HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
KHI BỊ CÔN TRÙNG, ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI CẮN TRONG LÚC SINH HOẠT NGOÀI TRỜI Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"
Những hoạt động ngoài trời như làm việc, vui chơi, giải trí, du ngoạn ở trong một số hoàn cảnh , khí hậu , và thời tiết . Khí hậu nóng và lạnh đều có thể gây ra những hệ quả đối lập (adverse consequences), và những sinh vật (critters) sống bên ngoài thỉnh thoảng gây dị ứng (ngứa ngáy khó chịu) hoặc tổn thương . Cơ thể bị thiếu nước hoặc ở cao độ (thí dụ lên đỉnh núi) và ở trong một số điều kiện ngoài trời khác cũng có thể làm bạn cảm thấy suy yếu đi .
Cho dù không có vấn đề ǵ khi bạn hoạt động ngoài trời, nhưng thật quan trọng bạn biết làm ǵ để chăm sóc hoặc trợ giúp những người bị chấn thương, bị bệnh tật bất ngờ .
I) BỊ CÔN TRÙNG, LOÀI VẬT VÀ NGƯỜI CẮN
Nhiều loại côn trùng và các sinh vật khác, bao gồm cả con người, gây ra các vết cắn và vết châm chích có thể cho cảm giác không thoải mái hoặc đe dọa tính mạng từ nhẹ nhẹ đến trung b́nh. Điều quan trọng là biết làm ǵ, làm thế nào để trị liệu, và khi nào th́ cần t́m kiếm đến trợ giúp từ chuyên gia y tế để trị liệu bất kỳ thương tổn tàng ẩn bên trong.
1) B̉ CẠP CẮN (SCORPION BITES)
Ḅ cạp là loại côn trùng nhiều chân có h́nh dạng giống tôm hùm (lobster-like arthoropods) nằm trong xếp loại côn trùng có nọc độc (arcahnid class, cùng loài nhền nhện = spider class), có một ng̣i / kim xoăn ở phần cuối nơi đuôi, và chúng thường được t́m thấy ở vùng sa mạc phía Tây Nam của Mexico (nước Mễ Tây Cơ). Những vết chích / đốt của bọ cạp dường như không có khả năng gây tử vong và dễ dàng điều trị, nhưng lại nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già hơn . Những triệu chứng bao gồm đau nhức ngay lập tức (immediate pain), nóng rát (burning), sưng tấy chút chút (minor swelling) và cảm giác tê (numb) hoặc ngứa ran (tingling sensation).
Những buớc sau đây cần nên thực hiện để trị liệu vết ḅ cạp cắn:
1. Rửa vùng bị ḅ cạp cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước
2. Dùng túi trườm lạnh đặt lên vùng bị ḅ cạp cắn trong ṿng 10 phút , nếu cần thiết th́ lập đi lập lại việc trườm lạnh vùng bị cắn với khoảng cách giữa các lần trườm lạnh là 10 phút .
3. Gọi điện thoại đến trung tâm kiểm soát chất độc (the Poison Control Center), hay đi bệnh viện khi có bất kỳ triệu chứng nghiêm trọng ǵ
2) BỌ VE CẮN (TICK BITES)
Những người sống vùng rừng cây hay đồng cỏ, hay những người dành thời gian vui chơi giải trí ở những khu vực này th́ dễ bị bọ ve cắn . Loài côn trùng nho nhỏ này sống bằng cách hút máu các loài động vật có vú (mammals) thí dụ như hươu nai (deer), loài gậm nhấm (rodents), thỏ (rabbits) và có thể truyền bệnh từ động vật sang người .
Việc sơ cứu (first aid) những vết bọ ve cắn bao gồm loại bỏ con bọ ve đang bu bám ngay lập tức để tránh những phản ứng từ vết cắn và giảm thiểu tối đa các loại bệnh nhiễm trùng do bọ ve gây ra thí dụ bệnh Lyme, bệnh nóng sốt Colorado bọ ve (Colorado tick fever), bệnh nóng sốt được phát hiện ở núi đá (Rocky Mountain Spotted fever)
Để tháo bỏ con bọ ve bu bám trên người , hăy làm như sau:
1. Dùng cây nhíp (tweezers) hay cây kẹp nhỏ nhỏ cong cong hay thẳng thẳng (small curl or flat forcepts) kẹp lấy đầu con bọ ve và càng cận sát nơi da đang bị con bọ ve cắn càng tốt, rồi nhẹ nhàng kéo ra, đừng bóp nát hay xoay vặn con bọ ve
2. Rửa vùng bị bọ ve cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước.
3. Bôi thuốc Antihistamine hoặc loại 1% hydrocortisone cream (loại kem chứa 1% chất hydrocortisone)
Cần phải có sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp , nếu con bọ ve cắn quá sâu và bạn không thể tháo gỡ nó ra được, hoặc bạn đang ở trong khu vực được thông báo là có nhiều nguy cơ bị bệnh lyme, hoặc bạn có triệu chứng nóng sốt hay triệu chứng cảm cúm , hoặc bạn có trải nghiệm bắp thịt trở lên suy nhược, tê liệt (paralysis) , hoặc nổi vết tṛn đỏ trên da gọi là "phát ban mắt ḅ" (the bull's eye rash) là đặc chưng của bệnh Lyme .
CẢNH BÁO !!!
Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) ahy ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn. Nếu bạn đang ở trong vùng cảnh báo có nhiều nguy cơ bệnh Lyme mà bị bọ ve cắn, bạn nhất định phải phone báo bác sĩ để được tư vấn và ngay lập tức được chăm sóc và điều tri bao gồm việc sử dụng thuốc kháng sinh
PHƯƠNG PHÁP "ĐƠN GIẢN" ĐỂ G̀N GIỮ SỨC KHỎE:
Uống 1 ly Nước Ấm vào Buổi Sáng khi thức dậy
(Nguồn: MyiLife)
ĐIỀU G̀ XẢY RA VỚI CƠ THỂ KHI BẠN "UỐNG NƯỚC ẤM" LÚC ĐÓI VÀO MỖI SÁNG?
Nhiều người thường bắt đầu ngày mới với một tách trà nóng hay cà phê. Nhưng bạn có biết rằng, uống một cốc nước lọc ấm mỗi sáng sẽ rất có lợi cho bạn.
Uống nước ấm khi dạ dày trống rỗng vào mỗi buổi sáng có nhiều tác dụng tích cực đối với cơ thể của bạn, bao gồm cả thúc đẩy tiêu hóa, loại bỏ độc tố khỏi cơ thể, giảm đau, cải thiện lưu thông...
Dưới đây là những ǵ sẽ xảy ra khi bạn uống nước ấm mỗi sáng khi đang đói:
1) Giải độc cho các cơ quan trong cơ thể
Uống một cốc nước nóng vào buổi sáng có thể loại bỏ các độc tố nguy hiểm từ cơ thể của bạn. Nước và các chất lỏng khác có tác phân hủy thức ăn trong dạ dày và thúc đẩy tiêu hóa. Bởi vậy, ngay cả sau bữa ăn, thay v́ uống nước lạnh, bạn hăy uống nước ấm để cải thiện quá tŕnh tiêu hóa.
2) Cải thiện sự trao đổi chất
Nếu bạn bị đau dạ dày, hăy uống một cốc nước ấm vào buổi sáng trước khi ăn sáng. Điều này sẽ cải thiện sự trao đổi chất và cơ thể của bạn sẽ hoạt động đúng cách. Hơn nữa, uống nước ấm lúc này sẽ làm dịu các chứng đau dạ dày và giúp bạn cảm thấy dễ chịu.
3) Giúp giảm đau
Những cơn đau do chuột rút trong thời ḱ kinh nguyệt có thể được xoa dịu bằng cách uống nước ấm. Trên thực tế, đây là một phương thuốc tự nhiên mà vẫn có tác dụng. Nước ấm làm giăn các cơ bắp của dạ dày và giúp làm dịu cơn đau. Uống nước ấm không chỉ tốt cho những cơn đau do chuột rút trong ḱ kinh nguyệt mà c̣n có tác dụng đối với bất ḱ cơn đau do chuột rút ở thời điểm nào v́ nước ấm khi vào cơ thể giúp cải thiện lưu thông mao mạch và làm thư giăn các cơ bắp.
4) Giúp giảm cân
Uống một cốc nước ấm vào buổi sáng có thể giúp bạn giảm cân nhanh hơn. Lư do là bởi v́ nước ấm làm tăng nhiệt độ của cơ thể và các cơ quan bên trong cơ thể. Điều này dẫn đến khả năng đốt cháy nhiều calo hơn. Uống nước ấm cũng có tác dụng tích cực đối với hoạt động thận và các cơ quan bài tiết nên sẽ giảm t́nh trạng tích nước trong cơ thể, dẫn đến tăng cân.
5) Làm chậm quá tŕnh lăo hóa
Không ai thích lăo hóa sớm và nhanh già, đặc biệt là phụ nữ. May mắn thay, nguy cơ này có thể tránh được bằng cách uống nước ấm mỗi sáng. Độc tố trong cơ thể thúc đẩy quá tŕnh lăo hóa, nhưng uống nước ấm mỗi sáng lại giúp loại bỏ độc tố ra ngoài một cách hiệu quả. Nhờ đó, việc làm này cũng có tác dụng làm chậm quá tŕnh lăo hóa. Ngoài ra, uống nước ấm c̣n cải thiện độ đàn hồi của da, giúp bạn luôn có làn da sáng, khỏe mạnh và giảm nếp nhăn.
THUỐC ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU CƠ TIM CÓ THỂ LÀM GIẢM TỔN THƯƠNG MÔ TIM
(HEART ATTACK DRUG MAY REDUCE TISSUE DAMAGE)
Lynn Ly phỏng dịch bài viết wXw.bbc.co.uk/news/health-22655582
Theo Nhật Báo BBC ngày 27, tháng 5, 2013 .
Một loại thuốc mới có thể giúp giảm sự tổn thương cho cơ thể sau một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim (heart attack), đột quỵ (stroke) hoặc một phẫu thuật lớn (major surgery) đă được triển khai bởi các nhà khoa học Anh.
Những thử nghiệm trên các con chuột cho thấy hợp chất bảo vệ tim khi lưu lượng máu đột ngột được phục hồi sau một khoảng thời gian mà các mô (tissue) đă đang bị thiếu dưỡng khí oxygen.
MitoSNO vẫn chưa được thử nghiệm trên người, nhưng có thể dẫn đến một loại thuốc hoàn toàn mới.
Các nhà nguyên cứu đă công bố kết quả thử nghiệm trên tạp chí Nature Medicine.
Một trong những vấn đề sau một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim là sự tổn thương gây ra cho các mô tim khi lưu lượng máu được phục hồi đột ngột sau một thời gian dài thiếu vắng dưỡng khí oxygen.
Sự lưu chuyển máu chảy trở lại vào các mô tim thường kích hoạt việc sản xuất của các phân tử có hại (harmful molecules), được gọi là các gốc tự do (free radicals), những phân tử này được tạo ra bên trong ti thể (mitochondrion) - nguồn năng lượng của tế bào.
Quote:
Chú thích theo định nghĩa Y Khoa tiếng Việt :
mitochondrion = "Ti Thể" là bào quan phổ biến ở các tế bào nhân chuẩn có lớp màng kép và hệ gene riêng . Ti thể được xem là trung tâm năng lượng của tế bào v́ là nơi chuyển hóa các chất hữu cơ thành năng lượng tế bào có thể sử dụng được là ATP (ATP = Adenosine Triphosphate như là nguồn năng lượng tự nhiên (nature's energizer)
Các loại thuốc mới có tác dụng như "1 công tắc điện làm ngưng" tạm thời các ti thể (mitochondria) trong một vài phút để ngăn chặn một sư gia tăng các gốc tự do.
Trong nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă thử nghiệm hợp chất trên một con chuột mẫu bị nhồi máu cơ tim.
Đă có những suy giảm rơ rệt trong tổng diện tích về mô tim bị tổn thương ở chuột mà được áp dụng hợp chất thuốc so với với các phương pháp kiềm chế khác .
Các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ kiểm nghiệm hợp chất thuốc mới này của họ trong thử nghiệm trên sơ khởi ở người.
"MitoSNO như một công tắc điện làm ngừng một cách hiệu quả ở các ti thể, nó làm chậm lại sự kích hoạt trong những phút quan trọng đầu tiên khi lưu lượng máu chảy lại và bảo vệ mô tim từ những tổn thương tiếp theo sau đó", tiến sĩ Mike Murphy thuộc Đơn vị thuộc Hội đồng Nghiên cứu Sinh học Ti Thể Y Khoa (Medical Research Council Mitochondrial Biology Unit), là trưởng nhóm cuộc nghiên cứu đă nói vậy.
Chúng tôi nghĩ rằng một tiến tŕnh tương tự xảy ra trong các t́nh huống khác mà mô tim bị thiếu oxygen trong một thời gian kéo dài, ví dụ như sau một cơn đột quỵ hoặc trong quá tŕnh phẫu thuật lớn, nơi động mạch chính bị kẹp để tránh bị mất máu.
Chúng tôi hy vọng rằng nếu thử nghiệm MitoSNO trên người thành công th́ cuối cùng có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác của y học."
Bàn thảo và ư kiến về nghiên cứu này từ Tổ chức Tim Mạch của Anh Quốc (the British Heart Foundation), tổ chức tài trợ một phần tài trợ nghiên cứu, cho biết loại thuốc này xuất hiện đầy hứa hẹn.
"Thuốc này có khả năng điều trị người ngay lập tức sau khi một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim ngay lúc lưu lượng máu chảy về tim được khôi phục như là một phần trong phác đồ điều trị thông thường, " cố vấn nghiên cứu Shannon Amoils đă nói vậy.
Điều này có thể có nghĩa là người sống sót sau cơn đau tim / nhồi máu cơ tim được giảm thiểu gánh nặng về suy tim (heart failure) t́nh huống mà đối với nhiều người là một t́nh trạng suy nhược và đau buồn."
Mặc dầu tỏi được quảng cáo rộng răi như là tác nhân làm giảm cholesterol, nhưng một nghiên cứu được công bố tuần này đă không t́m thấy bằng chứng cho thấy rằng tỏi có tác dụng tốt hơn một placebo trong việc giảm nồng độ lipid trong máu.
Công trinh nghiên cứu 6 tháng trên 192 người trưởng thành với nồng độ cholesterol tăng nhe,đă trắc nghiệm tỏi sồng và các chất bổ sung có tỏi.Công tŕnh nghiên cứu được công bố trong The Archives of Internal Medicine .Các nhà nghiên cứu đă chia những người tham gia thành 4 nhóm để tiêu thụ hoặc tỏi sống,hoặc tỏi trong thuốc dưới dạng bột goi là Garlicin, hoặc tỏi trong nhăn hiệu b́nh dân Kyolic 100,hoặc một placebo.Liều lượng tương đương với một củ tỏi uống một ngày một lần,sáu ngày mỗi tuần trong ṿng 6 tháng.
Các nhà nghiên cứu đă xét nghiệm LDL cholesterol,HDL cholesterol, triglycerides, và tỷ số cholesterol toàn thể-HDL,nhưng đă không t́m thấy sự khác nhau đáng kể về mặt lâm sàng và thống kê giữa những người sử dụng tỏi và những người nhận một placebo
(INTERNAL HERALD TRIBUNE 1/3/2007)
Một công tŕnh nghiên cứu từ nhiều trung tâm nghiên cứu ở châu Âu được tiến hành trên 200 người t́nh nguyện. Những người này được cho uống trong 3 tuần lễ 25 millilitres dầu olive mỗi ngày (một muỗng canh gồm 3 loại dầu, loại trừ những chất béo khác.) Nghiên cứu đă mang lại một kết luận lư thú : tất cả các dầu olive deu có khả năng làm gia tăng nhanh chóng nồng độ HDL (cholestérol tốt) nhưng hiệu quả nhất là các dầu olive có nồng độ polyphénol (chất chống oxi hóa có tác dụng bảo vệ tim) cao nhất. Về mặt này, mức độ tinh lọc của dầu có tính chất quyết định: cần những dầu olive tinh chất hảo hạng.
(LA LIBRE MATCH 14/6-20/6/2007)
CHOLESTEROL TĂNG CAO VÀ CHẾT V̀ BỆNH TIM DO THIẾU MÁU CỤC BỘ
Tăng cholestérol-huyết được liên kết với tử vong v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ (maladie ischémique du cœur), ở người già cũng như ở những người thuộc lứa tuổi trung b́nh, và điều này độc lập với huyết áp. Đó là kết luận của một phân tích méta trên 61 công tŕnh nghiên cứu với tổng cộng 55.000 trường hợp tử vong do bệnh huyết quản (34.000 v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ, 12.000 do tai biến mạch máu năo và 10.000 do những nguyên nhân khác), chủ yếu ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Các tác giả đă đi đến kết luận là cholestérol toàn thể được liên kết một cách dương tính với tử vong v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ, ở đàn ông và phụ nữ, ở lứa tuổi trung b́nh hoặc cao, dầu huyết áp là bao nhiêu. Tỷ số cholestérol toàn thể/HDL dường như là chỉ dấu tiên đoán quan trọng nhất của tử vong v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ. Việc không có mối liên hệ độc lập giữa cholestérol và tử vong do tai biến mạch máu năo, nhất là ở lứa tuổi cao hay ở một mức huyết áp cao, nên là đối tượng của những nghiên cứu sâu rộng hơn, các tác giả đă đánh giá như vậy. Dầu thế nào đi nữa, các công tŕnh nghiên cứu gợi ư rằng các statines không những chỉ làm giảm số các biến cố động mạch vành mà c̣n làm giảm cả số tai biến mạch máu năo nơi các bệnh nhân thuộc mọi lứa tuổi có những trị số huyết áp khác nhau.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 14/12/2009)
CÔNG TR̀NH NGHIÊN CỨU MỚI VỀ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LÀM SỮNG SỐT CÁC THẦY THUỐC
Trong nhiều thập niên nay, các nhà nghiên cứu đă tin rằng nếu bệnh nhân đái đường hạ thấp nồng độ đường huyết xuống mức b́nh thường, họ sẽ không c̣n bị nguy cơ cao chết v́ bệnh tim nữa. Nhưng một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ nơi 10.000 bệnh nhân đái đường loại 2, với tuổi trung niên hoặc cao hơn, đă nhận thấy rằng việc hạ thấp nồng độ đường huyết thật ra làm gia tăng nguy cơ tử vong, các nhà nghiên cứu đă báo cáo như vậy.
Các nhà nghiên cứu đă loan báo rằng họ đă đột ngột ngừng phần nghiên cứu mà các kết quả gây ngạc nhiên đang đặt lại vấn đề phải xử trí làm sao căn bệnh hiện đang tác động lên 21 triệu người Mỹ. Các nhà nghiên cứu của công tŕnh đă nhấn mạnh rằng các bệnh nhân vẫn nên tiếp tục thăm khám các thầy thuốc của họ trước khi xét đến việc thay đổi thuốc men.
Trong số các người tham gia công tŕnh nghiên cứu thuộc nhóm mà nồng độ đường huyết được hạ xuống mức gần b́nh thường, có 54 trường hợp tử vong nhiều hơn là nhóm trong đó có nồng độ đường được kiểm soát ít nghiêm ngặt hơn. Các bệnh nhân đă tham gia công tŕnh nghiên cứu với thời gian trung b́nh được 4 năm th́ các nhà nghiên cứu đă ra lệnh ngừng chế độ hạ đường huyết tích cực và áp dụng nơi các bệnh nhân này một chế độ hạ đường huyết ít nghiêm ngặt hơn.
Các kết quả không muốn nói là đường huyết là không có ư nghĩa. Việc hạ đường huyết có thể bảo vệ chống lại bệnh thận, sự đui mù và việc cắt cụt các chi. Nhưng những điều vừa được t́m thấy mang lại một yếu tố hoài nghi về cái đă từng là một giáo điều : rằng hạ đường huyết càng thấp th́ càng tốt hơn, và rằng hạ nồng độ đường xuống mức b́nh thường cứu được mạng người. Các chuyên viên y tế đă sửng sốt.
«Những điều vừa được t́m thấy gây bối rối và xôn xao”, James Dove, chủ tịch của American College of Cardiology đă nói như vậy. “Trong 50 năm, chúng ta đă nói về việc làm giảm nồng độ đường huyết xuống rất thấp. Mọi điều trong tài liệu y học đều gợi ư rằng đây là điều đúng đắn cần phải làm”
Irl Hirsch, một nhà nghiên cứu bệnh đái đường thuộc đại học Washington, đă nói rằng những kết quả của công tŕnh nghiên cứu sẽ khó mà giải thích cho vài bệnh nhân đă trải qua không biết bao nhiêu năm và đă thực hiện những cố gắng lớn lao qua chế độ ăn uống và thuốc men, nhằm làm hạ và duy tŕ nồng độ đường huyết xuống. Những bệnh nhân này sẽ không muốn nới lỏng cảnh giác, nhà nghiên cứu đă nói như vậy.
“Điều này sẽ tương tự như những ǵ mà các phụ nữ đă cảm thấy khi họ nghe những tin tức về estrogens», Hirsch đă nói như vậy. “Bảo những bệnh nhân này làm cho nồng độ đường huyết tăng lên sẽ rất là khó khăn”. Ông đă nói thêm rằng những tổ chức như American Diabetes Association và American Association of Clinical Endocrinologists sẽ ở vào trong t́nh trạng lúng túng khó xử. Những chỉ dẫn của các Hiệp hội này yêu cầu các nồng độ đường huyết càng gần với b́nh thường chừng nào th́ tốt chừng đó. Và vài công ty bảo hiểm trả cho các bác sĩ tiền phụ trội nếu các bệnh nhân đái đường của họ giữ được nồng độ đường huyết ở mức rất thấp.
Lư thuyết nồng độ đường huyết thấp đă ăn sâu đến độ khi Viện Tim, Phổi, Huyết Quốc Gia và Viện Quốc Gia Đái Đường và Các Bệnh Tiêu Hóa và Thận đề nghị công tŕnh nghiên cứu vào những năm 1990, họ đă giải thích rằng đó là vấn đề đạo đức. Mặc dầu hầu hết đều cho rằng nồng độ đường huyết thấp hơn là tốt hơn, nhưng không ai đă nghiêm chỉnh trắc nghiệm ư tưởng này. V́ vậy công tŕnh nghiên cứu sẽ nêu nghi vấn xem những nồng đường huyết rất thấp nơi những bệnh nhân với đái đường loại 2 (dạng bệnh gây bệnh cho 95% những người bị bệnh đái đường), sẽ có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh tim và cứu sống sinh mạng hay không. Vài người đă nói rằng, dầu cho công tŕnh nghiên cứu có ư nghĩa đạo đức, sẽ không thể thực hiện được. Họ nghi ngờ rằng những người tham gia (tuổi trung b́nh 62, đă bị đái đường trong khoảng 10 năm, đă có nồng độ đường huyết cao hơn b́nh thường, và đă có bệnh tim hay những bệnh lư khác, như cao huyết áp và cholesterol cao, khiến những người này có thêm nguy cơ bị bệnh tim) sẽ có thể đạt được những nồng độ đường huyết thấp như thế.
Công tŕnh nghiên cứu đă trắc nghiệm đồng thời 3 loại điều trị : kiểm soát đường huyết tích cực hay ít tích cực hơn, kiểm soát cholesterol tích cực hay ít tích cực hơn và kiểm soát huyết áp tích cực hay ít tích cực hơn. Phần cholesterol và huyết áp của công tŕnh nghiên cứu đang được tiếp tục. Các nhà nghiên cứu đă đặt câu hỏi không biết đă có thứ thuốc nào hay những phối hợp thuốc nào đă là nguyên nhân của tỷ lệ tử vong cao. Họ đă không t́m thấy ǵ hết. Cũng đă không có một nguyên nhân khác thường gây tử vong trong nhóm được điều trị tích cực. Hầu hết các trường hợp tử vong trong hai nhóm là do nhồi máu cơ tim.
Măi đến nay, các lư do giải thích tỷ lệ tử vong cao hơn là phỏng đoán. Rơ ràng là những người không bị bệnh đái đường khác với những người bị bệnh đái đường và cố làm hạ đường huyết xuống. Có thể là các bệnh nhân bị những hậu quả không chủ ư do dùng quá nhiều thuốc có thể tương tác một cách bất ngờ, Steve Nissen, trưởng khoa tim mạch của Cleveland Clinic đă nói như vậy.
Hoặc là, cũng có thể rằng các người tham gia đă làm giảm quá nhanh đường huyết của họ. Cách nay nhiều năm, các nhà nghiên cứu đă khám phá rằng việc giảm đường huyết quá nhanh nơi các bệnh nhân đái đường thật sự có thể làm trầm trọng các bệnh huyết quản ở mắt, ông đă phát biểu như vậy. Nhưng việc làm giảm các nồng độ chậm hơn đă bảo vệ các huyết quản này.
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 8/2/2008)
Hiện diện trong ruột già, vi trùng này làm cho cholestérol không thể hấp thụ được bởi cơ thể con người.
Ruột già của chúng ta là một canh cấy thật sự. Có khoảng 100 tỉ vi khuẩn cùng nhau sinh sống trong mỗi gam phân, hoặc khoảng cùng số lượng neurone trong năo bộ của chúng ta.
Quần thể vi khuẩn dồi dào này trong ruột, được tạo thành suốt trong hai năm đầu của đời sống, là cần thiết cho sự vận hành tốt của cơ thể. “Người ta có thể nói rằng đó là một cơ quan nói riêng, mà thành phần là chuyên biệt cho mỗi cá nhân”, Philippe Gérard thuộc pḥng thí nghiệm sinh thái và sinh lư học của hệ tiêu hóa ở trung tâm Inra, đă nhấn mạnh như vậy.
Nhà vi trùng học này đă tiết lộ hôm qua, nhân một cuộc họp báo, rằng một vài trong số các vi khuẩn này, có tính chất lạ lùng là làm hủy hoại cholestérol (mà sự thặng dư gây đọng mỡ trong các động mạch) thành coprostanol, một chất mà cơ thể không thể hấp thụ được và do đó được thải ra trong phân. “Sự kiện này đă được biết từ lâu, nhưng đến măi ngày nay, không ai đă thành công nhận diện ra loài hay các loài vi khuẩn có liên quan trong quá tŕnh sinh hóa học này ở người”, Philippe Gérard đă nói tiếp như vậy.
Cái trở ngại chính là các vi khuẩn của ống tiêu hóa không có thể tồn tại trong một môi trường giàu oxygène. Các vi khuẩn sẽ chết ngay khi được đem ra khỏi ruột non của kư chủ và chỉ có 20% các vi khuẩn này là có thể cấy được trong pḥng thí nghiệm.
MỘT TỶ VI KHUẨN CHO MỖI GAM PHÂN.
Trong một bài báo được công bố mới đây trong tạp chí Applied and Environmental Microbiology, nhóm nghiên cứu được điều khiển bởi Philippe Gérard đă giải thích làm sao họ đă cô lập được một trong các vi khuẩn “giết cholestérol” này, bằng cách cấy trong phân được làm phong phú với óc bê được làm đông lạnh. Đó là giống D8 của loài Bacteroides Dorei, (chiếm 20% quần thể vi khuẩn ruột). “ Sự kiện loài vi khuẩn này rất khác với giống Eubacterium đă được nhận diện ở chuột, heo và babouin, dường như chỉ rơ rằng nhiều họ vi khuẩn có liên hệ trong việc làm thoái hóa cholestérol của ruột người”, nhà nghiên cứu phát biểu như vậy.
Khám phá này phải chăng sẽ dẫn đến việc hiệu chính một thuốc mới chống lại cholestérol ? Điều này ít có thể xảy ra vào ngay lúc này. Thật vậy, hầu hết cholestérol nguồn gốc thức ăn đều được hấp thụ ở ruột non. Cholestérol dầu có được thoái biến thành coprostanol bởi vi khuẩn hay không, phần cholestérol đi đến đại tràng dầu sao cũng được thải ra theo phân.
Tuy nhiên, trong những năm 1980, một công tŕnh nghiên cứu của Nhật Bản đă chứng tỏ rằng một nồng độ coprostanol cao trong phân liên kết với một nồng độ cholestérol thấp hơn trong máu.
Theo Philippe Gérard, “người ta không thể loại trừ rằng một phần cholestérol được thoái biến trong phần dưới của ruột non, nơi đây người ta đếm được 1 tỷ vi khuẩn trong 1 gam phân. Đó là 100 lần ít hơn trong ruột già, nhưng điều đó có thể cũng đủ để giải thích các kết quả của công tŕnh nghiên cứu Nhật Bản”.
LE FIGARO 13/3/2008
Những nồng độ cholesterol “tốt” quá thấp được liên kết với một sự thiếu hụt hay sa sút nhận thức vào tuổi 60, theo một công tŕnh được công bố bởi các nhà nghiên cứu, chủ trương một đời sống lành mạnh hơn.
Một nồng độ bất b́nh thường cholestérol có thể là một yếu tố nguy cơ của bệnh Alzheimer không? Nếu câu trả lời chưa được rơ ràng, một công tŕnh nghiên cứu của Pháp, được công bố ngày 30 tháng 6, trong tạp chí chuyên khoa Arteriosclerosis, Thrombosis and Vascular Biology, vừa cho thấy rằng một nồng độ cao cholestérol “tốt” (c̣n được gọi là HDL-cholestérol) sẽ là một đồng minh cần thiết của chất lượng trí nhớ nơi những người trên 60 tuổi
Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă đề xuất một mối liên kết giữa sự kiện có một nguy cơ tim mạch và sự biến đổi của các chức năng nhận thức (fonctions cognitives) (ở mức trí nhớ) với tuổi tác, như thế tạo nên một nguy cơ bị bệnh Alzheimer. Cũng cùng cách như vậy, theo những công tŕnh nghiên cứu khác, bệnh đái đường và chứng béo ph́ sẽ làm dễ sự xuất hiện của một chứng sa sút trí tuệ như thế. Tuy nhiên, khó xác lập một mối liên hệ đặc biệt giữa các bất thường của nồng độ các chất mỡ trong máu và nguy cơ bị chứng sa sút trí tuệ bởi v́ “profil lipidique” của các bệnh nhân thường bị biến đổi bởi nhiều yếu tố, trong đó có chính căn bệnh.
Ước muốn làm sáng tỏ vấn đề, nhóm nghiên cứu của Archana Singh-Manoux đă quyết định theo dơi từ năm 1999 và 2004 một nhóm 3.700 các viên chức người Anh ở lứa tuổi 60, tất cả đều có khả năng về trí tuệ. Mục đích là đánh giá một cách song hành tiến triển của profil lipidique (cholestérol toàn thể, HDL và LDL, triglycérides) và hoạt động của trí nhớ. Để thực hiện điều này, những phân tích máu đă được thực hiện hai lần cách nhau 5 năm. Những trắc nghiệm về trí nhớ cũng được thực hiện : những người t́nh nguyện phải nêu lên tối đa các chữ trong số 20 chữ được tŕnh bày vài giây phút trước đó. Người không có khả năng nêu lên hơn 4 chữ được cho là thiếu hụt chức năng nhận thức (déficit cognitif). Quên thêm hơn hai chữ giữa hai câu thể hiện một suy đồi nhận thức thật sự (déclin cognitif).
CÓ MỘT HOẠT ĐỘNG VẬT LƯ ĐỀU ĐẶN
Sau cùng, những kết quả là không chối căi được. Đối với những người có một nồng độ cholestérol “ tốt ” thấp (dưới 0,4 g/L), nguy cơ thiếu hụt trí lực (déficit intellectuel) gia tăng 27%, so với những người có một nồng độ trên 0,6g/L. 5 năm sau, sự liên kết này lại càng rơ hơn. Các viên chức với một nồng độ cholestérol “ tốt ” ít cao vẫn c̣n có nhiều nguy cơ bị thiếu hụt năng lực trí lực hơn. Cũng giống hệt những người mà nồng độ đă giảm trong 5 năm. Những người này có một nguy cơ gia tăng bị suy thoái trí tuệ so với những người bảo tồn những nồng độ cao HDL (trên 0,6g/L).
Như thế nhóm nghiên cứu của Archana Singh-Manoux, nữ giám đốc nghiên cứu của Inserm (đơn vị 687) đă phát hiện sự hiện hữu của một sự thiếu hụt, thậm chí một sự suy sụp nhận thức nơi những người 60 tuổi khi nồng độ cholestérol “ tốt ”, HDL (lipoprotéine de haute densité), là quá thấp trong máu, với trị số dưới 0,4 g/L (b́nh thường, đối với đàn ông 0,4 đến 0,65g/L và đối với đàn bà, từ 0,5 đến 0,8g/L). “ Công tŕnh nhiên cứu này phát hiện mối liên hệ rơ rệt giữa những nồng độ thấp của cholestérol “ tốt ” và sự xuất hiện một sự sa sút nhận thức, kể cả có tính đến những yếu tố khác khả dĩ dẫn đến một sự sa sút trí tuệ (démence) (các biến cố tim mạch, tiêu thụ rượu) ”, Archana Singh-Manoux đă b́nh luận như vậy.
Sự suy thoái nhận thức (déclin cognitif) là giai đoạn đầu tiên hướng về chứng sa sút trí tuệ (démence), mặc dầu không phải tất cả những người có các rối loạn về trí nhớ đều rơi vào bệnh Alzheimer. Công tŕnh này tán đồng những lời khuyến nghị về các chế độ ăn uống đơn giản nhằm làm dễ những nồng độ cao hơn cholestérol “ tốt ”. Ăn ít thịt mỡ và thịt lợn, ăn nhiều cá hơn, thay thế các chất béo bảo ḥa nguồn gốc động vật (bơ, ḷng đỏ trứng gà, phó mát) bằng những chất mỡ không bảo ḥa, có nguồn gốc thực vật như vài loại dầu. Loại bỏ các acide béo trans được t́m thấy trong các sản phẩm kỹ nghệ (món ăn được làm sẵn, fastfood, bánh quy...). Và có một hoạt động vật lư đều đặn. Để duy tŕ một trí nhớ có chất lượng tốt.
Nguồn : LE FIGARO (2/7/2008)
Cà phê bị gán cho một vai tṛ trong việc làm gia tăng nồng độ của cholestérol. Cần phải uyển chuyển hơn điều khẳng định này và xác định rơ rằng điều đó tùy thuộc vào cách pha chế. Hai diterpène hiện diện trong dầu cà phê (huile de café), cafestol và kahweol, có thể là nguyên nhân của sự gia tăng này. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng sự tiêu thụ cafestol hàng ngày làm gia tăng nồng độ cholestérol trong máu, nhưng sự gia tăng này ít hơn trong trường hợp tiêu thụ lâu dài. Do đó những công tŕnh nghiên cứu ngắn hạn có thể dẫn đến việc đánh giá quá cao về tác động của cà phê lên nồng độ của cholestérol. Về kahweol, vai tṛ của nó trong hiện tượng này không được rơ ràng lắm. Sự liên kết của cafestol với kahweol có tác động lên nồng độ cholestérol hơn là kahweol đơn độc .
Một cà phê, trong đó bột cà phê được cho tiếp xúc lâu dài với nước sôi và không được lọc (như trong trường hợp cà phê Thổ hay Hy lạp), chứa những diterpènes này với nồng độ cao, trái với cà phê được lọc hay một “espresso”. Vậy v́ lư do thận trọng, đối với những bệnh nhân bị cao huyết áp và tăng cholestérol-huyết, tốt hơn là nên tránh những cách pha chế đầu và theo cách pha chế sau.
(LE MAGAZINE DES GLEMS 4/2008)
Thời Sự Y Học Số 94 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 26/9/2008
THUỐC CHỒNG CHOLESTEROL: MỘT GÈNE CÓ LIÊN QUAN TRONG SỰ PHÁT SINH CÁC BIẾN CHỨNG
Đau cơ sau khi sử dụng statines có thể được làm dễ bởi một biến thể di truyền (un variant génétique).
Những nhà nghiên cứu Pháp và Anh đă nhận diện một biến thể di truyền có liên hệ trong sự xuất hiện các thương tổn cơ, trong trường hợp điều trị bởi các liều lượng cao statines (New England Journal of Medicine, 21/8/2008). Các statines được cho để chống lại sự thặng dư “ cholestérol xấu ” (LDL) trong máu, một trong những yếu tố nguy cơ của các tai biến mạch máu năo và nhồi máu cơ tim. Statines phong bế sự tạo thành cholestérol trong gan bởi cơ thể.
Các Statines rất được ưa chuộng bởi các thầy thuốc người Pháp, đă cho toa 5 triệu người trong năm 2.005. Nhưng trong những trường hợp hiếm hoi (1 bệnh nhân trên 10.000) , khi statines được cho với liều lượng chuẩn (20-40 mg simvastatine mỗi ngày), thuốc có thể gây nên các bệnh cơ (myopathie), đó là các đau nhức cơ, và chứng co rút (crampe), với sự gia tăng một vài loại men. Những tác dụng không được mong muốn này gia tăng với những liều lượng cao hơn.
Nghi là có một thành phần di truyền trong hiện tượng này, nhóm nghiên cứu của centre national de génotypage được điều khiển bởi Mark Lathrop và nhóm của đại học Oxford ở Anh đă so sánh hai nhóm các bệnh nhân được điều trị : nhóm 85 người gồm những nạn nhân bị thương tổn cơ do điều trị bởi statines, một nhóm khác 90 người không bị chứng bệnh cơ này. Họ đă phát hiện một biến thể di truyền (un variant génétique) trên nhiễm sắc thế 12, liên kết với những biến chứng này. Biến thể di truyền này hiện diện nơi 15% dân số.
Những bệnh nhân mang biến thể di tuyền và được điều trị với các liều mạnh thuốc statines có nguy cơ phát triển bệnh cơ 4 lần cao hơn so với những người không mang biến thể di truyền này.
(LE FIGARO 27/8/2008)
PHARMACOLOGIE. Một viên thuốc chứa một chất kháng cholestérol, 3 loại thuốc chống cao huyết áp và aspirine, có thể làm giảm 50% nguy cơ bị nhồi máu cơ tim và đột qụy.
Một viên thuốc duy nhất để ngăn ngừa các bệnh tim mạch đối với những người trên 50 tuổi ? Quan niệm này đă được nêu lên từ nhiều năm nay, bây giờ bắt đầu trở thành hiện thực. Thật vậy, các thầy thuốc Ấn Độ vừa công bố trên site Internet của tạp chí y khoa The Lancet các kết quả của một thử nghiệm, được thực hiện với một polypill chứa 5 chất có hoạt tính chống lại các bệnh tim mạch.
Những trắc nghiệm này xác nhận rằng chỉ một viên thuốc cũng có hiệu quả như 5 loại thuốc được kê toa một cách độc lập. Các tác giả, cũng đă tŕnh bày những công tŕnh này hôm thứ hai, nhân hội nghị thường niên American College of Cardiology ở Orlando (Florida), đánh giá rằng một viên thuốc như thế, được cho để pḥng ngừa, có thể làm giảm gần một nửa các trường hợp tai biến tim và các cơn đột qụy. Những thử nghiệm khác, với quy mô lớn hơn, vẫn phải được tiến hành để xác nhận những kết quả này. Những bệnh tim mạch, hiện đang bùng nổ trong các nước đang phát triển, vẫn là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong trong các nước phương Tây, mặc dầu có sự giảm bớt do việc điều trị tốt hơn (cao huyết áp, tăng cholestérol-huyết, chứng nghiện thuốc lá). Sự ngăn ngừa này, được căn cứ trên sự sử dụng nhiều thứ thuốc, đă đặt ra vấn đề tuân thủ điều trị, không hoàn toàn được tôn trọng một cách đúng đắn. Và điều này có thể được cải thiện bằng cách uống một viên thuốc duy nhất. Thử nghiệm điều trị này (được tài trợ bởi Pḥng bào chế Ấn Độ Cadilla Pharmaceuticals) đă được tiến hành ở Ấn Độ, trong 50 trung tâm y tế, trên 2.053 người tham dự, tuổi từ 45 đến 80, đă không bao giờ bị bệnh tim mạch, nhưng chỉ có một yếu tố nguy cơ (cao huyết áp, cholestérol cao…).
THIẾU CÁC CÂU TRẢ LỜI TINH TẾ
Mục đích là để đánh giá sự dung nạp của điều trị phối hợp này và xác định xem viên thuốc phối hợp này có tác dụng lên nguy cơ tim mạch giống như mọi loại thuốc được uống riêng rẻ hay không. Thử nghiệm đă so sánh polypill với 8 protocole điều trị khác (statine dùng đơn độc, aspirine dùng đơn độc, bêta-bloquant dùng đơn đọc) trên huyết áp, trên nồng độ cholestérol hay trên nhịp tim. Viên thuốc chứa những liều lượng thấp của 3 loại thuốc chống cao huyết áp (12,5 mg thiazide, 50 mg atenolol và 5mg ramipril) cũng như 20 mg simvastatin (một thuốc kháng cholesterol), và 100 mg aspirine (với tác dụng kháng đông).
Các kết quả đă cho thấy nồng độ cholestérol giảm với mức độ quan trọng nơi những người được điều trị bởi polypill cũng như nơi những người chỉ dùng statine đơn độc. Cũng như thế đối với huyết áp khi dùng các thuốc chống cao áp đơn độc. Tính chất lưu thông của máu được cải thiện bởi polypill giống như với aspirine dùng riêng rẻ. Các tác dụng phụ của polypill cũng giống với các tác dụng gây nên bởi mỗi thành phần được dùng riêng rẻ. “Chúng tôi ước đoán rằng polypill có lẽ có khả năng làm giảm 60% các bệnh tim và 50% các đột qụy, B.S Salim Yusuf, thuộc Population Health Research Institute của Université McMaster (Canada) đă đánh giá như vậy. Ư tưởng những người có thể chỉ uống một viên thuốc để làm giảm nhiều nguy cơ tim có thể cách mạng hóa sự ngăn ngừa các bệnh tim mạch”.
Hiện nay, thử nghiệm lâm sàng đă chỉ đánh giá sự cải thiện các hằng số sinh học với điều trị phối hợp này. Bây giờ cần phải tiến hành những điều tra quy mô lớn để đánh giá tác dụng lên tỷ lệ mắc bệnh và trên tỷ lệ tử vong.
Trong những nước giàu có, những viên thuốc như thế có thể đơn giản hóa sự pḥng ngừa. “Khái niệm này không phải là không hấp dẫn, G.S Nicolas Danchin thuộc bệnh viện Georges -Pompidou khẳng định như thế. Vấn đề là c̣n phải chứng tỏ rằng thuốc không có các tác dụng phụ lúc dùng lâu dài và rằng điều đó cho phép cải thiện sự tuân thủ điều trị.” Việc pḥng ngừa là một chương tŕnh dài hạn. “Vấn đề của viên thuốc phối hợp này, đó là nó không đáp ứng một cách tinh tế những vấn đề chính xác của mỗi người, B.S Yves Benacin (thầy thuốc chuyên khoa tim, Paris) đă giải thích như vậy. Nhưng có lẽ đó là một giải pháp cho những người có nguy cơ không tuân thủ điều trị một cách đều đặn, và dĩ nhiên đó là một giải pháp cho các nước đang phát triển.” Tuy nhiên đừng quên rằng một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục đều đặn 5 lần mỗi tuần, làm giảm một cách không chối cải được cholestérol, huyết áp, đường huyết và tăng sức cho trái tim.
(LE FIGARO 1/4/2009)
VÀO LỨA TUỔI NÀO CẦN PHẢI ĐỊNH LƯỢNG CHOLESTEROL ?
Chính vào cuối thế kỷ XIX mà các nhà bảo hiểm Hoa Kỳ đă phát minh ra y khoa tiên liệu (médecine prédictive). Trong lúc gom góp những dữ kiện của những người được bảo hiểm, các nhà dịch tễ học và các nhà thống kê của các công ty bảo hiểm lớn này đă xác lập những mô h́nh tiên đoán tử vong (modèle de prédiction du décès). Những mô h́nh tiên đoán này nhanh chóng trở nên tinh tế hơn để được áp dụng cho bệnh tim mạch. Chính như thế mà ư niệm về yếu tố nguy cơ (facteur de risque) của bệnh tim mạch đă được tạo ra.
Ở Pháp cũng như ở những nơi khác, chính 4 yếu tố nguy cơ chủ yếu giải thích hơn ¾ các biến cố động mạch vành cấp tính ; đó là thuốc lá, các dyslipidémie, cao huyết áp và bệnh đái đường. Sự tăng cholestérol-huyết thường xảy ra v́ lẽ khoảng ¾ các bệnh nhân được nhập viện v́ hội chứng động mạch vành cấp tính ở Pháp có một sự gia tăng của cholestérol xấu của họ.
HAI T̀NH HUỐNG PHÁT HIỆN
Vấn đề phát hiện những yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch là xưa rồi và b́nh thường phải được áp dụng cho toàn thể những yếu tố nguy cơ có một mối liên hệ nhân quả với chứng xơ mỡ động mạch huyết quản. Sự định lượng của cholestérol và các fractions của nó được căn cứ trên một kỹ thuật sinh học đơn giản để thực hiện trên một mẫu nghiệm máu được lấy lúc nhịn đói. Hai t́nh huống quan trọng phát hiện cholestérol được thực hiện ở Pháp. Một mặt, thầy thuốc có thể gặp một bệnh nhiễm sắc thể thường tính trội (maladie autosomique dominante), bệnh tăng cholestérol-huyết gia đ́nh dị hợp tử (hypercholestérolémi e familiale hétérozygote). Bất thường sinh học lipit này hiện diện nơi một trên 500 trường hợp sinh ở Pháp. Sự gia tăng cholestérol-huyết hiện diện ngay lúc sinh và các trị số của cholestérol-huyết tăng cao dần dần với tuổi tác của các bệnh nhân. Đó là một bệnh di truyền hung dữ đối với các động mạch và điều trị vệ sinh-ăn uống và/hoặc thuốc men phải bắt đầu càng sớm càng tốt. Do đó, trong bệnh tăng cholestérol-huyết gia đ́nh, sự định lượng phải được thực hiện càng sớm càng tốt nơi trẻ em, ngay khi có một cơ hội để thực hiện sự lấy máu. Việc t́m kiếm những bệnh nhân trẻ này trong dân chúng là dễ dàng v́ lẽ đó là những gia đ́nh đă có những tai biến tim mạch xảy ra sớm và có những tăng cao quan trọng của cholestérol trong huyết tương. Những trị số cholestérol toàn thể 1,80 g/l nơi trẻ em 10 tuổi được xem như là bệnh lư. Nơi những gia đ́nh này, sự định lượng của cholestérol sẽ được thực hiện đều đặn và sự theo dơi sẽ chú y t́m kiếm một sự gia trọng của các trị số và những định vị của bệnh tim mạch.
Cũng như đối với những yếu tố nguy cơ khác, sự xác định của cholestérol nơi người trưởng thành là một bộ phận cơ bản của sự pḥng ngừa tim mạch. Mỗi người trưởng thành hơn 18 tuổi phải được hưởng vào một lúc nào đó một bilan sinh học lipit toàn bộ. Xét nghiệm máu này sẽ gồm có cholestérol xấu, cholestérol tốt và các triglycéride. Sự định lượng này sẽ được lập lại mỗi năm năm nếu không có một bất thường hay nhanh hơn nếu những yếu tố nguy cơ khác xuất hiện hay nếu một bệnh đến làm phức tạp sự điều trị. Những trị số cholestérol toàn thể 2,20g/l nơi người trưởng thành buộc phải theo dơi đều đặn nơi thầy thuốc gia đ́nh. Nơi bệnh nhân đă có một biến cố tim mạch, chính thường trong lúc nhập viện mà chẩn đoán tăng cholestérol-huyết được thực hiện. Đó là một t́nh huống rất tai hại đối với tiên lượng v́ lẽ sự điều trị tăng cholestérol-huyết vài năm trước có lẽ đă cho phép tránh được biến cố tim mạch cấp tính này.
Những bệnh nhân người Pháp có được may mắn được tiếp cận tương đối dễ dàng với những thầy thuốc gia đ́nh và với các dịch vụ pḥng ngừa trong khung cảnh y khoa lao động hay chiến dịch phát hiện đại chúng. Tai biến tim mạch không phải là một định mệnh an bài và toàn bộ những người can thiệp y và cận y sẵn sàng phục vụ cho các công dân đề pḥng ngừa, phát hiện và điều trị các yếu tố nguy cơ để tránh một cách tối đa các biến có tim mạch.
(LE FIGARO 26/4/2010)
Khác với những loại đường có tác dụng chậm (các thức ăn có bột và bánh ḿ toàn phần) có lợi cho sức khỏe, các loại đường có tác dụng nhanh dùng quá mức, kẹo, kem... đă được nhận diện như là những yếu tố làm dễ sự xuất hiện của một bệnh đái đường. Các nhà dịch tễ Hoa Kỳ vừa chứng minh rằng chúng cũng chịu trách nhiệm một profil lipide xấu liên kết với nguy cơ xơ mỡ động mạch. Được chỉ đạo bởi GS Jean Welsh của đại học Emory (Atlanta), một công tŕnh nghiên cứu, được tiến hành giữa năm 1999 và 2006, đă theo dơi hơn 6000 người trưởng thành thuộc hai giới tính. Những kết quả cho thấy rằng sự tiêu thụ đường có tác dụng nhanh càng cao, th́ HDL-cholestérol, “ cholestérol tốt ” càng giảm. Ngược lại, các triglycéride và LDL-cholestérol, “cholestérol xấu ” càng gia tăng. Từ 30 năm nay và mặc dầu không có lợi ích dinh dưỡng, thành phần các loại đường được thêm vào các thực phẩm không ngừng gia tăng. Đứng trước điều chứng thực này, các giới hữu trách Hoa Kỳ đă lên tiếng báo động. OMS khuyến nghị giới hạn phần đường có tác dụng nhanh tối đa là 10% của cung cấp toàn bộ calo mỗi ngày.
(PARIS MATCH 8/7-14/7/2010)
CHOLESTEROL : LỢI ÍCH ĐƯỢC BÁO TRƯỚC CỦA MỘT STATINE.
Quote:
Điều thiết yếu :
Không nên chờ đợi đă bị một tai biến tim mạch rồi mới hưởng một thuốc làm giảm cholestérol.
Rosuvastatine (Crestor) làm giảm 43% nguy cơ trong hai năm.
Dịch bệnh tim mạch (épidémie cardiovasculaire), bởi v́ nó vẫn hoàn toàn thầm lặng rất dài lâu, là một thách thức đối với y khoa. “ Trong suốt quá tŕnh nghiên cứu, chúng tôi hiểu tốt hơn rằng mảng xơ mỡ (plaque d’athérome) bắt đầu được tạo thành ngay lúc ta c̣n rất trẻ. Nhưng tiến triển này có thể vẫn hoàn toàn không thấy được trong nhiều chục năm. Khi dấu hiệu đầu tiên xuất hiện, đôi khi đă quá muộn màng bởi v́ đó là nhồi máu cơ tim hay một cục máu đông gây nên một tai biến mạch máu năo ”, GS Ernst Rietzschel, thuộc Đại học Gand (Bỉ), đă giải thích như thế.
Chữ dịch bệnh (épidémie) phải chăng làm cho các bạn choáng ? Nhưng làm sao gọi cách nào khác, một tập hợp các bệnh mà các nguyên nhân đều thông thường và giết chết 54% các phụ nữ châu Âu (và 42% những trường hợp chết sớm, trước tuổi 75) và 43% các người đàn ông, ngay trước cả ung thư, các tai nạn và những nguyên nhân tử vong khác ? Chỉ riêng ở châu Âu, cứ mỗi phút có 8 người chết v́ nguyên nhân tim mạch. Đó là một gánh nặng to lớn đối với xă hội. Chính những người thường hoạt động lại ra đi một cách đột ngột. Nhưng cũng có phí tổn to lớn trong việc điều trị bệnh nhân, ở Bỉ hơn 4 tỉ, và gần 200 tỉ trên b́nh diện châu Âu.
TRÁNH SỰ VỠ CỦA MẢNG XƠ MỠ.
Tuy vậy, sự nghiên cứu và y khoa t́m ra được các giải pháp : như là, từ những năm 70, tỷ lệ tử vong đă sụt giảm một nửa. Nhờ những biện pháp cải thiện chế độ ăn uống, ngừng thuốc lá và những biến đổi lối sống khác, nhưng cũng nhờ tác dụng thuốc lên cholestérol. Thật vậy 3/4 những người đàn ông từ 51 đến 55 tuổi bị, ở những mức độ khác nhau, chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose), tiến triển bên trong của các động mạch do sự tích tụ dần dần lipide, glucide phức hợp, máu và những sản phẩm máu, các mô mỡ, những lắng đọng vôi và những chất khoáng khác. Thiết diện của các động mạch do đó bị thu hẹp lại từ bên trong, nhưng nhất là, một mảng xơ mỡ được tạo thành chứa những chất phế thải này. Mảng xơ mỡ này, mà thành càng ngày càng trở nên mảnh khảnh, có thể vỡ đột ngột. Các chất bên trong mảng đột ngột được phóng thích vào trong tuần hoàn máu, có thể gây nên một cục máu đông, và chính cục máu đông này có thể gây nên một nhồi máu cơ tim, một tai biến mạch máu năo hoặc...không ǵ cả.
Khi những bệnh nhân, đă bị một tai biến mạch máu, được xử trí kịp thời và đă sống sót, ta chống lại sự trầm trọng hóa của mảng xơ mỡ, nhất là nhờ các thuốc của lớp các statines. Nhưng người ta ngày càng mở rộng sự sử dụng của những loại thuốc statine này trước khi xảy ra tai biến mạch máu, để tai biến xảy ra muộn hơn và kể cả không xảy ra bao giờ. Đó là trường hợp với rosuvastatine (Crestor), một loại thuốc vừa chứng tỏ tính hiệu quả của nó lên một profil ít thông thường của các bệnh nhân : những bệnh nhân có một nồng độ LDL (cholestérol xấu) b́nh thường nhưng lại có một profil nguy cơ tim mạch cao (tuổi, giới tính, tính di truyền, cao huyết áp, bệnh đái đường, chứng nghiện thuốc lá, chứng béo ph́) làm cho những bệnh nhân này có một nguy cơ 5% bị tai biến chết người trong 10 năm. Do đó đă thúc đẫy cơ quan dược phẩm châu Âu mở rộng sự sử dụng của rosuvastatine đối với loại bệnh nhân đặc biệt này.
(LE SOIR 7/9/2010)
MỠ. Cholestérol, từ chữ Hy lạp cổ chole-(“mật ”) và stereos (“ rắn”), có tên này là do nó đă được khám phá dưới dạng rắn trong những sỏi mật vào năm 1758 bởi thầy thuốc và nhà hóa học Pháp François Poulletier de la Salle.
HÓA HỌC. Phân tử khá phức tạp về phương diện hóa học này, mà công tŕnh nghiên cứu đă mang lại 3 giải Nobel cho các nhà nghiên cứu đă quan tâm đến nó, là một lipide (do đó nó được xếp vào trong số các chất mỡ) tuyệt đối cần thiết cho cơ thể. Cholestérol là một trong những chất ciment thiết yếu của các màng tế bào và cũng là chất cơ bản của nhiều vitamine và hormone. Và nó không phải là chất mỡ duy nhất lưu thông trong máu của chúng ta. Sự thặng dư của nó có thể tỏ ra có hại. Nhưng tính độc hại của cholestérol là do các chất chuyên chở (véhicule) hơn là do chính bản thân cholestérol.
L VA LDL. Đó là những chữ viết tắt của các “ công ty vận tải ” của cholestérol trong máu. Không có những protéine này, cholestérol, v́ không tan trong nước, nên không thể đi vào trong những tế bào để được sử dụng ở đó. LDL có nhiệm vụ giao cholestérol vào trong các cơ quan và các mô từ gan và ruột, là những nơi nó được sản xuất. HDL quét sạch cholestréol dư thừa và mang nó đến gan để làm thoái biến.
CÂN BẰNG. Khi sự quân b́nh giữa hai cách này, phân bố và loại bỏ, bị phá vỡ, các chất ứ đọng có thể được tạo thành bên trong các thành động mạch. Mối liên hệ giữa nồng độ cholestérol trong máu và sự gia tăng nguy cơ tim-mạch dường như ngày nay được xác lập rơ.
STATINES. Một trong những tranh căi hiện nay có liên quan đến vai tṛ của các thuốc được gọi là statines. Những chất làm giảm lipide trong máu (hypolipidémiant) này được sử dụng để làm giảm nồng độ cholestérol trong máu. Việc sử dụng và các chỉ định không tạo được sự nhất trí.
Có thể tác động một cách hiệu quả để pḥng ngừa những tai biến tim-mạch.
ARTERES. Sự thặng dư cholestérol là nguyên nhân đầu tiên của chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose), chịu trách nhiệm mỗi năm ở Pháp 200.000 bệnh tim do thiếu máu cục bộ (nhồi máu cơ tim hay các hội chứng động mạch vành) và 80.000 tai biến mạch máu năo. Cần thiết cho cơ thể, cholestérol được vận chuyển trong máu dưới dạng lipoprotéine phức hợp : LDL, hay “ cholestérol xấu ”, có nhiệm vụ vận chuyển cholestérol từ gan đến các mô, và HDL, hay “ cholestréol tốt ”, có nhiệm vụ mang cholestérol từ các mô về gan, ở đây cholestérol được dùng trở lại hay bị loại bỏ. Khí quá mức, LDL đọng lại trên các động mạch, trong khi HDL tăng cao lại bảo vệ chống lại chứng xơ mỡ động mạch. Các phần tử khác, VLDL, vận chuyển các triglycéride nhưng cũng chuyên chở một ít cholestérol.
LDL là tác nhân quan trọng của sự tạo thành các mảng xơ mỡ (plaque d’athérome), một quá tŕnh liên tục suốt cả cuộc đời. “ Những động mạch của những người trẻ tuổi chết vào năm 20 hay 30 tuổi đă cho thấy những đường rạch mỡ (stries graisseuses). Trừ phi theo chế độ ăn chay một cách nghiêm ngặt ngay tuổi ấu thơ, dường như khó thoát được các đường rạch mỡ này ”, GS Jean Ferrières, thầy thuốc chuyên khoa tim, CHU de Toulouse, đă nhấn mạnh như vậy. Ta hiểu càng ngày càng rơ ràng các mảng xơ mỡ này được cấu tạo như thế nào. Các phần tử LDL tích tụ trong lớp nông của các thành động mạch, ở đây được oxy hóa dần dần và bị ăn bởi các đại thực bào ; những đại thực bào này được biến đổi thành những tế bào bọt (cellule spumeuse) chứa đầy cholestérol. Mảng được tạo thành như thế trở nên hóa sợi và viêm. “ Lúc lớn lên, mảng làm tắc động mạch và hạn chế sự cung cấp máu vùng hạ lưu, điều này gây nên cơn đau thắt ngực hay viêm động mạch. Nếu mảng không vững và vỡ, một huyết khối (thrombus) được tạo thành lúc tiếp xúc với máu và có thể bít động mạch, gây nên nhồi máu hay một tai biến mạch máu năo ”, GS Michel Krempf, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết thuộc CHU de Nantes đă tóm tắt như vậy.
“ V́ mối liên hệ giữa nguy cơ tim-mạch và nồng độ LDL trong máu liên tục, nên phải giảm nồng độ LDL khi nguy cơ tim mạch càng cao. Nguy cơ này được tính bằng cách xét đến tuổi tác, giới tính, huyết áp, các tiền sử t́m-mạch, chứng nghiện thuốc lá và bệnh đái đường của bệnh nhân, GS Eric Bruckert, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết thuộc CHU Pitié-Salpetrière (Paris) đă giải thích như vậy. Có một sự nhất trí tuyệt đồi về sự cần thiết phải làm hạ cholestérol của những người có nguy cơ tim mạch cao. Và không có lư do phải điều trị những người có nguy cơ thấp mà xác suất tai biến tim-mạch trong mười năm là dưới 10%. Quyết định tế nhị hơn đối với những người có nguy cơ ở mức trung gian. Như vậy, có vẻ dường như hợp lư khi điều trị một người đàn ông 60 tuổi bị bệnh đái đường, mặc dầu cholestérol của ông ta không cao lắm, và không điều trị một phụ nữ 30 tuổi nhưng không có yếu tố nguy cơ nào khác một nồng độ cholestérol hơi cao ”, ông ta nói tiếp như vậy. Trong thực hành, ta xem như là có thể chấp nhận được một nồng độ cholestérol toàn thể quanh 2g/L và LDL quanh 1,3g/L. Nhưng nơi một người có nguy cơ cao, ta t́m cách để có được một LDL dưới 1g/l , và 0,70g/l trong pḥng ngừa thứ cấp sau một nhồi máu cơ tim hay một tai biến mạch máu năo.
Mới đây, tạp chí y khoa độc lập Cochrane kêu gọi thận trọng trong việc kê đơn statines, thuốc làm giảm lipide trong máu (hypolipidémiant), nơi những người có nguy cơ tim-mạch thấp, nhấn mạnh những hạn chế của các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện trong 10 năm về sự đóng góp của các thuốc chống cholestérol quan trọng này trong sự pḥng ngừa nguyên phát các tai biến tim mạch. Điều này làm phát động trở lại cuộc tranh luận, mặc dầu, GS Bruckert đánh giá, “ công tŕnh nghiên cứu này chỉ nói lại điều mà tất cả chúng ta đă nói : trong pḥng ngừa nguyên phát, nơi những người có nguy cơ thấp, tỷ suất lợi ích/nguy cơ của statine không được tốt ”. Nơi những người có nguy cơ cao, statine, do làm hạ thấp nồng độ LDL, làm giảm 30% nguy cơ tai biến tim mạch, nhưng đôi khi với cái giá bị đau cơ. Statine làm giảm sự tổng hợp cholestérol, nhưng việc khám phá những tác dụng kháng viêm cũng gợi ư những cách tác dụng khác.
THAY ĐỔI CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG.
C̣n về HDL, các công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng một nồng độ tăng cao có một tác dụng bảo vệ, nhưng chuyển hóa của nó là phức hợp hơn nhiều so với chuyển hóa của LDL. Những kết quả đầu tiên của anacetrapib, một thứ thuốc đang được thử nghiệm có tác dụng làm gia tăng HDL do ức chế sự biến đổi nó thành VLDL, dường như đầy hứa hẹn.
Tuy nhiên sự biến đổi các thói quen ăn uống vẫn là cơ sở của điều trị đối với những người có nguy cơ ở mức độ vừa phải. Sự biến đổi này nhằm giảm các thức ăn giàu mỡ bảo ḥa (graisses saturées), nhất là nguồn gốc động vật, như bơ, phó mát, thịt mỡ (ngoại trừ cá).. và sử dụng dầu thực vật giàu mỡ không bảo ḥa (graisses insaturées). “ Đó thật sự là một chiến lược quan trọng, được bắt đầu ngay thời kỳ ấu thơ, nhằm tránh một phần lớn những vấn đề liên quan đến sự thặng dư cholestérol ”, GS Bruckert đă nhấn mạnh như vậy. Những dịch bệnh béo ph́ hiện nay, do làm gia tăng các triglycéride, cũng làm gia tăng LDL trong máu và báo hiệu một dịch bệnh đái đường, nguy cơ chống lại những tiến bộ đă đạt được và hẳn đưa đến một chính sách pḥng ngừa tích cực hơn.
(LE FIGARO 14/3/2011)
BƯỚC ĐỀU PHẢI CHĂNG CÓ THỂ CẢI THIỆN HY VỌNG SỐNG ?
Pesseur André Vacheron
Président honoraire de l’Académie nationale de médecine
Quote:
15 phút hoạt động vật lư mức độ nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, theo một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố năm 2011.
150 phút bước mỗi tuần được khuyến nghị đề pḥng ngừa những nguy cơ tim mạch.
T́nh trạng bất hoạt vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá nhiều calorie, làm dễ sự tăng thể trọng, chứng béo ph́, cao huyết áp, những bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường.
Sự nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité : từ chữa latin “ sedere ” nghĩa là ngồi) là một trong những tai ương của thế giới ngày nay. Thời gian trôi qua trước một màn ảnh ordinateur hay máy truyền h́nh đă trở thành một chỉ dấu cổ điển của t́nh trạng không hoạt động này. Đối với Tổ chức y tế thế giới, những người thực hiện dưới 30 phút mỗi ngày hoạt động vật lư ở mức trung b́nh có thể được xem như bất hoạt về mặt vật lư. T́nh trạng bất hoạt vật lư (inactivité physique) gia tăng với tuổi tác, bị làm trầm trọng bởi những yếu tố xă hội học và tâm lư học. Con người hiện đại không biết bước, chỉ biết xê dịch bằng xe hơi, các cầu thang cơ học và các thang máy.
T́nh trạng không hoạt động vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá giàu calories, làm dễ sự gia tăng thể trọng (surpoids), chứng béo ph́, cao huyết áp, những t́nh trạng bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường. Đó là một yếu tố độc lập của tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong tim mạch. Ở những người bị bệnh đái đường, hoạt động vật lư cải thiện sự bắt giữ glucose bởi các tế bào cơ, gia tăng tính nhạy cảm đối với insuline và làm dễ sự kiểm soát đường huyết. Đó là một yếu tố quan trọng của điều trị. Ngày nay ta biết rằng những hiện tượng viêm làm dễ sự phát triển chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose).
SỰ TĂNG CAO CỦA CHOLESTEROL TỐT.
Một hoạt động vật lư đều đặn làm giảm những chỉ dấu (marqueur) của hiện tượng viêm. Nó cũng làm giảm sự ngưng kết của các tiểu cầu (agrégation des plaquettes) máu và nguy cơ bị huyết khối (thrombose). Hoạt động vật lư làm gia tăng “ cholestérol tốt ” HDL, có tác dụng bảo vệ thành mạch máu. Nó tạo điều kiện để làm giảm t́nh trạng tăng thể trọng, bệnh béo ph́ và sự nhàn rổi không hoạt động, cũng là những yếu tố nguy cơ làm xuất hiện các ung thư.
Câu trả lời xác định cho câu hỏi ban đầu một lần nữa vừa được xác nhận bởi những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố trong Lancet ngày 1 tháng 10 năm 2011.
Các tác giả (Chi Pang Wen và các cộng sự viên) đă theo dơi hàng năm từ năm 1996 đến 2008 (trung b́nh 8 năm) một tập hợp 416.175 người (199.265 đàn ông và 216.910 phụ nữ) tuổi tối thiểu 20. Bảng câu hỏi ban đầu liên quan đến lối sống và hoạt động vật lư của những người được tuyển mộ. Hoạt động được đánh giá theo cường độ liên quan với những tương đương chuyển hóa : nhẹ như bước thông thường, vừa phải như chạy jogging, trung b́nh như bước nhanh, mạnh như chạy bộ, và theo lượng, số phút mỗi tuần.
Trong 8 năm, so sánh với những người không hoạt động, tỷ lệ tử vong toàn thể của những người có một hoạt động vật lư nhẹ (đi bộ b́nh thường) đă giảm 14%, tỷ lệ tử vong tim mạch giảm 19%, tỷ lệ tử vong động mạch vành 25%, tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu năo giảm 12%, tỷ lệ tử vong do bệnh đái đường 1%, tỷ lệ tử vong do ung thư 10%.
Sự giảm tử vong toàn bộ tỷ lệ với thời gian hoạt động vật lư hàng ngày và cường độ của nó : 15 phút hoạt động vật lư nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, lợi ích gia tăng với thời gian và cường độ của hoạt động mỗi ngày.
Công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan đă có tính đến nhiều yếu tố có khả năng gây nhầm lẫn, những chỉ dấu của một t́nh trạng sức khỏe cơ bản tốt và những kết quả của nó đă không khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, trọng lượng, sự hiện diện của một cao huyết áp hay bệnh đái đường.
Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă chứng minh lợi ích, trong pḥng ngừa tim mạch, của việc bước ít nhất 30 phút mỗi ngày hay 150 phút mỗi tuần. Công tŕnh nghiên cứu của Wen và các cộng sự viên chứng tỏ rằng hoạt động vật lư hàng ngày, ngay cả nhẹ, cũng có lợi ích. Thế mà hoạt động như thế không khó thực hiện cũng chẳng tốn kém ǵ...
(LE FIGARO 2/4/2012)
CÁC LOẠI THUỐC CHỐNG CHOLESTEROL LÀM GIẢM BỆNH TRẦM CẢM.
Một công tŕnh nghiên cứu, vẫn c̣n cần được xác nhận, cho thấy rằng các statines làm giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm.
SANTE. Các statines, họ các loại thuốc nhằm làm giảm nồng độ cholestérol, đều đặn được gán cho những lợi ích khác với những lợi ích mà ta quan sát thấy trên hệ tim mạch. Một công tŕnh nghiên cứu mới, được công bố hôm 21/2 vừa qua trong The Journal of Clinical Psychiatry đă kết luận rằng các statines cũng làm giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm.
Một nhóm nghiên cứu của Hoa Kỳ đă theo dơi trong 6 năm một nhóm 965 bệnh nhân có một bệnh về tim và được tuyển mộ trong nhiều bệnh viện khác nhau của Californie. Trong số những bệnh nhân này, 65% đă dùng statines để điều trị bệnh. Những thuốc này cho phép làm giảm nồng độ cholestérol xấu và cải thiện tiên lượng ở những bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch. Thật vậy, đó là những loại thuốc được kê đơn nhiều nhất trên thế giới.
Những dữ kiện trước đây gợi ư một sự giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm khi sử dụng statines. Tuy nhiên, các kết quả của vài công tŕnh nghiên cứu lại mâu thuẫn nhau. Do đó để biết rơ hơn, các tác giả đă đánh giá mối liên hệ giữa statines và những rối loạn khí chất (trouble de l’humeur) ở 965 bệnh nhân này theo tiến triển của thời gian. Các triệu chứng trầm cảm được đánh giá mỗi năm nhờ Patient Health Questionnaire, một bảng câu hỏi (auto-questionnaire) cho phép đo lường những triệu chứng khác nhau trong hai tuần trước đó : sự rầu rĩ, mệt, giảm ḷng tự tin, những ư nghĩ tự tử...
Các tác giả đă chứng thực rằng vào lúc tuyển mộ, các bệnh nhân sử dụng statines có một điểm số trầm cảm (score de dépression) trung b́nh thấp hơn những người không sử dụng, và sự khác biệt này được xác nhận, thậm chí gia tăng, suốt trong thời kỳ theo dơi. Những người dùng statines càng ngày càng ít bị trầm cảm trong khi những người không sử dụng thấy nguy cơ này gia tăng. Sau 6 năm, 28% những người được điều trị bởi statines sau cùng ít nhất đă bị một đợt trầm cảm nhẹ hay trầm trọng hơn, so với 40% những người không sử dụng. Ngoài ra, ở 776 bệnh nhân không có những triệu chứng trầm cảm vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu, nguy cơ trầm cảm đă giảm 38% trong trường hợp dùng statines so với những bệnh nhân không bị trầm cảm lúc khởi đầu và không sử dụng statines. Dĩ nhiên, các tác giả đă tính đến những dị biệt về profil được quan sát giữa những bệnh nhân được điều trị hay không, đó là giới tính, chứng nghiện thuốc lá, sự hiện diện của những bệnh lư khác hay tŕnh độ học vấn.
Đối với các tác giả, những kết quả đáng phấn khởi này ăn khớp với những kết quả của những công tŕnh nghiên cứu quan sát trước đây. Thế mà những bệnh nhân bị những bệnh tim mạch có nguy cơ bị một bệnh trầm cảm hơn dân chúng nói chung. Nếu mối liên hệ này được xác nhận, những hậu quả có thể quan trọng trên phương diện y tế công cộng.
“ NHIỀU SAI LỆCH ”
GS Mary Whooley, đồng tác giả của các công tŕnh nghiên cứu ở Đại học San Francisco, đánh giá rằng “ hiệu quả này có thể được giải thích bởi tác dụng của statines chống lại chứng xơ mỡ động mạch ở năo bộ, dường như làm gia tăng nguy cơ bị trầm cảm ”. Tuy nhiên GS Mary nhắc lại rằng đó chỉ là những dữ kiện quan sát. “ Những dữ kiện này không cho phép xác lập một mối liên hệ nhân quả và dĩ nhiên đ̣i hỏi được xác nhận bởi những công tŕnh khác. Thế mà cho đến nay, những thử nghiệm này đă không cho thấy lợi ích tâm lư của các statines ở những người sử dụng ”, bà đă công nhận như vậy.
BS Philippe Giral, thuộc khoa nội tiết của hôpital de la Pitié-Salpetrière (Paris) về phần ông tỏ ra dè dặt hơn nhiều về những kết quả này. “ Trong công tŕnh nghiên cứu này có nhiều sai lệch mà nhiều điều chỉnh của phân tích thống kê không thể xóa bỏ, như việc thiếu tirage au sort các bệnh nhân. Trong cùng loại công tŕnh nghiên cứu, các statine đă cho thấy rằng chúng làm giảm nguy cơ găy cổ xương đùi hay cả nguy cơ xuất hiện ung thư. Tất cả những kết quả này đă bị phủ nhận bởi những công tŕnh nghiên cứu khác ! ” ông ta đă minh định như vậy. Những công tŕnh nghiên cứu khác với quy mô lớn hơn là cần thiết để xác nhận hay phủ nhận những dữ kiện này.
(LE FIGARO 27/3/2012)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Thư Ung Thư Bàng Quang
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 25 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (6/5/2007)
7/ BỆNH LẬU VÀ UNG THƯ BÀNG QUANG
Bệnh lậu (gonococcie hay blennorragie), là một nhiễm trùng được lây truyền bằng đường sinh dục, có tần số gây bệnh gia tăng từ vài năm nay, với số giống gốc (souches) lậu cậu đề kháng với kháng sinh gia tăng. Theo một công tŕnh nghiên cứu trên 51.000 người đàn ông, nguy cơ bi ung thư bàng quang sẽ 2 lần cao hơn trong trường hợp có tiền sử bệnh lậu.
Phản ứng viêm tại chỗ và sự tồn lưu của cặn nước tiểu sau khi tiểu tiện giải thích sự liên kết giữa nhiễm trùng thường gây đau đớn này và nguy cơ xuất hiện u bàng quang.
(SCIENCES ET AVENIR 5/2007)
UNG THƯ BÀNG QUANG : MỘT CHẨN ĐOÁN MỚI BẰNG NH̀N HUỲNH QUANG
Giáo Sư Thierry Lebret, thầy thuốc chuyên khoa tiết niệu của bệnh viện Foch de Suresnes, b́nh luận những tiến bộ về ung thư bàng quang, được tŕnh bày nhân hội nghị chuyên đề mới đây về các ung thư niệu-sinh dục ở San Francisco.
Hỏi: Người ta ít nói về ung thư bàng quang. Có phải loại ung thư này hiếm xảy ra chăng?
Giáo sư Thierry Lebret : Trái lại là khác ! Về mức độ thường xảy, th́ đó là ung thư đứng hàng thứ 4 ở đàn ông và đứng hàng thứ 7 ở phụ nữ.Tính tổng cộng, người ta thống kê được 10.000 trường hợp ung thư bàng quang mới mỗi năm ở Pháp.
Hỏi: Có những người có bẩm chất bị ung thư bàng quang và có những yếu tố nguy cơ đặc biệt không?
Giáo sư Th.L : Không có khuynh hướng gia đ́nh trong sự phát sinh ung thư này.Thuốc lá là nguyên nhân chính của sự phát triển các khối u bàng quang. Bàng quang là một cơ quan đặc biệt dễ bị gây thương tổn bởi các hợp chất hóa học. Thuốc lá giải thích sự khác nhau về tần số mắc bệnh giữa hai giới tính. Nhiễm độc thuốc lá ở đàn ông phổ biến hơn đàn bà. Cũng không nên quên vài độc chất nghề nghiệp, như thuốc nhuộm (thí dụ aniline) và vài dẫn xuất hóa học được dùng trong chế tạo cao su và các chất cách nhiệt (isolants de chauffage)
Hỏi: Nếu được phát hiện kịp thời, đó có phải là một ung thư mà ta thuờng chữa lành?
Giáo sư Th.L: Nh́n toàn bộ, ung thư bàng quang được chữa lành trong 80% các trường hợp. Nhưng điều chủ yếu là sự phát hiện sớm và chất lượng của chẩn đoán.
Hỏi: Những triệu chứng thường thấy nhất của ung thư bàng quang là ǵ?
Giáo sư Th.L : Hầu như luôn luôn chính sự xuất hiện của máu trong nước tiểu báo động bệnh nhân. Bất thường này không nhất thiết phải tương quan với một khối u bàng quang và cũng có thể chỉ do một nhiễm trùng đường tiết niệu, sỏi hay một thương tổn của thận. Dầu sao đi nữa, việc chứng nhận nước tiểu hồng hay đỏ, có hay không có cục máu đông, đều cần phải được thăm ḍ. Những triệu chứng khác có thể được biểu hiện, như muốn đi tiểu không cưỡng được hoặc đi tiểu quá nhiều lần, đôi khi đau bụng.
Hỏi: Ung thư bàng quang được chẩn đoán như thế nào?
G.S Th.L : Bắt đầu bằng t́m kiếm trong nước tiểu những tế bào bất thường (frottis urinaire) nhưng xét nghiệm duy nhất cho phép dẫn đến chẩn đoán cuối cùng là nội sợi soi bàng quang (fibroscopie vésicale).
Hỏi : Thăm ḍ này được tiến hành như thế nào?
G.S Th.L: công cuộc thăm ḍ này chỉ cần 5 phút, được thực hiện ở pḥng khám và chủ yếu là đưa vào đường tiết niệu những vi sợi quang học (microfibres optiques), được đẩy ngược ḍng cho đến bàng quang để thăm ḍ. Việc làm nhỏ dụng cụ quang học đă cho phép làm cho khám nghiệm này rất ít đau đớn và chịu đựng được tốt bởi các ông cũng như các bà. Trong bàng quang, khi có một khối u, khối u này thường xuất hiện dưới dạng một polype màu dâu tây, phải được lấy đi vài ngày sau đó.
Hỏi : Cho đến nay, những kết quả nào đă thu được với phương cách cổ điển này và những điều bất lợi nào đă buộc phải hiệu chính một trắc nghiệm mới ?
G.S Th.L : Vào lúc cắt bỏ, chúng tôi có thể loại bỏ hoàn toàn 70% các khối u bàng quang. Sau đó, sự phân tích dưới kính hiển vi mô được lấy ra sẽ hướng dẫn bước tiếp theo của điều trị. Nếu khối u ở nông, trường hợp thông thường nhất, th́ động tác giải phẫu sẽ dừng lại ở đó. Người ta sẽ hoàn tất cuộc giải phẫu bằng cách tiêm vào bàng quang các chất chống ung thư, mỗi tuần một lần, trong 6 tuần. Nghi thức điều trị này cho phép chữa lành bệnh, không tái phát 2 trên 3 trường hợp. Nhưng tiếc thay, và rất thường xảy ra với loại ung thư này, các vi thương tổn (microlésions) không nh́n thấy được, vẫn hiện diện trong những nơi khác của bàng quang, và về sau sẽ là mầm mống của tái phát và của sự phát triển ung thư không được để ư đến. Một phần lớn của tiên lượng của ung thư này là trong khả năng lấy đi toàn bộ các thương tổn ngay trong lần giải phẫu bằng nội soi đầu tiên.
Hỏi: Kỹ thuật mới này là ǵ và được thực hiện như thế nào?
G.S Th.L: Một giờ trước khi thủ thuật, người ta sẽ tiêm vào bàng quang một chất không gây đau. Chất này sẽ gắn một cách đặc hiệu vào tất cả các thương tổn hiện diện, dầu cho bé nhỏ thế nào đi nữa. Sau đó, dưới cái nh́n của nhà ngoại khoa, các thương tổn này sẽ xuất hiện dưới dạng huỳnh quang, nếu phẫu thuật viên nh́n bàng quang bằng ánh sáng màu xanh. Trắc nghiệm này là một cuộc cách mạng thật sự trong chẩn đoán sớm bệnh ung thư bàng quang bởi v́ ung thư càng khám phá sớm, th́ cơ may chữa lành càng lớn.
Hỏi: Những công tŕnh nghiên cứu nào đă chứng tỏ hiệu quả của trắc nghiệm mới này?
G.S Th.L: Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă xác nhận kỹ thuật này, vừa nhận được sự chấp thuận sử dụng của 27 nước châu Âu. Trong những thể ung thư hung hăn nhất và khó nh́n thấy nhất (các ung thư tại chỗ : carcinomes in situ), tỷ lệ được phát hiện, trước khi có trắc nghiệm này là dưới 50%. Từ nay tỷ lệ này tăng lên 95% dưới ánh sáng xanh ! Điều này cũng muốn nói rằng tỷ lệ chữa lành của những ung thư bàng quang hẳn phải c̣n gia tăng và số các trường hợp tái phát sẽ giảm rất rơ rệt.
Hỏi: Nếu các thương tổn ung thư bàng quang tiến triển hơn (20-25% các trường hợp), có những tiến bộ trong điều trị không?
G.S Th.L: Khi ung thư thâm nhiễm sâu hơn vào thành bàng quang, phải dự kiến cắt bỏ toàn bộ cơ quan và thay thế bằng một đoạn ruột được khuôn theo. Một tiến bộ quan trọng: ngày nay các kỹ thuật thay thế, mà trước kia dành cho đàn ông, từ nay cũng được đề nghị cho phụ nữ. Kỹ thuật này cho phép đảm bảo cho bệnh nhân không bị chứng són đái (incontinence urinaire) sau khi mổ, phù hợp với một hoạt động xă hội b́nh thường, mà không làm biến đổi sơ đồ của cơ thể. Nguồn: PARIS MATCH 20/3 - 26/3/2008
CÁC THỢ HỚT TÓC CÓ NGUY CƠ GIA TĂNG BỊ UNG THƯ BÀNG QUANG
Việc sử dụng các chất nhuộm (colorants) và những sản phẩm hoá học khác sẽ gây nên một nguy cơ gia tăng cho các thợ hớt tóc, theo Trung tâm quốc tế nghiên cứu về ung thư, có cơ sở ở Lyon. Các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi cơ quan này của OMS đă được báo cáo bởi tạp chí The Lancet Oncology trong số tháng 4. Một nguy cơ đặc biệt bị ung thư bàng quang, mặc dầu thấp nhưng có thật, đă được nêu lên trong báo cáo. Nguy cơ này dường như ở phụ nữ ít rơ rệt hơn. Các chất hoá học được sử dụng bởi các thợ hớt tóc đă được phân tích. Trong số các chất này, có những chất như ortho-toluidine, được sử dụng trong việc chế tạo các sắc tố và được xếp loại là chất gây ung thư.
Ngược lại, các chuyên gia không xác lập mối liên hệ với các nguy cơ mắc phải ung thư khả dĩ xảy ra nơi những người tự nhuộm tóc. Ở Châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ, có khoảng 35% các phụ nữ và 10% các ông tự nhuộm lấy tóc của ḿnh.
(LE MONDE 27/3/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 153 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (21/12 /2009)
10/ UNG THƯ BÀNG QUANG : COI CHỪNG THUỐC LÁ.
Một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ, được tiến hành ở New Hampshire trong 20 năm, nơi hơn 2000 bệnh nhân, chỉ rơ rằng ung thư bàng quang tiến triển hằng định, chủ yếu là do thuốc lá. Thuốc lá nhân nguy cơ mắc phải ung thư bàng quang lên 5 lần nơi người hút thuốc, so với những người không hút thuốc. Nguy cơ vẫn tồn tại dài lâu sau khi đă ngừng hút thuốc. Nguy cơ giảm rơ rệt trong 5 năm đầu sau khi ngừng hút thuốc nhưng vẫn trên mức chuẩn cho đến 20 năm sau khi ngừng hút.
(PARIS MATCH 10/12-16/12 /2009)
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.