. Nhưng một nhà bác học, thấy lư thuyết của ḿnh không được chấp thuận và những lời hô hào nhân đạo của ḿnh chỉ là tiếng chuông trong sa mạc th́ làm sao có thể hoàn toàn sung sướng được?
Cho nên, ngoài những giờ vui sướng với vợ con (Họ sanh được một trai, hai gái), ông vẫn như người mất hồn, cắm cổ làm việc cho hết ngày. Mà không như vậy, cũng không được v́ ông không thể tin cậy bất kỳ ai trong dưỡng đường cả.
Một lần, bệnh lại phát lên dữ, làm chết nhiều sản phụ. Nhưng lạ lùng thay, các em bé đều khỏe mạnh cả. Ông suy nghĩ, cho rằng các sản phụ đă bị lây sau khi sanh. Như vậy, chỉ có thể do những tấm “Drap” dơ thôi. Nhưng drap vẫn thay đúng lệ mà? Ông phải điều tra mới t́m ra nguyên nhân: Drap tuy có thay mà không giặt! Không biết các thầy kư ở dưỡng đường có ăn hối lộ không, chỉ biết rằng người thầu giặt drap ôm những drap dơ về, chẳng giặt ǵ cả, ít bữa sau, đem trở lại, bảo là giặt rồi mà cũng chẳng ai kiểm soát! Ông giận dữ gói những tấm drap thành một bọc, ném lên bàn viên thư kư và mắng hắn là kẻ sát nhân.
Ông bỏ tiền túi ra mua một lúc 100 tấm drap, tặng dưỡng đường để có dư drap mà thay. Ông lại vận động với chính quyền, xin mở thêm một nhà hộ sinh nữa và soạn một cuốn sách về nguyên nhân và phương pháp trị bệnh sốt sản hậu.
Trong khi đó, các bác sĩ ở Đức vẫn bảo bệnh đó do khí độc và do sữa lên. Hàn Lâm Viện Y học ở Ba – Lê tuyên bố chỉ dùng Kư ninh là trị được?
Có bác sĩ lại nói vu vơ rằng bệnh đó gốc ở tử cung!
Bác sĩ Dubois lừng danh đương thời đăng đàn mạt sát ông là “Thằng Điên ở Pesth”, rồi kết luận rằng: Chỉ có mỗi một cách trị là đóng cửa tất cả những nhà hộ sinh.
Đọc những tin đó, Semmelweis nắm chặt tay lại, nghiến răng la lên:
– Không có trời ư? Trời không có mắt ư? Sao trời để cho họ tiếp tục giết người như vậy?
Ở bên Anh, người ta liệm hai cái thây lại chung một áo quan để thiên hạ không biết rằng chết nhiều đến bực nào!
Cô Maria lại an ủi chồng, ông gục đầu vào ḷng vợ khóc nức nở.
Sách ông viết xong, rất đầy đủ và sáng sủa. Cũng chỉ có mỗi một tiếng vang nhỏ. Vài bác sĩ ở Greifswald, ở Helsingfors gởi thư về khen, hứa sẽ thí nghiệm phương pháp mới, nhưng kết quả thí nghiệm ra sao th́ họ không cho biết! Một bức thư an ủi tác giả nhất được gởi từ Hanovre, của một thanh niên tên là Kugelman – Học tṛ của Michaelis.
Thư rằng:
“Xin giáo sư cho tôi được tỏ với giáo sư cái nỗi vui thiêng liêng của tôi khi đọc tác phẩm của giáo sư … Tôi đă không nhịn được mà phải bật ra lời này trước mặt một bạn đồng nghiệp:
– Người đó là một Jenner ° thứ nh́! (Jenner là một y sĩ Anh (1749 – 1823) đă phát minh ra phương pháp chủng đậu và viết nhiều sách về phương pháp đó).
Trong nhân loại, ít ai truyền bá được những ân huệ lớn lao và lâu bền … Và trừ vài lệ ngoại, loài người đă hành hạ những ân nhân của ḿnh….
Tôi mong rằng giáo sư sẽ không nản chí mà tiếp tục cuộc chiến đấu vĩ đại và vẻ vang đó, cho tới lúc thành công. …”
Cùng với bức thư đó, Semmelweis nhận được một cuốn sách, trang đầu có đôi lời đề tặng này:
“Tôi trân trọng xin giáo sư nhận cuốn sách quư nhất và thân nhất của tôi này, gọi là để tỏ chút ḷng biết ơn giáo sư!”
Kư tên: Kugel.Man.
Cuốn sách đó là của Jenner, xuất bản lần đầu và mang chữ kư của tác giả.
Nhưng chỉ một bức thư như vậy th́ có biết bao bài báo cay độc.
Kẻ th́ viết:
“Trừ Semmelweis ra, không ai nhận thấy một chút kết quả ǵ của phép khử độc và cái lối rửa tay kỳ dị đó! Bệnh sốt sản hậu do một nguyên nhân bí mật, chưa ai biết là ǵ.”
Kẻ th́ nói giọng khinh bỉ:
“Dù giữ sạch sẽ đến cách nào nữa th́ cũng vô hiệu, bệnh sốt sản hậu vẫn phát ra mạnh mẽ lạ lùng ở đây. Thuyết của Semmelweis phiến diện, hẹp ḥi, sai lầm!”
Th́ ra, từ trước tới sau, trừ mấy bạn thân ở Vienne: Skoda, Rokitansky, Hebra, một bạn thân ở Pesth là Makussovsky và vợ ông – Cô Maria, th́ khắp Châu Âu, chỉ có hai người là tin chắc phương pháp của ông, tức là hai thầy tṛ Michaelis. Tiếc thay, Michaelis th́ v́ hối hận mà tự tử! C̣n môn đệ ông ta th́ quá trẻ, rút cục cũng chẳng giúp Semmelweis được chút ǵ!
Hét vào tai các bạn đồng nghiệp trong 20 năm mà vô hiệu – Họ điếc hết, điếc đặc! – Ông thay đổi chính sách.
Một buổi sáng, mới tỉnh dậy, ông nảy ra một ư, nhảy phắt xuống sàn, chạy sang pḥng giấy. Ông phải đi qua pḥng chung. Cô Maria hét lên:
– Ḿnh!
Ông tươi cười quay lại. Cô hoảng hốt nh́n ông:
– C̣n có các con!
Ông cúi xuống nh́n, th́ ra ông quên chưa bận quần áo.
Hôm đó, ở nhà thương về, gặp một người đàn ông đứng tuổi, ông tiến lại lễ phép thưa:
– Xin lỗi ông, chắc ông chưa biết thuyết của tôi về bệnh sốt sản hậu chứ?
Người đó trố mắt nh́n ông rồi vội vàng lánh xa. Thấy một cặp thanh niên khoác tay nhau, ông lại gần:
– Cô cậu sắp làm lễ cưới phải không? Tôi phải báo trước: Sẽ nguy hiểm lắm đấy! Khi nào sanh, phải bắt bác sĩ rửa tay thậy kỹ đi nhé! Nhớ đấy!
Không thuyết phục các y sĩ được th́ ông phải đi cảnh cáo từng người dân thường một. Ông đă bắt đầu loạn óc.
Tháng sau, trong cuộc họp ở trường Đại học để giải quyết các vấn đề nội bộ, viên chủ tịch hỏi ư kiến ông, ông mở một tờ giấy ra đọc:
“Tôi thề với Thượng đế tối cao, tối đại, vạn trí, vạn năng, rằng không khi nào tôi hành hạ các con bệnh của tôi …”
Đó là lời thề của các cô đỡ. Cả pḥng ngơ ngác và thương hại ông. Ông đọc xong lời thề, gục đầu xuống khóc. Các bạn đỡ ông về nhà, cho vợ ông hay, bàn thầm với cô phải đưa ông đi nhà thương điên ở Vienne. Cô Maria nức nở. Ông ngạc nhiên muốn lại an ủi bà, rồi bỗng nhiên hiểu hết, tự nhủ:
“Ḿnh điên rồi!”.
Ông hoảng hốt, toát mồ hôi, vào nằm trong pḥng riêng. Một lúc sau, ông mỉm cười một cách tinh quái.
Hôm sau, ông dậy sớm, lại nhà in đưa một tờ giấy nhỏ, bảo phải in gấp, 24 giờ sau lấy. Sáng hôm sau nữa, ông trở lại nhà in hỏi. Họ đưa ông một chồng giấy in chữ đậm những hàng này:
“Hỡi các bạn thanh niên nam và nữ! Nguy đến tính mạng các bạn đấy. Bệnh sốt sản hậu ŕnh các bạn. Các bạn phải coi chừng các y sĩ v́ họ sẽ giết các bạn! Các bạn nhớ kỹ: Khi sanh, TẤT CẢ những cái ǵ chạm tới thân thể bạn mà không được rửa xà bông thật kỹ rồi kỳ cọ trong nước Chlorine th́ các bạn sẽ chết đấy, bạn và cả con bạn. Tôi khuyên các y sĩ không được, nên phải khuyên bạn.
Bạn phải tự che chở lấy ḿnh!
Bạn thân của các bạn: Ignace Philippe Semmelweis.”
Ông ôm giấy đó đi khắp các đường phố, gặp bất kỳ thanh niên nào cũng phân phát bắt buộc phải cầm lấy.
Xong việc, ông mỉm cười khoan khoái. Nhưng như vậy, chưa đủ cho người ta tin. Ông chạy tới nhà thương, xông vào pḥng giải phẩu, gạt các sinh viên ra, nắm lấy một con dao, chém vào một tử thi vài ba nhát, cho dao dính đầy máu mủ, rồi đưa cao bàn tay trái, dùng ngay lưỡi dao đó, cắt một ngọn tay cho thành một vết thương khá sâu, sau cùng, nhúng ngón tay đang chảy máu vào đám mủ hôi thối của tử thi, ngoáy đi, ngoáy lại rồi mới thở dài bước ra. Cả pḥng hoảng hốt. Ông nhất định tự tử, lấy cái chết của ḿnh để làm gương cho thiên hạ, mở mắt cho thiên hạ, chứng tỏ cho thiên hạ rằng bệnh sản hậu do nhiễm độc mà sinh ra. Ôi chua xót! Ông hy sinh thân ông, hy sinh cả người vợ trẻ và hiền, cả ba đứa con nhỏ của ông nữa!
Một người nào đó đă nói:
“Hễ c̣n cây th́ c̣n Thánh giá!”
Đúng thay và đau đớn thay lời đó! Trong lịch sử Y Học, tôi chưa thấy một sự hy sinh nào ghê gớm tới như vậy!
Hôm sau, cô Maria, Markussovsky và vài bạn thân nữa đưa ông đến nhà thương điên ở Vienne. Các bạn thân của ông ở Vienne ra đón ông ở ga, ông tươi cười chào họ.
Cô Maria phải ở ngoài, mấy lần xin vào nuôi chồng, thăm chồng mà không được phép.
Ông ở trong pḥng mà cửa sổ đều có chấn song sắt. Ngón tay sưng vù lên. Cả cánh tay trái cũng sưng. Nửa thân trên nhức nhối. Tỏa cầu khuẩn (Streptocoque) đă phá phách tới bụng: Như có lưỡi dao ngoáy ở trong đó. Đồng thời với bệnh điên, ông mắc thêm bệnh sốt như sốt sản hậu.
Nửa đêm, ông tỉnh dậy. Pḥng tối đen. Ông lồm cồm ngồi lên, bước xuống sàn, ra cửa, xoay quả nắm, cụng đầu vào cánh cửa la lên. Cửa mở, một người gác ngó vào hỏi:
– Chuyện ǵ vậy, bác sĩ?
– Khuya rồi, trễ rồi, tôi phải đi thăm con bệnh!
– Để đến sáng, bác sĩ!
– Không được! Con bệnh đang cần tôi, đợi tôi!
– Họ ngủ hết rồi, bác sĩ!
Semmelweis thoi người gác một cái rất mạnh:
– Có cho tao ra không? Quân sát nhân này! Tao phải đi chữa cho bệnh nhân của tao!
Người gác thoi lại ông mấy cái túi bụi, xô ông vô rồi khóa cửa pḥng lại. Ông la hét, đập phá suốt đêm.
Ngày 13 tháng 08 năm 1865, ông nằm thoi thóp trong pḥng bệnh, hai bên là bác sĩ Hebro và bác sĩ Reidel – Giám đốc bệnh viện. Ông mở mắt hỏi:
– Bác sĩ Hebro ngồi đó chứ? Tôi sẽ chiến đấu hoài, không ngừng đâu … Không khi nào!
Rồi ông tắt nghỉ mà không được thấy mặt vợ con.
Đau đớn hơn nữa là cái chết của ông kéo theo cái chết của cậu con trai tên là Bela. Cậu rất kính mến cha, ủ rủ trong mấy năm, thất vọng v́ thuyết của cha không được xă hội công nhận, đă tự tử khi chỉ mới có 26 tuổi!
Ông mất được 14 năm, nhà bác học Pasteur mới kiếm ra được vi trùng Stretocoque trong máu bệnh nhân. Và lúc đó, ngưới ta mới nhận lời tiên tri của Semmelweis là đúng.
Nhưng rồi phải đợi thêm 11 năm nữa, nghĩa là vào khoảng 1890, lớp bác sĩ già, thủ cựu chết hết, lớp người trẻ có óc tân tiến lên thay, phương pháp pḥng độc của Semmelweis mới lan dần, và được phổ biến.
Năm 1891, xứ Hung Gia Lợi bỗng nhiên nhận công lao của ông, hănh diện đă sanh được một thiên tài vào hàng ân nhân của thế giới, xin bốc hài cốt của ông từ Vienne về Budapest để làm quốc táng. Nực cười nhất là cả Đức lẫn Áo đều phản đối kịch liệt, nhưng vô ích, viện cớ rằng ông là người Đức mà được đào tạo ở Áo.
Năm 1906, người ta dựng tượng cho ông và bây giờ nhân loại thoát hẳn cái kinh khủng của bệnh sốt sản hậu
Mọi người đều nhận rằng công của ông ngang với công của ông Pasteur, rằng môn giải phẫu sở dĩ có kết quả, tấn phát mau là nhờ ông – Người đă làm một cuộc đại cách mạng trong ngành sản khoa, đă hy sinh cho chân lư mà suốt đời bị thiên hạ chê bai, khinh bỉ, có khi chưởi rủa nữa!
Ghi chú: Ngày nay, người ta biết rằng bệnh sốt sản hậu do những tỏa cầu khuẩn (Streptocoque) sinh ra. Chúng nẩy nở rất mau trong những da thịt thối nát, hoặc làm mủ. Hễ chúng vô được cơ thể, chẳng hạn qua vết thương ở ngoài da th́ gây ra bệnh sốt, mê sảng, sưng màng óc, sưng phổi, sưng ruột … rất nguy cho tính mạng.
Khi chúng ta định lên án hoặc bào chữa chuyện ǵ, hoặc khi tâm trí chúng ta cứ lao xao tính toán, suy nghĩ liên miên không ngừng, th́ chúng ta không thể nhận xét sự việc một cách sáng suốt được nữa; do đó, chúng ta không c̣n nh́n rơ được cái đang là, — cái thực tế đang hiện hữu –; chúng ta chỉ nh́n thấy những sự kiện do chính ư muốn của chúng ta đă tạo nên được phóng chiếu mà thôi.
Mỗi chúng ta đều mang trong ḷng cái h́nh ảnh mà chúng ta ” tưởng rằng chúng ta là như thế ” hoặc ” chúng ta nên là như thế “, chính cái h́nh ảnh trong tâm tưởng đó đă ngăn cản không cho chúng ta nh́n thấy được “con người thật” của chúng ta.
Nh́n mọi sự một cách đơn giản là một trong những điều khó khăn nhất trần đời. Chính v́ đầu óc chúng ta quá phức tạp mà chúng ta đă mất đi cái giá trị của sự đơn giản trong đời sống. Tôi không có ư nói về sự đơn giản trong y phục hoặc thực phẩm, thí dụ như chỉ đóng một cái khố , hoặc phá vỡ kỷ lục về nhịn ăn, hay là bất cứ loại tṛ trẻ vô nghĩa nào mà các bậc “thánh sống” dày công tu dưỡng, mà là cái đơn sơ khiến cho chúng ta có thể nh́n trực tiếp vào các sự việc mà không có nỗi sợ hăi — có thể nh́n vào chính bản thân để thấy “sự thật chúng ta là như thế ” mà không có bất cứ méo mó, biến dạng nào –, khi chúng ta dối trá, dám công nhận sự thật là chúng ta đă dối trá, không bao che hoặc trốn chạy sự thực.
Lại nữa, để có thể hiểu thấu được chính bản thân, chúng ta c̣n cần phải rất khiêm tốn. Nếu chúng ta khởi đầu bằng câu: “Tôi đă biết rơ tôi”, thế là bạn đă tự chấm dứt công cuộc tự t́m hiểu về bản thân bạn, hoặc nếu bạn cho là: “Chẳng có nhiều nhặn ǵ đáng để phải t́m hiểu về “tôi”, chẳng qua “tôi” đây chỉ là một mớ kư ức, tư tưởng, kinh nghiệm và truyền thống, tập quán”, như thế th́ bạn cũng đă không c̣n tự nghiên cứu bản thân bạn nữa rồi. Ngay cái giây phút mà bạn thấy ḿnh đă thành tựu được điều ǵ đó, là bạn đă mất đi cái phẩm chất của sự hồn nhiên và khiêm tốn; cái giây phút mà bạn có được một kết luận hoặc bắt đầu dùng kiến thức để khảo sát vấn đề th́, thế là hết, bạn đă đem sự sống tươi mát chuyển dịch sang thành dạng cũ kỹ già nua.
Nếu bạn không có chỗ để bám trụ, không tin chắc vào đâu, không có thành quả đă đạt được, như thế là bạn có tự do, để quan sát, để gặt hái. Và khi mà bạn nh́n mọi sự bằng cái nh́n tự do, khai phóng, bạn sẽ thấy chúng luôn luôn linh hoạt, mới mẻ trong ḍng sống. Một người mà cứ tin chắc vào những hiểu biết đă có của ḿnh, cho đó là chân lư tuyệt đối, là một người không c̣n sống nữa.
Nhưng làm sao để chúng ta có được tự do để quan sát, t́m hiểu, trong khi ngay từ giây phút lọt ḷng mẹ đến giây phút nhắm mắt ĺa đời, đầu óc chúng ta đă bị hun đúc bằng một nền văn hóa cá biệt trong khuôn khổ hạn hẹp của cái “tôi”? Hàng biết bao nhiêu thế kỷ, chúng ta đă bị nhồi ép bằng những tư tưởng về quốc gia dân tộc, tầng lớp, giai cấp, truyền thống, tôn giáo, ngôn ngữ, giáo dục, văn chương, nghệ thuật, phong tục, tập quán, được truyền bá bằng mọi cách, gây áp lực bằng kinh tế, bằng thực phẩm chúng ta ăn, bằng bầu không khí chúng ta sống, bằng t́nh gia đ́nh, bạn bè, bằng kinh nghiệm — tất cả mọi nguồn ảnh hưởng mà bạn có thể nghĩ tới — và v́ thế các phản ứng của chúng ta đối với mọi vấn đề đều đă bị qui định theo những điều kiện trong môi trường sống của chúng ta.
J. Krishnamurti – Freedom from the Known
Người dịch: Danny Việt (ĐPK)
Hỏi :
– Chúng ta sống nhưng không biết v́ lư do ǵ mà chúng ta sống. Đối với phần đông chúng ta, đời sống có vẻ như là vô nghĩa. Ông có thể nói cho chúng tôi biết về ư nghĩa và mục đích của cuộc đời chăng?
J. Krishnamurti đáp:
– Thế th́ tại sao bạn hỏi câu này? Tại sao bạn lại yêu cầu tôi nói cho bạn biết về ư nghĩa và mục đích của cuộc đời? Chúng ta hiểu như thế nào khi nói “cuộc đời”? Vậy cuộc đời có ư nghĩa, có mục đích chăng? Thế bản thân sự sống này không tự nó có mục đích, có ư nghĩa chăng? Tại sao chúng ta c̣n muốn hơn thế nữa?
Bởi v́ chúng ta quá bất măn với đời sống của chúng ta, cuộc đời chúng ta quá vô vị, quá ḷe loẹt hào nhoáng thùng rỗng kêu to, quá tẻ nhạt, làm hoài cùng một việc, cho nên chúng ta muốn cái ǵ hơn thế, cái ǵ vượt qua những điều chúng ta đang làm. V́ cuộc sống hằng ngày của chúng ta quá trống rỗng, quá tŕ trệ, quá vô nghĩa, quá nhàm chán, u mê đến mức không c̣n chịu nổi, nên chúng ta nói rằng cuộc đời phải có ư nghĩa hơn và do đó bạn hỏi tôi câu này.
Chắc chắn người có một đời sống nội tâm phong phú, người nh́n sự vật đúng theo thực tế và an lạc với những ǵ ḿnh có, th́ không bị bối rối; anh ta sáng suốt, cho nên anh ta không cần hỏi về mục đích của cuộc đời. Đối với anh ta th́ ngay chính bản thân sự sống đă là toàn bộ cuộc hành tŕnh từ khởi đầu tới kết thúc.
Điều khó khăn cho chúng ta là, bởi v́ cuộc sống của chúng ta quá trống rỗng, nên chúng ta muốn t́m cho nó một mục đích và nỗ lực để làm chuyện đó. Cái loại mục đích này chỉ có thể có trong tư tưởng, không có chút thực tế nào cả; và khi mục đích được theo đuổi bằng một đầu óc khờ ngốc, ù ĺ, bởi một trái tim rỗng tuếch, th́ cái mục đích đó cũng sẽ vô nghĩa mà thôi. Cho nên chúng ta phải có quyết tâm làm thế nào để cho cuộc sống được phong phú, không phải bằng tiền tài vật chất hoặc mọi sự liên quan đến nó, mà là nội tâm phong phú — điều này không có ǵ là khó hiểu. . . .
Đời sống là tương quan giao hảo. Đời sống là hành động trong sự liên hệ; khi tôi không cảm thông được trong mối tương quan giao hảo, hoặc khi mối tương quan bị lộn xộn th́ tôi đi t́m một mục đích cao xa hơn.
Tại sao cuộc sống của chúng ta lại trống rỗng, vô nghĩa như vậy? Tại sao chúng ta lại cô đơn, chán nản như vậy? Bởi v́ chúng ta chẳng bao giờ nh́n vào nội tâm chúng ta và tự hiểu chính ḿnh. Chúng ta không bao giờ chịu tự ḿnh chấp nhận rằng cuộc đời này là tất cả những điều chúng ta biết, do đó, nó đáng được thâm hiểu đầy đủ, trọn vẹn. Chúng ta thích tránh né chuyện tự phán xét ḿnh hơn cho nên chúng ta muốn đi t́m mục đích của cuộc đời bên ngoài mối tương quan liên hệ. Nếu chúng ta bắt đầu hiểu thấu những hành động trong mối liện hệ của chúng ta đối với mọi người, với tài sản, với những niềm tin và tư tưởng, th́ chúng ta sẽ thấy được rằng bản thân mối tương quan liên hệ trong cuộc đời sẽ mang đến phần thưởng của chính nó.
Bạn không cần phải đi t́m. Nó cũng giống như đi t́m ḷng thương yêu. Có thể nào nhờ t́m kiếm mà thấy được ḷng thương yêu chăng? Ḷng thương yêu không thể có được do sự nỗ lực gầy dựng. Bạn sẽ t́m ra ḷng thương yêu trong mối dây giao hảo, không ở bên ngoài sự giao hảo, và cũng v́ chúng ta không có ḷng thương yêu nên chúng ta muốn có một mục đích cho đời sống.
Khi có ḷng thương yêu, điều bản chất vốn là vĩnh cửu, th́ sẽ không c̣n chuyện đi t́m Thượng Đế, bởi v́ ḷng thương yêu vốn là Thượng Đế. . .
J. Krishnamurti – The First & Last Freedom
Người dịch: Danny Việt (ĐPK
Hỏi :
– Chúng ta sống nhưng không biết v́ lư do ǵ mà chúng ta sống. Đối với phần đông chúng ta, đời sống có vẻ như là vô nghĩa. Ông có thể nói cho chúng tôi biết về ư nghĩa và mục đích của cuộc đời chăng?
J. Krishnamurti đáp:
– Thế th́ tại sao bạn hỏi câu này? Tại sao bạn lại yêu cầu tôi nói cho bạn biết về ư nghĩa và mục đích của cuộc đời? Chúng ta hiểu như thế nào khi nói “cuộc đời”? Vậy cuộc đời có ư nghĩa, có mục đích chăng? Thế bản thân sự sống này không tự nó có mục đích, có ư nghĩa chăng? Tại sao chúng ta c̣n muốn hơn thế nữa?
Bởi v́ chúng ta quá bất măn với đời sống của chúng ta, cuộc đời chúng ta quá vô vị, quá ḷe loẹt hào nhoáng thùng rỗng kêu to, quá tẻ nhạt, làm hoài cùng một việc, cho nên chúng ta muốn cái ǵ hơn thế, cái ǵ vượt qua những điều chúng ta đang làm. V́ cuộc sống hằng ngày của chúng ta quá trống rỗng, quá tŕ trệ, quá vô nghĩa, quá nhàm chán, u mê đến mức không c̣n chịu nổi, nên chúng ta nói rằng cuộc đời phải có ư nghĩa hơn và do đó bạn hỏi tôi câu này.
Chắc chắn người có một đời sống nội tâm phong phú, người nh́n sự vật đúng theo thực tế và an lạc với những ǵ ḿnh có, th́ không bị bối rối; anh ta sáng suốt, cho nên anh ta không cần hỏi về mục đích của cuộc đời. Đối với anh ta th́ ngay chính bản thân sự sống đă là toàn bộ cuộc hành tŕnh từ khởi đầu tới kết thúc.
Điều khó khăn cho chúng ta là, bởi v́ cuộc sống của chúng ta quá trống rỗng, nên chúng ta muốn t́m cho nó một mục đích và nỗ lực để làm chuyện đó. Cái loại mục đích này chỉ có thể có trong tư tưởng, không có chút thực tế nào cả; và khi mục đích được theo đuổi bằng một đầu óc khờ ngốc, ù ĺ, bởi một trái tim rỗng tuếch, th́ cái mục đích đó cũng sẽ vô nghĩa mà thôi. Cho nên chúng ta phải có quyết tâm làm thế nào để cho cuộc sống được phong phú, không phải bằng tiền tài vật chất hoặc mọi sự liên quan đến nó, mà là nội tâm phong phú — điều này không có ǵ là khó hiểu. . . .
Đời sống là tương quan giao hảo. Đời sống là hành động trong sự liên hệ; khi tôi không cảm thông được trong mối tương quan giao hảo, hoặc khi mối tương quan bị lộn xộn th́ tôi đi t́m một mục đích cao xa hơn.
Tại sao cuộc sống của chúng ta lại trống rỗng, vô nghĩa như vậy? Tại sao chúng ta lại cô đơn, chán nản như vậy? Bởi v́ chúng ta chẳng bao giờ nh́n vào nội tâm chúng ta và tự hiểu chính ḿnh. Chúng ta không bao giờ chịu tự ḿnh chấp nhận rằng cuộc đời này là tất cả những điều chúng ta biết, do đó, nó đáng được thâm hiểu đầy đủ, trọn vẹn. Chúng ta thích tránh né chuyện tự phán xét ḿnh hơn cho nên chúng ta muốn đi t́m mục đích của cuộc đời bên ngoài mối tương quan liên hệ. Nếu chúng ta bắt đầu hiểu thấu những hành động trong mối liện hệ của chúng ta đối với mọi người, với tài sản, với những niềm tin và tư tưởng, th́ chúng ta sẽ thấy được rằng bản thân mối tương quan liên hệ trong cuộc đời sẽ mang đến phần thưởng của chính nó.
Bạn không cần phải đi t́m. Nó cũng giống như đi t́m ḷng thương yêu. Có thể nào nhờ t́m kiếm mà thấy được ḷng thương yêu chăng? Ḷng thương yêu không thể có được do sự nỗ lực gầy dựng. Bạn sẽ t́m ra ḷng thương yêu trong mối dây giao hảo, không ở bên ngoài sự giao hảo, và cũng v́ chúng ta không có ḷng thương yêu nên chúng ta muốn có một mục đích cho đời sống.
Khi có ḷng thương yêu, điều bản chất vốn là vĩnh cửu, th́ sẽ không c̣n chuyện đi t́m Thượng Đế, bởi v́ ḷng thương yêu vốn là Thượng Đế. . .
– Thưa ông, trong chữ guru (đạo sư ), th́ chữ gu có nghĩa là bóng tối của sự ngu dốt và chữ ru có nghĩa là người gỡ bỏ, người xua đuổi. Do đó, guru là ánh sáng xua tan bóng tối của sự ngu dốt, và ông chính là cái ánh sáng đó đối với tôi bây giờ. Vậy th́ theo ư ông, vai tṛ của vị đạo sư (guru) là ǵ, một vị thầy hay là một người tỉnh thức?
J. Krishnamurti đáp:
– Thưa ông, nếu ông dùng từ guru theo nghĩa cổ điển, nghĩa là “xua tan bóng tối của sự ngu dốt”, vậy th́ liệu rằng có thể có một người nào đó, bất kể là sáng suốt hay ngu xuẩn, có thể thực sự giúp xua tan cái bóng tối này cho ai không? Giả tỉ như anh A là kẻ ngu tối, và ông là đạo sư của hắn – đạo sư với cái nghĩa là người xua tan bóng tối, người mang gánh nặng giúp cho người khác, người chỉ đường – liệu rằng vị đạo sư như thế có thể thực sự giúp cho kẻ khác được không? Hoặc là hơn thế nữa, vị đạo sư có thể xua tan bóng tối cho kẻ khác, – không phải là lư thuyết suông, mà là trên thực tế không? Có thể nào ông, nếu ông là một vị đạo sư của ai đó, ông có thể xua tan bóng tối cho hắn không? Biết rằng hắn đau khổ, bối rối, thiếu sáng suốt, thiếu t́nh yêu, buồn bă, liệu ông có thể giúp hắn xua tan được cái bóng tối đó không? Hay là chính bản thân hắn phải cật lực ra mà tự giải thoát? Ông có thể chỉ cho hắn, ông có thể nói: “Nh́n, hăy bước qua cái cửa kia đi”, nhưng mà bản thân hắn phải làm trọn công việc từ đầu cho đến cuối. Cho nên, nếu ông công nhận rằng người này không thể làm giúp người khác cái công việc đó, th́ quả thật ông không phải là đạo sư theo cái nghĩa kể trên.
Hỏi :
– Này nhé, đây là chuyện “nếu” … “nhưng mà” … , vậy th́ “nếu” như có cái cửa ở đó, tôi phải bước qua. “Nhưng mà” cái sự ngu tối này nó khiến cho tôi không nh́n thấy cái cửa ở chỗ nào. Vậy th́ ông, do sự chỉ ra cái cửa, đă gỡ bỏ được sự ngu tối.
Đáp :
– Nhưng mà chính đương sự phải bước. Ông là đạo sư và ông chỉ ra cái cửa. Công việc của ông đến đây là chấm dứt.
Hỏi :
– Tuy nhiên, bóng tối của sự ngu muội đă được gỡ bỏ.
Đáp :
– Không, công việc của ông đă chấm dứt, nay là lúc chính tôi phải đứng lên, bước, và làm tất cả mọi chuyện tiếp theo.
Hỏi :
– Vậy là tuyệt rồi!
Đáp :
— Cho nên không phải là ông đă xua tan cái bóng tối của tôi.
– Xin lỗi, vậy chứ tôi không biết làm sao mà thoát ra khỏi được cái pḥng này. Tôi hoàn toàn mù tịt về sự có một cái cửa đang hiện hữu ở đâu đó, và vị đạo sư đă cởi bỏ sự ngu tối ấy cho tôi. Nhờ vậy, tôi mới làm được những việc cần thiết để thoát ra khỏi căn pḥng.
Đáp :
— Thưa ông, xin nói cho rơ. Ngu tối là sự thiếu hiểu biết, hay là thiếu hiểu biết về bản thân, không phải là đại ngă hoặc tiểu ngă. Cái cửa là cái “tôi” mà qua nó, tôi phải tiến. Cái đó không phải ở ngoài “tôi”. Đó không phải là cái cửa thực sự như cái cửa sơn kia. Đó là cái cửa trong tôi mà tôi phải đi qua. Ông chỉ nói: ” Làm đi”.
Hỏi :
– Đúng thế.
Đáp :
– Nhiệm vụ đạo sư của ông đến đây là đă chấm dứt. Ông không c̣n quan trọng nữa. Tôi không choàng ṿng hoa quanh đầu ông. Tôi phải làm mọi việc. Ông không xua tan được bóng tối của sự ngu dốt. Ông đă, đúng hơn, chỉ ra cho tôi rằng: “Anh là cái cửa, và anh, chính bản thân anh phải tự bước qua.
Hỏi :
– Nhưng mà thưa ông, ông có công nhận rằng ”sự chỉ ra cái cửa đó” là cần thiết không?
Đáp :
– Có chứ! Tôi chỉ ra, tôi làm điều đó. Tất cả chúng ta đều làm điều đó. Tôi hỏi một người bộ hành trên đường: ” Xin chỉ cho tôi đường nào đi tới Saanen” và hắn ta chỉ cho tôi. Nhưng tôi không bỏ th́ giờ ra để mà cung kính: ” Trời ơi! Ông là nhân vật vĩ đại nhất thế giới”. Thật là quá con nít!
J. Krishnamurti – The Awakening of Intelligence
Người dịch: Danny Việt (ĐPK
Trong lúc ngồi tại đây nghe ông nói th́ có vẻ như là tôi hiểu, nhưng khi ra khỏi đây, tôi lại chẳng c̣n hiểu ǵ cả, dù rằng tôi đă cố áp dụng theo những lời ông nói.
J. Krishnamurti đáp:
– … Bạn hăy lắng nghe từ tâm bạn, chứ đừng nghe theo lời diễn giả. Nếu bạn nghe theo diễn giả th́ hắn ta sẽ trở thành kẻ lănh đạo của bạn, sẽ trở thành đường lối để bạn hiểu biết — điều đó quả là khiếp hăi, ghê tởm, bởi v́ như vậy là bạn đă thiết lập một đẳng cấp của thẩm quyền. Cho nên công việc của bạn tại đây là hăy lắng nghe từ chính tâm bạn.
Bạn đang nh́n vào h́nh ảnh mà diễn giả vẽ lên, đó là h́nh ảnh của chính bạn chứ không phải là h́nh ảnh của diễn giả. Nếu bạn đă hiểu rơ rằng bạn đang nh́n vào chính bạn, vậy th́ bạn có thể nói, ” À há, tôi thấy rơ chính tôi, tôi không cần làm ǵ khác về “cái tôi” đó nữa” — thế th́ kể như là xong chuyện. Nhưng nếu bạn nói, “Tôi thấy rơ chính tôi, và phải có sự thay đổi,” và bạn bắt đầu giải quyết theo với sự hiểu biết của chính bạn — điều đó hoàn toàn khác hẳn vớisự áp dụng những điều diễn giả nói … Nếu trong khi diễn giả nói mà bạn cũng nghe cả tiếng nội tâm bạn th́ ngoài sự nghe đó ra c̣n có sự trong sáng, c̣n có sự nhậy cảm; ngoài sự nghe đó tâm trí trở nên lành mạnh, vững vàng.
– Không nhắm mắt tuân theo, không chống đối, tâm hồn trở nên sống động, mẫn cảm — và chỉ có lớp người như thế mới có thể tạo dựng một thế hệ mới, một thế giới mới
Đó là một trong những buổi sáng tuyệt diệu chưa từng thấy . Vừng dương vừa mới nhô lên, le lói giữa những hàng cây thông và cây khuynh diệp. Ánh dương chan ḥa trên mặt nước một mầu vàng rực rỡ, sáng ngời – thứ ánh sáng chỉ xuất hiện trong khoảng không gian giữa núi và biển. Đó là một buổi sáng đẹp ngây ngất, bầu trời trong vắt với làn ánh sáng kỳ diệu khiến cho ta không thể chỉ chiêm ngưỡng bằng mắt mà bằng cả tấm ḷng rộng mở. Và khi bạn nh́n thấy cảnh tượng ấy, bạn sẽ thấy đất và trời xích lại gần nhau và bạn sẽ cảm thấy dường như bản thân ḿnh đă ḥa tan vào với cái đẹp.
Bạn ơi, đừng bao giờ tọa thiền giữa công chúng, hoặc với người nào, hoặc đám đông nào khác. Bạn chỉ nên tọa thiền nơi vắng vẻ, trong sự tịch mịch của trời đêm, hoặc trong sự tĩnh lặng của buổi sáng sớm. Khi bạn tọa thiền nơi vắng vẻ, phải là nơi vắng vẻ. Bạn phải hoàn toàn cô đơn, không theo một hệ thống nào, một phương pháp nào, không lập đi lập lại lời nói, không theo đuổi một ư tưởng, không uốn nắn tư tưởng theo ư muốn của bạn.
Sự tĩnh lặng này sẽ tới khi tâm trí bạn đă được giải thoát khỏi sự suy nghĩ. Khi bị ảnh hưởng bởi ḷng ham muốn, hoặc những điều mà trí năo bạn theo đuổi, dù là trong tương lai hoặc quá khứ, bạn sẽ không có được sự tĩnh lặng. Chỉ trong sự mênh mông của hiện tại, trạng thái đơn độc này sẽ tới. Và rồi, trong sự tĩnh lặng, tất cả mọi giao tiếp đều chấm dứt, sẽ không c̣n có cái người luôn theo dơi với những bồn chồn, với ḷng khát khao ngu ngốc cùng với những rắc rối cuộc đời của hắn. Chỉ khi đó, trong cái tĩnh lặng của sự đơn độc, thiền định mới trở nên một điều ǵ đó mà chúng ta chẳng thể dùng lời nói để mô tả. Thiền định là sự sống vĩnh cửu.
1.Hỏi:
– Tôi sợ chết. Chết là ǵ, tôi phải làm sao để hết sợ chết?
J. Krishnamurti đáp:
– Đặt câu hỏi th́ rất dễ. Nhưng về cuộc đời, không có câu trả lời đơn giản “có” hoặc “không”. Tuy nhiên, bộ óc của chúng ta đ̣i hỏi phải có lời giải đáp “có” hoặc “không”, bởi v́ nó đă được đào tạo trong cung cách là nên nghĩ về cái ǵ chứ không phải là nên hiểu và nh́n sự việc như thế nào.
Khi chúng ta nói: “Chết là ǵ, và làm thế nào để cho tôi có thể không sợ chết?”, là chúng ta muốn t́m ra những cách thức, chúng ta muốn có những sự xác định rơ ràng, nhưng chúng ta chưa bao giờ biết cách suy nghĩ như thế nào về vấn đề đă được đặt ra. Hăy thử coi liệu chúng ta có thể cùng nhau t́m ra giải đáp cho vấn đề này chăng.
Vậy chết là ǵ? Chết là ngưng sống, là chấm dứt cuộc đời, phải vậy không? Chúng ta biết rằng mọi sự đều có kết thúc, hàng ngày chúng ta nh́n thấy điều đó chung quanh chúng ta. Nhưng mà tôi không muốn chết, thế là có cái “tôi” vào cuộc: “Tôi đang suy nghĩ, tôi đang cảm nhận, kiến thức của tôi”, về những cái mà “tôi” đă thực hiện, về những điều mà “tôi” đă chống đối, về tính chất, về kinh nghiệm, về kiến thức, về sự chính xác, về năng lực, về thẩm mỹ. Tôi không muốn tất cả những điều này chấm dứt. Tôi muốn tiếp tục. Tôi chưa hoàn tất mọi sự. Tôi không muốn đi đến kết thúc.
Hẳn là phải có sự kết thúc. Hiển nhiên là tất cả các bộ phận có chức năng vận hành đều sẽ đến lúc phải ngưng làm việc. Nhưng trí năo của tôi không chấp nhận chuyện đó. Cho nên tôi bắt đầu tạo ra một niềm tin, một sự việc có tính cách tiếp nối, liên tục. Tôi muốn chấp nhận điều này bởi v́ tôi đă có đầy đủ những lập luận, đă thấm nhuần cái quan niệm về một sự tiếp nối, rằng có sự tái sinh.
Chúng ta không thảo luận về chuyện “có hay không có sự tiếp nối”, hoặc “có hay không có sự tái sinh”. Đó không phải là vấn đề. Vấn đề là ngay như bạn có những niềm tin đó, bạn vẫn sợ hăi. Bởi v́, xét cho cùng th́ cũng chẳng có cái ǵ là chắc chắn cả, chuyện đời luôn luôn bấp bênh. Luôn luôn có nỗi niềm băn khoăn âm thầm này đi theo sau sự tin tưởng.
V́ thế cái tâm, vốn biết có sự chấm dứt, nên bắt đầu cảm nhận nỗi sợ hăi, mong mỏi càng được sống lâu bao nhiêu càng tốt, t́m ṭi những cách để giải tỏa bớt nỗi ám ảnh nặng trĩu trong ḷng. Rồi th́ tâm trí cũng tin về một sự tiếp nối sau khi chết. Sự tiếp nối, sự liên tục, là ǵ?
Phải chăng sự tiếp nối, sự liên tục, hàm ư thời gian, không phải chỉ là cái thời gian trôi chảy theo thứ tự trên đồng hồ, mà là quy tŕnh thời gian tâm lư, trong nội tâm. Tôi muốn sống. V́ tôi nghĩ rằng dây là một quy tŕnh tiếp nối, liên tục, không có chuyện chấm dứt nào hết, cho nên tâm trí tôi luôn luôn t́m cách tự thâu thập thêm trong niềm hy vọng về một sự tiếp nối, liên tục. Mà cái tâm suy nghĩ th́ chịu sự chi phối của thời gian, cho nên nếu nó cảm nhận được sự liên tục của thời gian, th́ nó không thấy sợ hăi.
Bất tử, bất diệt là ǵ? Sự tiếp nối, liên tục của cái “tôi” – cái “tôi” trên một b́nh diện cao hơn – là cái mà chúng ta gọi là bất tử, bất diệt. Bạn hy vọng cái “tôi” sẽ tiếp tục. Cái “tôi” vẫn c̣n nằm trong lănh vực của sự suy nghĩ, không phải sao? Bạn đă nghĩ về nó. Cái “tôi”, dù có thể bạn nghĩ rằng nó thuộc hàng thượng đẳng cỡ nào, th́ cũng vẫn là sản phẩm của tư tưởng, v́ thế, đă bị điều kiện hóa, nảy sinh từ thời gian.
Xin đừng chỉ đơn giản đuổi theo sự lư giải qua lời nói của tôi mà phải nh́n thấu đáo toàn thể ư nghĩa của vấn đề. Thật ra th́ bất tử, bất diệt, không phải là sản phẩm của thời gian, do đó, nó không thoát thai từ tâm tưởng, không phải là món đồ có được từ những niềm mơ ước, từ những sự đ̣i hỏi, từ những nỗi sợ hăi và từ ḷng khao khát của tôi.
Người ta thấy rơ là cuộc đời phải có sự kết thúc, bất th́nh ĺnh kết thúc. Cái ǵ đă sống ngày hôm qua, chưa chắc hôm nay c̣n sống, và cái đang sống hôm nay chưa chắc ngày mai c̣n sống. Đời sống tất nhiên là phải có lúc kết thúc. Đó là sự thực, nhưng chúng ta không chấp nhận nó. Bạn cũng khác với chính bạn ngày hôm qua. Khác về mọi sự, khác về những sự tiếp xúc, phản ứng, cưỡng bách, chống cự, ảnh hưởng, thay “cái đă là”, hoặc chấm dứt nó.
Một con người thực sự sáng tạo th́ phải có kết thúc, và anh ta chấp nhận điều đó. Nhưng chúng ta không chấp nhận sự kết thúc bởi v́ tâm trí chúng ta đă quá quen với cái quy tŕnh của sự tích lũy. Chúng ta nói: “Tôi đă học được điều đó hôm nay”, “Tôi đă biết được điều đó hôm qua”. Chúng ta suy nghĩ chỉ trong dạng thời gian, trong sự tiếp nối, liên tục. Nếu chúng ta không suy nghĩ trong dạng liên tục, tiếp nối, th́ sẽ có chấm dứt, sẽ có chết, và chúng ta sẽ nh́n rơ mọi sự, “đơn giản như chính chúng là như thế “, trực tiếp.
Chúng ta không chịu chấp nhận cái thực tế hiển nhiên của sự chấm dứt v́ đầu óc chúng ta luôn t́m kiếm, trong tính cách liên tục, tiếp nối, sự an toàn trong gia đ́nh, tài sản, nghề nghiệp và công việc chúng ta thực hiện. Cho nên chúng ta lo sợ. Chỉ có cái tâm được giải thoát khỏi thói hăm hở t́m cầu sự bảo đảm an toàn, giải thoát khỏi khát vọng có được sự liên tục, khỏi cái qui tŕnh của sự tiếp nối, khi đó nó sẽ biết thế nào là bất diệt, bất tử.
Nhưng với cái đầu óc cứ mải miết t́m ṭi sự bất tử cho bản thân, cái “tôi” cứ t́m cầu sự tiếp tục, sẽ không bao giờ biết chết là ǵ; cái loại đầu óc ấy sẽ không bao giờ biết nổi ư nghĩa của sợ hăi và chết, để vượt qua được.
Tâm trí không thể tự do khi mà nó c̣n bị rập khuôn hoặc điều kiện hóa. Người ta nghĩ rằng không thể để cho bạn được tự do suy nghĩ, không bị rèn luyện vào khuôn khổ, mà phải bắt tâm trí bạn vào một khuôn khổ nào đó. Ngoài ra, đối với một nền văn minh càng lâu đời, th́ sức nặng của truyền thống, của thẩm quyền, của những quy tắc càng đè nặng trĩu lên tâm trí con người.
Lấy thí dụ những chủng tộc cổ xưa như Ấn Độ bị sống g̣ ép vào khuôn khổ hơn những người sống tại Mỹ, nơi có nhiều tự do về đời sống xă hội và kinh tế, v́ đó là một dân tộc gồm những nhà tiền phong mở đường lập quốc mới gần đây.
Một tâm trí bị rèn vào khuôn mẫu th́ không thể tự do, v́ nó không thể vượt qua được cái biên giới của chính nó, vượt qua được cái hàng rào mà chính nó đă tạo dựng chung quanh nó, đó là điều hiển nhiên. Và thật là vô cùng khó khăn cho cái loại tâm trí này, để nó có thể tự giải thoát khỏi cái khuôn khổ và vượt được ra ngoài, bởi v́ cái khuôn mẫu đè nặng lên nó không những từ xă hội, mà tại luôn cả tự nó ràng buộc chính nó. Bạn thích cái cung cách sống của bạn v́ bạn ngại, không dám vượt qua nó. Bạn sợ những điều cha mẹ bạn, thầy linh hướng của bạn, và xă hội sẽ b́nh phẩm, nên bạn giúp họ tạo dựng cái hàng rào nó sẽ cầm giữ bạn lại
Chính đây là cái nhà tù tư tưởng mà số đông chúng ta bị giam cầm, và đó là lư do cha mẹ chúng ta và một ngày kia sẽ tới phiên chúng ta sẽ bảo con cái chúng ta phải làm cái này hoặc không làm cái kia.
Trong khi c̣n trẻ, tự do là điều vô cùng quan trọng, không phải chỉ trên b́nh diện ư thức, mà tận đáy ḷng. Có nghĩa là bạn phải quan sát chính bạn, tỉnh giác trước những nguồn ảnh hưởng t́m cách xâm lấn vào tâm hồn bạn để chi phối bạn. Có nghĩa là đừng bao giờ chấp nhận điều ǵ một cách không thận trọng, mà phải luôn luôn t́m hiểu, nghiên cứu kỹ lưỡng và phản đối, nếu cần.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.