T́m hiểu lại lịch sử ngày 30 tháng 4 ngày đă đi vào lịch sử của cả thế giới. Nước Mỹ chính thức bị thua. Cùng t́m hiểu trước đó họ đă đem ǵ sang VN. Cùng vietbf.com khám phá thêm.
(Công lư) - Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ đă phải 8 lần thay Đại sứ toàn quyền, 4 lần thay Tổng tư lệnh quân viễn chinh ở Việt Nam.
Người Mỹ đem ǵ đến Việt Nam?
Về lực lượng, Mỹ đă huy động 6,6 triệu lượt lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Quân Mỹ lúc cao nhất là 549.500 tên (4/1969) và 72.600 quân chư hầu, bao gồm: 70% lục quân (tất cả các đơn vị tin h nhuệ nhất), 60% không quân (45% máy bay B52 và các loại máy bay hiện đại nhất), 40% hải quân (trong đó có 15/18 tàu sân bay) và 22.000 xí nghiệp để phục vụ chiến tranh.
Máy bay B-52 của Không quân Mỹ dội bom dữ dội trên bầu trời gần Tây Ninh ngày 2/11/1965. Ảnh: AP
Từ tháng 1-1961 đến tháng 3-1973, Mỹ đă ném xuống Việt Nam 14,3 triệu tấn bom đạn, tương đương 725 quả bom nguyên tử ném xuống Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai. Số bom napan (bom cháy) Mỹ sử dụng ở Việt Nam gấp 25 lần số bom Mỹ sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Mỹ đă viện trợ cho quân ngụy Sài G̣n hơn 18 tỷ USD bao gồm: 1.800 máy bay, hơn 2.000 xe tăng, xe bọc thép, hơn 1.500 khẩu pháo, hơn 56.000 xe cơ giới, gần 2 triệu khẩu súng các loại, hơn 120.000 máy thông tin.
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Việt Nam đă loại khỏi ṿng chiến đấu hơn 360.000 tên Mỹ và chư hầu, hơn 3 vạn máy bay các loại, gần 4 vạn xe tăng và xe bọc thép, hơn 7.000 tàu và xuồng chiến đấu. Có 12 tướng Mỹ chết trên chiến trường Việt Nam. Quân và dân miền Bắc đă bắn rơi 4.181 máy bay, bắt sống hàng trăm giặc lái.
Tổng chi phí cho chiến tranh xâm lược phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam là 676 tỉ USD và Mỹ đă bị nhân dân thế giới kịch liệt phản đối, trong đó có nhân dân Mỹ yêu chuộng ḥa b́nh: có 8 người Mỹ tự thiêu, 70 thanh niên đốt thẻ quân dịch, hơn 500 ngh́n lính Mỹ đào ngũ, hàng trăm cuộc biểu t́nh ở khắp các thành phố ở Mỹ để phản đối chiến tranh Việt Nam.
Người Mỹ nói ǵ?
Cả Pháp và Mỹ vẫn bàng hoàng về thảm bại cay đắng ở Việt Nam, họ t́m cách lư giải, biện minh về sự thật: Quân đội nhân dân Việt Nam trong gian khó đă cùng toàn dân liên tiếp đánh bại hai cường quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự rất mạnh của thế giới với trang bị vũ khí, kỹ thuật hiện đại bậc nhất. Thật khó giải thích, khi tương quan lực lượng hai bên quá chênh lệch nhau về tiềm lực, sức mạnh vật chất; thế mà bên cho là yếu nhất lại là bên thắng.
Chiến sĩ cách mạng Việt Nam. Ảnh tư liệu
Sách “Những bí mật của chiến tranh Việt Nam” của Trung tướng Phillip B. Davidson, Giám đốc cơ quan t́nh báo Mỹ tại miền Nam Việt Nam viết: “Chiến lược chiến tranh cách mạng là một điều bí mật của chiến tranh Việt Nam… đă chứng minh là một chiến lược hơn hẳn các chiến lược mà Mỹ đă dùng để chống lại nó. Ưu thế hơn hẳn của chiến lược chiến tranh cách mạng Việt Nam là nằm trong thế chiến lược chủ động. Mỹ luôn phải nhảy theo điệu nhạc chiến lược của Bắc Việt, v́ chính cộng sản đă quyết định cách đánh và quy mô của chiến tranh… Đây là một chiến lược mạnh mà chưa có chiến lược nào chống lại nó mà thành công”.
Giáo sư, tiến sĩ E. Tin -pho, học viện chỉ huy tham mưu không quân Mỹ đă phải thừa nhận: “Năm 1975, Mỹ đă để một nhà nước được Mỹ đẻ ra và nuôi dưỡng hơn hai thập kỷ sụp đổ, v́ cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ đă thất bại từ lâu. Nó thất bại v́ đối phương đă đề ra một chiến lược quân sự giỏi hơn, một chiến lược nhận thức chiến tranh ở phạm vi rộng lớn hơn, coi như là một hiện tượng văn hóa kết hợp chặt chẽ các mặt xă hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao cũng như quân sự. Không lực - sức mạnh to lớn nhất của Mỹ bị “cơn gió ngang” văn hóa và lịch sử làm tê liệt”.
Tướng Maxwell D. Taylor, cựu Đại sứ Mỹ ở Sài G̣n, sau khi từ chức (tháng 6/1965) về làm cố vấn đặc biệt của Tổng thống Lyndon Baines Johnson đă phải thốt lên rằng: "Tất cả chúng ta đều có phần của ḿnh trong thất bại của Mỹ ở Việt Nam và chẳng có ǵ là tốt đẹp cả. Chúng ta không hề có một anh hùng nào trong cuộc chiến tranh này mà toàn là ngu xuẩn. Chính tôi cũng nằm trong số đó".
Không cứu văn được thất bại
Cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam là thất bại nặng nề nhất của quân đội Mỹ từng phải gánh chịu. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đă trải qua 5 đời Tổng thống Mỹ kéo dài 222 tháng và 4 lần thay đổi chiến lược chiến tranh song vẫn không cứu văn được thất bại.
Tổng thống Mỹ David Dwight Eisenhower (1953-1961), với chiến lược “Aixenhao” (Chiến tranh đơn phương), đă dựng lên chính quyền độc tài Ngô Đ́nh Diệm lấy đó làm công cụ chống lại miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự. Mỹ liên tiếp mở hàng loạt chiến dịch “tố cộng” để tàn sát những người kháng chiến và yêu nước ở miền Nam Việt Nam.
Đến Tổng thống John Fitzgerald Kennedy, với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), đă xây dựng quân đội ngụy Sài G̣n mạnh với vũ khí, trang bị và cố vấn Mỹ tiến hành “B́nh định”, lập “ấp chiến lược” nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang và chính trị của cách mạng miền Nam, thực hiện b́nh định Việt Nam trong 18 tháng.
Rất đông người biểu t́nh ở thành phố Berkeley-Oakland, California tụ tập phản đối Mỹ tiến hành chiến tranh ở Việt Nam tháng 12/1965. Ảnh: AP
Tổng thống Lyndon Baines Johnson, với chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968). Mục tiêu của chiến lược này trực tiếp đưa quân chiến đấu từ Mỹ sang, thực hiện chiến lược “t́m và diệt”, tiếp đó là chiến lược hai gọng ḱm “tiêu diệt chủ lực đối phương và b́nh định miền Nam”; đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc trên qui mô lớn, với chiến dịch “Sấm rền” cùng kế hoạch chiến lược được chia làm 3 giai đoạn ḥng giành thắng lợi trong ṿng 25 đến 30 tháng.
Tổng thống Richard Milhous Nixon, với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1974), có mục tiêu: Rút quân nhưng để lại cố vấn chỉ huy, cung cấp vũ khí, trang bị, lương thực, tiền của cho ngụy quân và ngụy quyền Sài G̣n; mở chiến dịch “Lam Sơn 719” ḥng ngăn chặn chi viện của hậu phương miền Bắc trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn; tiến hành đánh phá miền Bắc trên quy mô lớn bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội, Hải Pḥng và các thành phố khác, rải ḿn phong tỏa các cảng, cửa sông Việt Nam.
Tổng thống tiếp theo Gerald Rudolph Ford vẫn tiếp tục theo đuổi chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” bằng việc yêu cầu Quốc hội thông qua khoản viện trợ quân sự cho chính quyền Sài G̣n để thực hiện lấn chiếm, “b́nh định” chống phá Hiệp định Pari và dùng lực lượng tấn công lớn trên chiến trường miền Nam.
Tổng thống Ford là vị Tổng thống cuối cùng chịu sự thất bại trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”; buộc phải chấp nhận thất bại trước những đ̣n tiến công của quân và dân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.