Cách  đây không lâu người lái xe rất chú ư kiểm tra thường xuyên mức dầu nhớt  có trong động cơ và định kỳ cho thay dầu mới cùng với bộ lọc mỗi khi xe  chạy khoảng 3.000 dặm.
 
Cần hiểu về dầu nhớt
 
Hiện nay, nhờ vào những tiến bộ  trong sản xuất động cơ mà xe chạy bền hơn, ít phải chăm sóc hơn cũng như  nhờ những cải tiến về dịch vụ sửa xe, làm cho người lái xe mất dần thói  quen thường xuyên kiểm tra mức dầu nhớt và tự bổ xung hoặc thay dầu máy  cho xe ô tô của ḿnh.
 
 
 
Câu hỏi đặt ra: V́ sao phải quan tâm đến dầu máy?
 
Dầu máy là một  chất lỏng nhớt điền đầy các khoảng trống trong động cơ, có nhiệm vụ làm  giảm ma sát cho các bộ phận chuyển động và chống ăn ṃn cho các chi tiết  của động cơ. Dầu máy c̣n đóng vai tṛ môi trường tản nhiệt và lưu giữ  các hạt vụn kim loại kích thước cỡ micromet sinh ra do bào ṃn các phần  chuyển động của động cơ, muội than do cháy nhiên liệu và các sản phẩm  tạo ra do dầu bị phân huỷ.
 
Dầu máy bao gồm  những ǵ? Thành phần chính của nó có khoảng 90% là dầu nặng - đó là tổ  hợp các hyđrocacbon thuộc nhóm parafin từ dầu mỏ (paraffinic  hyđrocarbon). Phần c̣n lại là các phụ gia. để pha các loại dầu máy,  người ta tổ hợp các thành phần hyđrocacbon nặng có độ dài mạch cacbon  tuỳ thuộc vào tính chất cần thiết, thường nằm trong khoảng C16 đến C50.
 
Gốc cơ bản (base  stocks) được chia thành năm nhóm. Nhóm I-III là thành phần hyđrocacbon  tách ra trong quá tŕnh chưng phân đoạn dầu mỏ, c̣n nhóm IV-V là các dầu  gốc được tạo ra bằng con đường tổng hợp các sản phẩm hoá dầu.
 
Dù xuất xứ như thế  nào, dầu máy cũng phải thoả măn yêu cầu kỹ thuật được đánh giá theo một  tiêu chuẩn chung được quốc tế thừa nhận.
 
Cấp độ của dầu máy  dựa trên độ nhớt của nó ở nhiệt độ thường. độ nhớt càng cao, cấp độ của  nó càng lớn. Thông thường cấp độ biểu thị bằng một con số nằm trong  khoảng 0 - 50.
 
Việc chọn dầu máy  phụ thuộc vào thời tiết. Ví dụ, loại dầu kư hiệu 5W-30 dùng cho trường  hợp nhiệt độ rất lạnh dưới -20oC, loại 10W - 30 dùng cho trường hợp  nhiệt độ lạnh tới -20oC, c̣n loại 20W - 30 dùng cho khí hậu ấm nhiệt độ  tới 0oC. Tuy nhiên người ta cũng sản xuất loại dầu nhớt đa cấp độ. đây  là thuộc loại đặc biệt chỉ dùng trong điều kiện thời tiết cực kỳ khắc  nghiệt hay dùng cho các loại xe đua. Trong trường hợp này người ta cho  thêm vào dầu các polyme như polymetylacrylat, poly-etylen để cải thiện  độ nhớt của dầu gốc khi ở nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao.
 
Phụ gia là một  phần rất quan trọng trong dầu máy. Thông dụng nhất hiện nay là dùng các  phụ gia họ metal phenoxid có công thức RC6H4ONa trong đó R là gốc alkyl.  Nhiệm vụ của chúng là trung hoà các axit tạo ra bởi các gốc sunfua có  trong dầu; ngăn cản quá tŕnh ôxy hoá xảy ra trong dầu; tẩy sạch và làm  lắng đọng các hạt muội than, các sản phẩm phân huỷ và vận chuyển chúng  đến bộ lọc dầu để loại chúng ra khỏi chu tŕnh làm việc của dầu máy.
 
Một lớp phụ gia  khác được dùng làm chất chống bào ṃn, ví dụ như dialkyldithiophotpha  t  kẽm Zn[S2P (OR)2]2, trong đó R là gốc alkyl mạch thẳng. Chất phụ gia này  bám thành lớp mỏng vài micromet trên bề mặt kim loại và có tác dụng  ngăn cản bề mặt bị trầy xước.
 
Các hợp chất của kẽm cùng với các amin như là diphenylamin vừa là chất ức chế ăn ṃn kim loại vừa là chất chống ôxy hoá.
 
Cuối cùng, một câu hỏi nóng bỏng đặt ra: ta nên thay dầu như thế nào?
 
Quả thực có nhiều  thông tin khác biệt nhau về vấn đề này. Kinh nghiệm lâu nay đă được kiểm  chứng của cánh lái xe là nên thay dầu máy mỗi khi xe chạy hết 3.000 dặm  đường.
 
Nhưng cũng có  những ư kiến khác. Với những cải tiến áp dụng trong sản xuất động cơ và  sản xuất dầu máy hiện nay th́ thay dầu cho 5.000 dặm đường là được, c̣n  nếu thay sau 3.000 dặm là lăng phí và tăng thêm lượng dầu thải. Người ta  c̣n thử nghiệm một loại dầu máy tổng hợp mới có các tính năng tốt, thậm  chí sau khi chạy 25.000 dặm (40.000km) đường trong điều kiện thông  thường mới cần phải thay dầu.
 
Nhờ tiến bộ khoa  học, xe hơi được cải tiến với blốc máy mỗi ngày một mạnh hơn, th́ nhớt  máy cũng phải được cải tiến mỗi ngày để đáp ứng nhiệm vụ đặt ra cho  ḿnh. Máy càng mạnh càng phát nhiều hơi nóng, buộc nhớt phải làm việc  vất vả hơn để hoá giải hơi nóng sinh ra trong ḷng máy. Điều đó có nghĩa  là, cùng với sự phát triển của xe hơi, nhớt cũng phải được cải biến với  những tiến độ tương ứng.
 
Thông thường, nghĩ  tới nhớt, ư tưởng chung của gần như tất cả chúng ta là nghĩ tới một  chất lỏng trơn, có mục đích “làm trơn” các bộ phận kim loại khi chúng  tiếp giáp với nhau.
 
Thế nhưng, ngoài  cái nhiệm vụ dễ quan niệm và phổ quát ấy, nhớt c̣n làm được cái ǵ khác  nữa không? Được, rất nhiều. Công dụng của nhớt, có ta có thể nói tóm lại  trong 4 lănh vực sau đây:
 
Làm trơn máy
 
Trước hết, nhớt  phải làm trơn các linh kiện bên trong máy, để các thành phần này tiếp  cận với nhau được dễ dàng, mà không làm tiêu lực do cọ sát. Nhất là khi  xe mới đề máy, vai tṛ của nhớt lại càng trở nên quan trọng. Là v́, khi  xe không chạy, đầu máy không làm việc, th́ nhớt chảy về b́nh. Khi đầu  máy vận hành, lập tức nhớt được huy động, và được bơm đến khắp mọi ngơ  ngách trong máy, và tạo ra một lớp màng mỏng giữa những bộ phận chuyển  động, làm trơn tru mọi sự cọ sát. Mỗi một loại máy cần tới một độ trơn  nào đó, được cung ứng bởi lớp màng do nhớt tạo ra giữa 2 bề mặt chuyển  động.
 
Có người cho rằng,  nếu nhớt 30 là tốt, th́ ắt hẳn nhớt 50 phải tốt hơn. Không hẳn thế. Nếu  đầu máy của chiếc xe chúng ta đang sử dụng không tương xứng với nhớt  50, th́ dùng nó chưa chắc đă tốt: Dùng nhớt 50 không làm cho máy ṃn  hơn, nhưng rất có thể sẽ nâng cao nhiệt độ trong ḷng máy. T́nh trạng  này trước mắt có vẻ như “không sao”, nhưng về lâu dài, th́ xe sẽ bị giảm  thọ, do đầu máy bị hao ṃn trước tuổi.
 
Nhớt phải bảo vệ
 
Lớp màng mỏng do  nhớt máy tạo ra giữa 2 bề mặt kim loại, ngoài việc làm trơn, c̣n có thêm  những công dụng khác quan trọng không kém. Đó là giữ cho 2 bộ phận khỏi  trực tiếp cà vào nhau khi tiếp xúc, nhờ đó chúng không bị bào ṃn. Điều  này có vẻ như là một công dụng hiển nhiên. Nhưng một điều không hiển  nhiên, mà quan trọng không kém. Đó là nhớt phải giúp cho các linh kiện  máy chống lại tiến tŕnh bị ăn ṃn (corrosion). Xin phân biệt rơ: Bào  ṃn (wear) xảy ra khi 2 vật thể tiếp xúc vào nhau, c̣n “bị ăn ṃn” là do  tiếp cận hoá chất trong không khí hoặc môi trường. Ngoài việc bị bào  ṃn khi tiếp cận, các bộ phận trong đầu máy c̣n có thể bị hoá chất ăn  ṃn nữa. Xuyên qua thời gian sử dụng, nhớt bị ốc xít hoá, hoặc hấp thụ  những chất ô nhiễm và “phó phẩm” sinh ra trong tiến tŕnh cháy nổ ở đầu  máy, làm nhớt biến chất, với nồng độ acid càng lúc càng cao. Rồi trong  khi làm nhiệm vụ, nhớt lại trải acid ra trên mặt các linh kiện máy, và  như thế tiến tŕnh ăn ṃn bắt đầu, mau chóng đưa đến sự suy sụp của máy.  V́ thế, nhớt phải được chế tạo với những đặc tính chống lại các chất  acid này.
 
Nhớt phải làm sạch
 
Nếu đầu máy không  sạch, máy không thể nào hoạt động hiệu quả. Các chất cặn dơ đóng trong  máy sẽ cản trở chuyển dộng của các bộ phận máy, gây hao tốn nhiên liệu,  và đầu máy không thể làm việc hiệu quả. Thêm vào đó, các chất ô nhiễm ẩn  chứa trong nhớt, nếu không có cách trị, có thể bào ṃn linh kiện máy  rất thê thảm tới mức không c̣n có thể phục hồi được.
 
Bất cứ một vẩn bụi  nào lớn hơn từ 5 tới 20 micron (tuỳ loại xe) đều có thể gây tổn hại  nghiêm trọng cho đầu máy nếu không được lấy ra hoặc “kềm chế” kịp thời.  Để các bạn có một ư niệm về micron, xin h́nh dung sợi tóc trên đầu chúng  ta. Người ta vẫn nói nhỏ hoặc mỏng như sợi tóc, nhưng dù mỏng nhỏ như  vậy, một sợi tóc cũng đo được 100 micron độ dầy. Th́ thừ hỏi, những vẩn  bụi 20 micron, thậm chí 5 micron c̣n nhỏ đến thế nào? Ấy vậy mà chúng  cũng có thể gây những tổn hại khó lường cho đầu máy. Điều này cho thấy  nhớt phải sạch trong, tinh tuyền tới mức nào. Chính v́ thế, công tác lọc  nhớt (filter) là một việc làm rất quan trọng. Ngoài ra, nhớt c̣n phải  tự ḿnh thực hiện công tác thanh tẩy, tức là không cho vẩn bụi lắng  xuống để kết tủa thành những tầng cặn trong đầu máy, mà phải liên tục  đưa các chất ô nhiễm ấy luân lưu cho đến khi chúng được thải ra qua bộ  lọc.
 
Nhớt phải làm mát
 
Nhớt máy càng đóng  một phần lớn trong công tác làm mát máy. Nói tới làm mát máy, thường  th́ chúng ta chỉ nghĩ tới hệ giải nhiệt (tức cooling system). Thực ra,  nước giải nhiệt chỉ làm mát được phẩn trên của đầu máy. Phần c̣n lại  (chứa crankshaft, camshaft, timing gears, piston và rất nhiều thành phần  quan trọng khác trong bl ốc máy) chủ yếu được làm mát do nhớt.
 
Tiến tŕnh cháy nổ  và sự cọ sát giữa các thành phần trong đầu máy phát sinh rất nhiều  nhiệt. Sức nóng này được ḍng nhớt hấp thụ khi nó chảy qua các bề mặt  linh kiện, và được đưa về b́nh nhớt. Từ đây, sức nóng được phát tán vào  tầng không khí bao quanh b́nh nhớt.
 
Phần sau đây, chúng ta sẽ t́m hiểu xem nhớt được cấu tạo thế nào để có thể thực hiện được những công tác trên.
 
Thành phần cấu tạo nhớt
 
Nhớt được tạo  thành ra sao? Những yếu tố nào có ở trong nhót? Sự khác biệt cơ bản  trong tiến tŕnh chế tạo giữa nhớt thường (standard petroleum oil) và  nhớt tổng hợp (synthetic) là ǵ?
 
Có 2 thành phần cơ  bản mà bất cứ một loại nhớt nào cũng phải có. Đó là: Phần căn bản và  phần pha chế (additive). Phần căn bản là phần chính trong nhớt. Phần pha  chế là những hoá chất được thêm vào, làm tăng chất lượng của nhớt, hoặc  làm giảm những yếu tố tác hại vốn có trong nhớt.
 
Nói về phần căn  bản, lại có 2 loại chính: Nhớt lấy từ dầu khí (petroleum), cũng là loại  nhớt thường dùng, và nhớt tổng hợp (synthetic). Nhớt dầu khí là loại dầu  thô tinh khiết, chủ yếu là thành phẩm của thiên nhiên. C̣n nhớt tổng  hợp, trái lại, là một tổng hợp các hoá chất, được bào chế pha trộn trong  pḥng thí nghiệm. Là một sản phẩm nhân tạo, dĩ nhiên, nhớt Synthetic  chỉ dùng những hợp chất tinh khiết - không ô nhiễm đáp ứng hiệu quả nhất  với công tác được giao phó. Nhớt tổng hợp đă có từ những năm đầu thế kỷ  20, những phải chờ măi đến thập niên 1970 th́ mới trở thành phổ biến.
 
 
 
Theo Oto-hui