Trại tù VC cấm nuôi thú vật , kỷ luật rất là nghiêm ngặt nhưng mấy ngày Tết , được nới lỏng . Buổi chiều , tôi bỏ con gà vào túi cót lại , đem vào kho . Đề phòng chuột tấn công , tôi treo túi cót lên cao . Buổi sáng trước khi đi lao động , tôi đem con gà buộc vào hàng rào dây kẻm gai . Con gà yếu sức , đứng chưa vửng . Tôi để cho nó một chén nước và ít gạo . Buổi chiều về thăm , con gà xơ xác , ủ rủ đứng im , nhắm mắt hình như ngủ . Một vài bạn tù đi qua nói :" Con gà bị bịnh , sắp chết rồi làm thịt đi ".
Thật là nan giải . làm sao đây ? Tôi nhớ lại lúc còn nhỏ , khoảng mười lăm , mười sáu tuổi , nhà có giỗ , mẹ và bà chị tất bật nấu ăn . Bà già sai tôi cắt cổ gà . Tôi lỉnh kỉnh rồi trốn mất . Đến khi đi tù , tôi vẫn không biết làm gà như thế nào . Vả lại con gà là quà mẹ cho , tôi muốn giữ lấy . Thôi kệ ,tới đâu hay tới đó . Tôi lấy viên thuốc trụ sinh để dành , tetracycline , bẻ làm tư , bóp nhuyển rồi hòa một tí nước . Tôi bóp mỏ gà cho hả ra , lấy muổng cho nó uống từng hớp một . Sau đó , lấy cơm vo từng viên rồi bỏ vào miệng nó . Tôi làm y tá thú y bất đắc dĩ . Xong rồi , tôi bỏ con gà vào túi cót , treo lên ở nhà kho . Tôi lẩm bẩm :" Rán mà sống nghe ".
Sáng hôm sau , việc đầu tiên là tôi mở túi cót xem con gà như thế nào , may mắn là nó vẫn còn cử động . Tôi lại trổ tài trị bịnh gà , cho uống thuốc và ăn cơm . Tôi lại buộc vào hàng rào kẻm gai rồi đi lao động . Buổi chiều đi làm về , vội vàng chạy tất bật đến xem con gà . Tôi vui mừng khi thấy nó vửng vàng đứng trên hai chân . Tôi thưởng cho nó vài con cào cào , châu chấu bắt được . Con gà nuốt ngon lành . Tôi nghĩ đến một cái chuồng xứng đáng cho nó . . Tôi thấy một anh bạn có một cái thùng ghép bằng các thanh gỗ , đóng xen kẻ có chừa các khe hở . Tôi mặc cả với anh bằng hai gói mì . Con gà bây giờ có một cái chuồng khang trang , sạch sẽ .
Mỗi ngày, sáng sớm tôi đem cột nó ở hàng rào, chiều tối bỏ vào chuồng đem vào kho . Trong lúc đi lao động , tôi cố bắt cào cào , châu chấu đem về cho nó ăn . Con gà bắt đầu quen tôi , thấy tôi về , nó mừng , tôi rờ nó , nó không sợ hãi . Con gà mái bắt đầu mọc lông ra đầy đủ , mập mạp , hồng hào, giống như cô gái đến tuổi trăng tròn. Nhiều anh bạn mặc cả để mua , tôi chỉ cười cười . Độ nửa tháng , tôi thả con gà đi ăn tự do . Buổi chiều tôi về , nó chạy đến mừng để được tưởng thưởng cào cào , châu chấu . Chiều tối , tôi đặt cái chuồng ở gần, nó tự động vào , tôi đem cất vào kho .
Một tháng sau , con gà lớn lên to đẹp , mặt hồng hào , đỏ ửng như một thiếu nữ xuân thì , tôi vẫn nuôi bình thường , xem như con thú cưng ở nhà . Không ai bắt được con gà , chỉ trừ tôi , gọi túc , túc là nó chạy đến . Một buổi sáng , đem chuồng ra ngoài , tôi thấy một trứng gà ở bên trong , tôi biết là con gà mái đẻ . Tôi để ý chu kỳ , con gà mái đẻ liên tục 15 ngày rổi nghĩ 20 ngày sau đó lại tiếp tục chu kỳ kế tiếp . Nhờ vậy mà tôi có thực phẩm bồi dưởng .
Anh Nguyễn bá Quát , dân biểu Tuy Hòa , làm trực sinh , danh từ VC đặt cho những người không đi lao động mà ở nhà lo quét dọn phòng ốc . Anh Quát nói với tôi :" Phước, cho con gà ấp đi . Tôi thấy có trống đó ". Tôi thấy cũng vui vui , để dành 5 trứng bỏ vào ổ , lót bằng quần áo cũ rồi đem gà mái đến ấp . Tạo hóa thật diệu kỳ . Bản năng làm mẹ của con gà mái bật dậy , nó say sưa nằm ấp cả ngày , quên ăn , quên uống . Tôi phải đem nó ra ngoài cho ăn uống rồi nó cũng chạy vào nằm ấp tiếp . Vài ngày sau , nở được hai con gà con .
Ngắm gà mẹ dẩn con đi ăn cũng là thú vui của tôi lúc đó . Gà mẹ nuôi con rất kỷ , kiếm được thức ăn gì cũng gọi con đến. Trới mưa xòe cánh che chở cho con , hai gà con ấm áp, ríu rít dưới cánh mẹ thấy mà thương . Mèo đến gần nó trở nên hung dử như muốn tấn công . Riêng tôi , bắt gà rất dể dàng , tôi kêu " túc túc " là gà mẹ chạy tới , tôi đưa tay nâng bầu diều của nó lên rồi bỏ vào chuồng , các gà con chạy theo . Hai gà con lớn dần , nhưng bộ lông đen tuyền , khác hẳn với lông màu vàng của mẹ .
Ba con gà càng lớn , càng đòi hỏi thực phẩm nhiều hơn . Làm sao tôi có lúa gạo mà nuôi bọn chúng ? Ban ngày , tôi thả gà đi rong . buổi chiều đi làm về , tôi bồi dưởng chúng bằng vài con cào cào , châu chấu . Mùa hè đến , cỏ cây ngoài đồng xơ xác , sâu bọ cạn kiệt , tôi đâm lo . Tình cờ thấy một anh bạn bắt được cắc kè , rắn mối , tôi bắt chước thử . Chúng tôi mỗi lần đi lao động ra đồng , di chuyển vài cây số . Tiếng chân xào xạc trên đường làm mấy con cắc kè , rắn mối sợ hãi bò lên cây lớn mọc ở dọc đường . Đặc biệt là bọn chúng chỉ bò lưng chừng thân cây rồi ngừng lại nhìn chúng tôi . Một anh bạn lí lắc , đi vòng qua thân cây phía bên kia để con vật không thấy, rồi lấy tay choàng qua, chụp đúng ngay chổ con vật đang bám vào thân cây . Cái hay là chụp đúng vị trí con vật . Anh bạn hí hửng bỏ vào hộp , không biết để làm gì . Tôi bắt chước thử , lần đầu tiên ra tay , hơi lo , nhưng cũng trúng đích . Mấy lần sau , quen tay nghề , không trật lần nào . Chỉ cần một con rắn mối thôi là đủ bồi dưởng cho ba con gà .
Đầu tháng năm , trận mưa đầu mùa tới , trong lúc làm cỏ, tình cờ lật mấy tảng đá , vô số ếch con nhảy ra . Thế là tôi có thực phẩm cung cấp cho ba con gà . Rồi chúng tôi được phân công trồng cây mè ( vừng) . Ếch nhái cũng cạn kiệt vì lớn lên chúng nhảy đi mất tiêu . Tôi xoay sang bắt sâu mè . Đặc biệt sâu mè lớn bằng ngón tay , thân hình màu xanh giống như cây mè . Mấy ngày đầu , gà ăn sâu mè , nhưng sau đó thì... chê , tôi không biết tại sao . Cỏ bắt đầu mọc , tôi quay qua bắt cào cào , châu chấu .
Một hôm , đi lao động về, thấy trại giam có vẻ khác lạ . Mấy tên " trật tự , văn hóa " ( các chức tước mà bọn VC phong cho những người phe ta , cam tâm làm tay sai cho bọn chúng) , đang hầm hầm lục soát các dãy phòng để bắt các thú vật mà người tù nuôi . Đúng là :
Người nách thước , kẻ tay đao ,
Đầu trâu , mặt ngựa ào ào như sôi.
Tôi vội vàng cḥạy về buồng giam . Anh Quát đứng trước cửa buồng , cười cười :" Phước đừng lo , con gà mẹ khôn lắm , dẫn con chạy vào rừng rồi , tụi nó không bắt được ". Tôi chạy đến hàng rào , kêu túc túc . Độ 15 phút sau , gà mẹ dẫn con chạy về , mặt đỏ ké , ríu ra , ríu rít , hình như muốn mét với tôi là vừa bị rượt bắt . Tôi thưởng cho chúng vài con cào cào , châu chấu . Gà mẹ lại bình tâm dẫn con đi kiếm ăn .
Tôi bắt đầu lo vì bọn " trật tự , văn hóa " sẽ bố ráp liên tục, rồi có ngày nào đó , bọn chúng cũng sẽ chộp được ba con gà . Tôi phải tìm giải pháp. Nhận thấy anh Thi , trung úy Cảnh sát , trưởng Cuộc bót Lê văn Ken, được ở một căn nhà nhỏ ở bên ngoài trại giam . Anh có tay nghề thợ may rất giỏi , bọn VC ưu ái cho anh ở riêng để phục vụ việc may quần áo cho bọn chúng . Anh Thi chơi thân với anh Chung , Thiếu tá khóa 20 VBĐL . Anh Chung và tôi thường hay đến chơi với anh Hồng , Thiếu tá Hải quân khóa 14 . Do đó tôi quen với anh Chung , tôi nhờ anh Chung giới thiệu anh Thi . Tôi trình bày khó khăn về 3 con gà , anh Thi xởi lởi , vui vẽ :" Tôi có chuồng nuôi gà , cứ đem ba con gà cho ở chung".
Sáng hôm sau , trong khi các đội tập họp trước cổng trại điểm số đi lao động , tôi vội chạy đến căn nhà may giao túi cót có đựng ba con gà cho anh Thi . Buổi chiều , đi làm về , tạt qua ghé thăm . Con gà mái dẩn hai con lủi thủi đi ăn riêng, cách xa đám gà của anh Thi . Thấy tôi , con gà mái dẩn hai con chạy tới có vẽ mừng . Tôi thưởng cho mấy con cào cào , châu chấu rồi vội vàng chạy về đội để nhập trại . Con gà mái chạy theo , tôi đứng lại khoát tay thậm chí dậm chân , làm dử, biểu nó quay trở lại . Tôi bỏ chạy đi , con gà mái đứng ngơ ngác nhìn theo .
Mấy ngày sau , anh Thi gặp tôi cho biết , ngày đầu tiên đám gà của anh Thi ăn hiếp ba con gà của tôi . Anh nói :" Con gà mẹ dử lắm , để bảo vệ con , nó dám đánh lại mấy con gà khác , rồi sau đó cũng huề nhưng mấy con gà của anh dẩn đi ăn riêng ". Tình hình êm ả được mấy tháng , chiều nào đi làm về tôi cũng ghé thăm . Con gà mẹ và hai gà con cũng quen đi với đời sống mới .
Lật bật vậy mà cũng giáp năm , chỉ còn một tháng nữa là Tết . Không khí trại giam có vẽ cởi mở vì chuẩn bị ăn Tết . Tôi đem ba con gà về chổ tôi ở , bọn chúng cũng thích ứng với đời sống gọi là mới mà là cũ nầy . Rảnh rang , tôi hay quan sát đời sống của ba con gà . Tôi thích thú so sánh đời sống tình cảm của bọn chúng với con người . Một hôm , ba mẹ con dẩn nhau đi kiếm ăn , ríu ra , ríu rít , thật là hạnh phúc . Bỗng từ đàng xa , một con gà trống , loại đẹp trai , lực lưỡng sáu múi , vỗ cánh hùng dũng cất tiếng gáy :" Ò Ó O Ò O ....". Con gà mái ngẫng đầu lên nghe rồi quyết định bước về phía con gà trống . Hai gà con lẻo đẻo theo sau . Tôi nhìn thấy rõ ràng và bật cười . Con gà mẹ quay lại mổ vào đầu hai gà con , mỗi đứa một cái , hình như nó muốn nói :" Tụi bây đừng theo tao để tao đi chơi ". Hai gà con ngơ ngác nhìn mẹ , rồi không biết hiểu ý hay không tôi thấy bọn chúng lủi thủi dẩn nhau đi riêng. Tôi liếc về cặp trống mái . Con gà mái e ấp đi kế bên anh gà trống hùng dũng giống như một thiếu nữ , bẻn lẻn , âu yếm đi kế bên người tình . Con gà trống với hai chân khỏe mạnh và móng sắc vừa cào đất kiếm thức ăn vừa kêu túc túc hình như nói lời âu yếm . Con gà mái kế bên , uống tràn hạnh phúc với các con trùng mà gà trống kiếm được. Tôi bật cười , ngẫm nghĩ : Tạo hóa thật diệu kỳ , ban cho loài người và sinh vật một quà tặng vô giá là tình yêu để lưu truyền sự sống và nòi giống . Tôi tiếp tục theo dõi ba con gà . Buổi chiều , sắp sửa vào chuồng, con gà mẹ rời người tình để trở về với hai con. Bọn chúng lại ríu rít thương yêu nhau . Tôi thấy con gà mẹ hơn hẳn nàng Trác văn Quân , bỏ cha , bỏ mẹ để đi theo chàng Tư Mã Tương Như khi nghe khúc nhạc Phượng Cầu Hoàng.
Một tuần lễ sau , một trong hai gà con bị bịnh chết , chỉ còn lại gà mẹ và một gà con . Đến ngày đưa ông Táo , Mẹ tôi và Hạnh lên thăm . Tôi bỏ hai con gà vào túi cót , đem ra nhà thăm nuôi và giao cho Hạnh :" Anh nuôi mấy con gà mến tay , mến chân không nở làm thịt . Hạnh đem về nuôi tiếp dùm anh". Cuối năm đó (1987) , tôi về , chuyến tàu vét của những người mà bọn VC gọi là " có nợ máu với nhân dân".
Một buổi lể " hoành tráng " tổ chức ở hội trường có phóng viên nhà báo và nhiếp ảnh quay phim . Đức Dù và tôi ngồi phía sau , giấu mặt đi để cho các vị tổng , bộ trưởng và đại tá ngất ngưởng , hân hoan ngồi phía trước . Một chiếc xe chở chúng tôi về Sài Gòn . Mười hai năm sau , Sài Gòn không thay đổi , đường phố vắng tanh ,im lìm, chỉ thấy các lá cờ đỏ phất phới đúng như nhà thơ Trần Dần đã viết :
Không thấy phố ,
Không thấy nhà ,
Chỉ thấy mưa sa ,
Trên màu cờ đỏ .
Tôi bước chân vào nhà đúng ngày 11/11/1987, mẹ tôi đang nằm trên ghế xích đu . Trong ánh sáng mờ mờ , mẹ tôi giở kiếng ra hỏi :" Con về đó hả ?". Tôi dạ . Tôi ngồi kế bên bà , nắm bàn tay gầy rạc , nổi đầy gân . Mẹ tôi và tôi im lặng, để hạnh phúc tràn đầy ngấm vào từng sớ thịt, vào tận mỗi tế bào . Lúc đó tôi muốn la lên :" Tôi không cần lý tưởng cao xa gì hết , tôi chỉ muốn hạnh phúc tầm thường vậy thôi ". Hạnh đi làm về , mừng rỡ . Câu đầu tiên , tôi hỏi Hạnh là hai con gà của anh như thế nào . Cô em gái lúng túng , mặt đỏ bừng , ấp a , ấp úng :" Nhà chật quá , em....em.....". Tôi hiểu và không nói gì . Tôi đã trải qua những tình cảm khắc nghiệt , đây chỉ là chuyện buồn nho nhỏ trong dòng đời . Nhưng tôi cũng cảm thấy buâng khuâng , man mác và hình như trong tâm hồn , tôi cảm thấy mất đi một cái gì đó mà không bao giờ lấy lại được .
Phước cafe
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Người lính biển được đào tạo và trui rèn trong một môi trường đặc biệt . Biển cả bao la với các trận cuồng phong hay những đêm trăng mờ với muôn ngàn vì sao lấp lánh đã in ấn vào tâm hồn người lính biển những tình cảm mảnh liệt dử dội hay lãng mạn nên thơ. Tình non , tình nước , tình nhà hòa quyện lẫn nhau trong lòng người lính biển cũng như một bóng hình yểu điệu , mượt mà , yêu thương lãng đãng trong trái tim , làm chàng nhớ nhung , ray rức . Ngoài những tình cảm đặc biệt đó , còn có một tình cảm khác âm thầm bàng bạc giữa những người lính biển, giữa các khóa đàn anh và đàn em , không nói mà nên , không hẹn mà đến , nhẹ nhàng , sâu lắng mà cũng thiết tha.
Năm 1983 , tù binh chúng tôi bị bọn Việt Cộng di chuyển bằng xe lửa từ miền Bắc về miền Nam cùng chung với các vị bò lục ( đại tá ) ở trại Nam Hà hay Hà Tây . Hai người bị xích một cùm , nghỉa là tay mặt người nầy xích vào tay trái người kia . Đoàn xe đang chạy , tôi khó chịu , loay hoay ở ghế ngồi vì không được tự do bình thường . Một nhóm người , ồn ào từ toa đầu tàu của các vị bò lục đi tới . Họ được cử đi lảnh phần ăn về chia cho đồng đội . Một người vừa đi len lỏi giữa hai hàng ghế , vừa hô lên như rao hàng bán dầu cù là Mac Phsu :" Có ai Hải Quân không ? Có ai Hải Quân không ?........". Tôi ngước nhìn dáng người quen quen , thân hình dong dỏng , gầy gò , tóc muối tiêu , hớt cao với đôi kiếng trắng . Tôi sực nhớ tới ông, chỉ biết qua hình ảnh , Đại Tá Trần phước Dũ . Tôi chồm tới , chào ông :" Commandant , tôi nè ". ĐT Dũ đứng lại , mặt sáng lên , những người đứng phía sau ông dồn cục lại . Ông hỏi :" Toa ở đơn vị nào ". Tôi trả lời :" Tôi ở Hạm Đội ". Bị mấy người sau dục đi tới , ông nói nhanh:" Về Xuân Lộc , nhớ tìm tôi , nhớ nghe ". Đi gần hết toa rồi , ông còn quay lại, nói :" Nhớ nghe , nhớ nghe ...".
Trại tù Xuân Lộc gồm 3 phân trại A ,B, C . Đại Tá Dũ về phân trại A , còn tôi ở phân trại C . Sau nầy khi lưu lạc qua trại A , tôi có tìm ĐT Dũ . Ông nằm kế bên ông anh ruột , Đại Tá Trần cửu Thiên . Hai anh em có nét mặt gần giống nhau nhưng ông Dũ ít nói trong khi ĐT Thiên gặp tôi là ông huyên thiên về lá bài Bảo Đại . Ông cho rằng hiệp ước Teheran của Đồng Minh trong Đệ nhị thế chiến vẫn còn hiệu lực về phân chia thế giới , vùng Đông Nam Á là vùng trung lập và Bảo Đại là người được lựa chọn để thực thi . Đề tài thật hấp dẩn , tôi ngồi im tiếp thu nhưng là để nghe ... cho vui . ĐT Dũ là người thương đàn em thật sự . Ông ăn chay trường , quà cáp của ông cũng theo hướng đó nhưng là những món ăn cao cấp , có cả nấm đông cô ( thời đó là quí lắm). Mỗi lần gặp tôi là ông trịnh trọng gói cho tôi một bịch quà . Tôi từ chối , ông hăm he là sẽ mang bịch quà đi theo tôi qua chổ tôi nằm . Tôi lân la hay hỏi ông về các chuyện xưa trong Hải Quân . Có lần tôi mạnh dạn hỏi :" Nghe nói commandant có nhiều bà lắm , bây giờ các bà đó ra làm sao ? ". Ông trả lời tỉnh queo :" Tôi cho vượt biển hết , chỉ còn một bà ở lại nuôi tôi thôi ". ĐT Dũ và tôi về cùng một lượt , cuối năm 1987, trước khi chia tay , ông nhét vào túi tôi một số tiền để làm lộ phí đi đường . Vài tháng sau , ông tìm tôi để nhờ lái chiếc ghe vượt biển mà ông đang tiến hành cho đóng . Ông đưa tôi về nhà , ở gần chợ An Đông , nhà ở trên gác , rộng rải , gặp một người đàn bà trông thật đôn hậu, người mà ông nói ở lại để nuôi ông . Rồi bắt được một đường dây khác, ông vượt biên thành công bằng tàu sắt . Sau đó nghe nói ông mất bên Mỹ .
Vào trạc C , tôi được " biên chế " vào cùng đội với Đại Tá Tài , Chánh văn phòng của Tư Lịnh Hải Quân , Đề Đốc Chơn . ĐT Tài ít nói và không hề tâm tình . Trong đội còn có ĐT Sửu , Tham Mưu Trưởng Không Quân hồi thời ông Diệm . ĐT Sửu người Huế , tướng người cao lớn , da ngâm đen . ĐT Tài và ĐT Sửu được phân công cùng nhau gánh cơm từ nhà bếp về phân chia cho đội . Biết tôi là Hải Quân , ông Sửu cứ gặp tôi ở đâu là phân bua ở đấy . Giọng ông Sửu hơi nặng lại có thói quen nói nhỏ , tôi không hiểu gì hết nhưng cứ gật đầu lia lịa ra cái điều thông cảm những điều ông càm ràm về người " đối tác " . Ở trại C , tôi gặp các đàn anh : Trần ngọc Anh ( khóa 12}, Nguyễn văn Thuật ( khóa 13 ) và hai bạn cùng khóa với tôi Hào Râu và Ấn Sẹo .
Ở chưa ấm chổ thì tôi bị chuyển vào trại B , làm mộc . Cùng đội mộc với tôi có các đàn anh : Nguyễn xuân Huy khóa 11, Thùy trinh Bạch khóa 13 , Trần văn Căn khóa 14 và Phan thanh Sử cùng khóa với tôi . Ngoài ra , ở trại B nhưng ở đội khác có các đàn anh : Lê văn Quế khóa 9 , Nguyễn quang Hùng khóa 9 , Hoàng đại Nhân khóa 14 và vài sĩ quan khác mà tôi không nhớ tên . Các sĩ quan Hải Quân ở đây tiếp đón tôi trong tình thân mật và ấm áp . Đặc biệt 2 người đàn anh Lê văn Quế và Nguyễn quang Hùng . Anh Quế và tôi sau nầy cùng ở một đội và nằm kế bên nhau . Anh là người đứng đắn , đáng kính . Đi tù về , chúng tôi còn gặp lại nhau và tình cảm mến mộ kéo dài cho tới tận bây giờ . Anh Nguyễn quang Hùng , tánh tình ít nói , hiền lành , thật dễ mến . Anh xem tôi như người em út , chăm sóc kỷ lưởng . Anh ở đội rau , hôm nào cũng vậy , khi đi làm về là gọi tôi ơi ới :" Phước ơi , Phước ơi ...." để nhét vào tay tôi , khi thì một bó rau thơm , khi thì một bó rau muống hay vài trái ớt . Anh về trước tôi rồi vượt biển . Nghe nói anh mất tích luôn với cả gia đình . Sao người hiền không gặp lành vậy nè , ông Trời?
Lúc đó vào mùa thu hoạch , đội mộc được tăng cường đi phơi bắp . Có một đội khác cột các trái bắp từng chùm một , mỗi chùm 10 trái . Đội mộc chúng tôi , công việc chỉ là cầm từng chùm một , vắt lên một xà ngang xỏ từ vách nầy sang vách kia trong một buồng trống . Chúng tôi vừa làm vừa nói chuyện râm ran cho đở buồn . Tôi đùa giỡn với các bạn đồng tù vừa cầm xâu bắp vắt lên xà ngang . Xâu bắp tôi vừa vắt lên xà ngang , rớt xuống rơi lả tả vì người cột không cột chặc . Tôi cúi xuống lượm mấy trái bắp thì một tiếng nói the thé ở phía sau lưng tôi vang lên :" Các anh lao động như vậy hả . Bọn ngụy các anh chỉ có phá hoại ". Thật tình mà nói , biết thân phận mình đi tù , ráng nín thở qua sông , còn muốn làm anh hùng gì nữa trong hoàn cảnh nầy nhưng khi nghe nói đến tiếng " ngụy " , lòng tôi cảm thấy thương tổn ghê gớm . Vừa bị ăn cướp sạch sành sanh , vật chất lẫn tinh thần , lại còn bị mắng là " ngụy " nữa , tự nhiên tôi phản ứng không suy nghĩ . Tôi quay lại , tên công an nhỏ con , đầu to không cân xứng với thân hình nhỏ xíu , cái đầu ngất ngưởng giống như cục kẹo gắn trên một que kẹo . Sau nầy tôi mới biết hắn là Trưởng Trại B , tên là Tâm Đầu Bò , giống như hình dạng của hắn . Tôi nghiêm trang nói :" Cán bộ không được gọi chúng tôi là ngụy . Báo chí và đài phát thanh cũng không được nói tới chữ ngụy ". Hắn sứng sộ :" Anh cãi tôi hả ? Coi chừng tôi đánh anh :" Lỡ " binh " rồi , tôi " binh " luôn :" Cán bộ đánh tôi là tôi đánh lại ". Hắn nhìn trừng trừng vào tôi , mặt giận xanh lè nhưng không dám làm gì vì hắn nhỏ con hơn tôi . Hắn bỏ đi ra , một lát sau , hai tên công an , vỏ trang súng , kè tôi lên văn phòng bọn chúng . Ở đây cả 10 tên thay nhau thẩm vấn tôi . Chúng kết tội tôi là chống lao động , chống Ban Giám Thị ( VNCH gọi là Quản Đốc ) . Hai tội rất nặng , có thể bị cùm 3 tháng trở lên . Biết vào hang cọp , tôi khăng khăng trả lời : tôi hăng say lao động , tôi chỉ muốn không gọi chúng tôi là ngụy . Bọn chúng hết vuốt ve rồi dọa nạt nhưng tôi cứ một mực khai như vậy . Quần tôi 3 tiếng đồng hồ , từ 9 giờ sáng cho tới 12 giờ trưa , không được kết quả gì , bọn chúng hăm he tôi :" Về trại chuẩn bị hành lý qua trại khác để cải tạo tốt hơn".
Tôi về buồng giam , cả trại như đàn ông vở tổ . Nhiều người đứng thập thò ngoài buồng , có người vào tận giường bắt tay tôi để động viên tinh thần . Một sĩ quan đàn em , Trung Úy Trác ngọc Anh thuộc Quân Đoàn 2 , quen từ hồi ở trại Thanh Cẩm, trèo lên chổ tôi nằm . Anh truyền kinh nghiệm :" Chắc chắn là anh bị cùm . Chuyện nầy em kinh nghiệm nhiều lắm . Em cho anh cái áo nầy ". TN Anh chìa cho tôi cái áo ấm bộ binh , dầy cộm . Anh nói tiếp :" Cái áo nầy hữu dụng lắm , trong nầy có nhiều thứ cần thiết : kim chỉ , dao cạo râu, thuốc sốt rét , thuốc tiêu chảy ". TN Anh chỉ cho tôi đường viền của áo , các thứ nầy , anh để rải rác , vải lại dầy nên mò sơ không biết . TN Anh dặn kỷ tôi:" Nhớ nè , lúc nào cũng mặc áo nầy , khi nào bị đánh thì ôm bụng cuốn tròn lại để ngực và bụng không bị tổn thương" .
Buổi trưa , cả trại tập họp để nghe bọn chúng đọc lịnh cùm tôi với tội danh chống lao động và chống Ban Giám Thị . Tôi bị đưa qua trại A vì ở đây mới có nhà cùm . Nhà giam rộng chỉ có một giường gỗ và một cái cùm chân ở cuối giường . Tôi không sợ lắm vì đã từng trải qua ở trại Cổng Trời , ba tháng bị cùm trong phòng tối , khủng khiếp hơn ở ̣đây , đủ kinh nghiệm để chịu đựng . Chiếc áo của Trác ngọc Anh thật công dụng .
Chiều tối dần , ban nhạc sáo thổi của đàn muổi vang lên. Tôi cuốn mình lại thu tròn trong chiếc áo ấm bộ binh . Hai bàn chân vẫn còn thò ra ngoài , tôi nới lỏng dây lưng quần , kéo quần dài thêm che hai bàn chân . Không bị muỗi cắn nhưng bị chuột bò qua, bò lại trên người nhiều lần . Hai lần bị chúng tẩm quất để trả thù cho tên Tâm Đầu Bò , tôi nhớ lại lời của TN Anh nên cũng tai qua ,nạn khỏi .
Rồi cái gì cũng qua đi . Sau một tháng , tôi được tháo cùm . Trớ trêu , người mở cùm cho tôi là Trung Tá N. , Tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi , sừng sỏ của sư đoàn nổi danh vào bậc nhứt . Cấp bậc của anh luôn thăng cấp tại mặt trận . Bây giờ , anh làm Trật Tự viên cho bọn chúng . Vì đâu nên nỗi ? Bị cùm được một tháng thôi mà chân trái tôi tê cứng , loạng choạng đứng dậy và khập khiểng đi . Tôi bị tống vào đội " hoàng gia " , gồm những người bị liệt kê là không chịu cải tạo . Đội nầy chỉ lao động trong trại , không được đi ra ngoài. Đội gồm đủ thành phần , một số là dân sự , tiêu biểu là Giáo Sư Lê văn Ngôn, Đại học Luật khoa , một số là các linh mục và các nhà sư , một số là quân đội, tôi chỉ còn nhớ Thiếu tá Nguyễn ngọc Xuân ( Quận trưởng) , Thiếu tá Trần khắc Nghiêm , em của Trung tá Trần khắc Kính ( Lực lượng đặc biệt) , Thiếu tá Thiết giáp Nguyễn chinh Phu (sĩ quan xuất sắc của Thiết Giáp , khi xuất trận mang lon Trung uý , hành quân 6 tháng trở về mang lon Thiếu tá , thăng cấp tại mặt trận) ...
Tôi đang loay hoay trải chiếu nằm ở từng trên , kế bên TT Nghiêm , anh đang diện bích , quay mặt vào tường , các ngón tay đang bắt ấn , không màng thế sự bên ngoài . Một bóng người xuất hiện ngoài cửa , tiến vào trong buồng , hô lớn lên giữa những tiếng ồn ào của đội :" Phước đâu , Phước đâu? ...." Tôi nhìn xuống nhận ra ông , gương mặt trí thức , hiền hòa sau đôi kiếng trắng, Trung Tá Nguyễn địch Hùng ( khóa 4 Brest ) , Hạm trưởng chiếc HQ1 , Trần hưng Đạo . Đàn anh và đàn em cách nhau khá xa ,khoảng 10 khóa , tôi biết ông mà ông không biết tôi , không hiểu tại sao ông lại đi tìm tôi? Tôi thò mặt ra ngoài , kêu lên :" Commandant , tôi là Phước nè ". TrTHùng vui vẽ :" Ờ Phước hả . Sáng chủ nhật nầy , nhớ ghé tôi chơi ". Ông bước ra cửa còn quay lại nói :" Nhớ 8 giờ sáng nghe ".
Sau nầy tôi mới biết , tiếng đồn gần xa , vang dội cả trại . Các đàn anh thăm hỏi tôi nhiều lắm . TrT Hùng là người đầu tiên sau đó là TrT Hà hiếu Diệp (khóa 10) , TrT Vỏ duy Kỷ (khóa 11), TrT Nguyễn như Phú( khóa 16 VBĐL thụ huấn khóa 13 HQ), ThT Nguyễn văn Hồng ( khóa 14). Đặc biệt TrT Diệp , ngày nào cũng hỏi thăm tôi có cần gì không mặc dù anh cũng thuộc loại thăm nuôi " nhà nghèo ". Anh ra tù trước tôi nhưng không vượt biên được vì con đ̣ông quá . Khi tôi ra tù , qua một người bạn , một đường dây vượt biên uy tín nhứt mà đài BBC từng đề cập , mời tôi đi . Tôi từ chối vì còn lấn cấn mẹ già , không nở bỏ đi , tôi nhường chuyến đi lại cho TrT Diệp . Chính tay tôi mua la bàn và hải đồ cho anh . Nhà anh lụp xụp ở một hẻm đường Phan đình Phùng sau tòa đại sứ Campuchea . Vài ngày sau khi ghe của anh khởi hành , người liên lạc đưa tôi một mảnh giấy với hàng chữ viết của anh :" Ra khơi an toàn ". Tôi mừng cho anh nhưng hụt hẩng . Chiếc ghe của anh mất tích hoàn toàn , không bắt được liên lạc với một ai trên ghe . Kết thúc một câu chyện buồn .
Anh Nguyễn văn Hồng , đối với tôi là khóa trên , khóa dưới dễ nói chuyện và dễ thông cảm , Anh dặn tôi , sáng chủ nào cũng phải ghé anh . Tôi ngần ngừ. Anh dỏng dạc :" Phước còn nhớ Brimade (huấn nhục) không ? Tôi ra lịnh Phước thi hành ". Tôi biết anh nói đùa , nhưng câu nói hàm chứa một sự thân thương nào đó .
Sáng chủ nhựt , 8 giờ sáng , đến hẹn lại lên , tôi qua thăm TrT Nguyễn địch Hùng như lời ước hẹn . Ông ngồi sẳn chờ tôi trên một chiếc chiếu mà ông đã trải lên trên hành lang lối đi của buồng giam . Thức ăn thăm nuôi bày la liệt trên chiếu . Người đàn anh và người đàn em , chưa từng gặp mặt , chưa từng nói chuyện mà cảm thấy thân thương hơn lúc nào trong hoàn cảnh nầy . Có một sự liên hệ nào đó buộc chặc chúng tôi lại . TrT Hùng và tôi ngồi đối mặt, cùng nhau trải dài tâm sự , kể lại những nổi vui buồn của đời lính thủy . Ông không hề nói tại sao ông đi tù mặc dù ông là Hạm Trưởng HQ1 lừng lẩy , soái hạm của HQ/VNCH . Cuối cùng bắt buộc tôi hỏi :" Tại sao chiếc HQ1 ra đi mà commandant lại ở đây ? ". TrT Hùng nhìn tôi một hồi lâu , gương mặt bình thản , đôi mắt sáng sau đôi kiếng trắng :" Tôi cho lịnh nhân viên trên chiến hạm đem gia đình xuống từ 6 giờ chiều đến 8 giờ tối . Mấy ông ấy muốn khởi hành sớm hơn , tôi không thuận vì chưa tới giờ . Thế là mấy ông ấy lái đi ". Thời gian như ngừng lắng đọng , tôi không dám hỏi thêm mấy ông ấy là ai và ông cũng không nói . Tôi nhận thấy có một cái gì đó không ổn . Ai có quyền lái tàu đi mà không có mặt hạm trưởng ? Sau nầy , tôi đọc được những lý do khác nhưng vẫn là trái luật . Người ta xem đó là chuyện bình thường và có khuynh hướng coi những chuyện đã qua rồi bới móc lại làm chi. Giữa cái đúng và cái sai ngườita không phân biệt được vì vậy cứ tiếp tục mãi. Có một vài " nhà Hải Quân " muốn Hải Quân lúc nào cũng đẹp , cũng hay không tì vết. Lý tưởng và lương tâm của người lính biển nằm ở đâu ?
Nắng lên cao , chiếu qua hàng cây ở ngoài sân . Ánh nắng xuyên qua các tàng cây chiếu vào chổ chúng tôi ngồi . Tôi nhìn ông , bóng lá cây nhảy múa trên gương mặt ông , gương mặt bình yên , không hận thù , không oán ghét . Xuất thân từ trường Hài Quân Pháp , Brest , bạn bè đồng thời với ông đều mang cấp bậc đại tá và giữ những chức vụ cao ở trên bờ , riêng ông ph̉ải lênh ̣đênh trên biển canh giữ kẻ thù . Hạm Trưởng HQ1 Trần hưng Đạo lừng lẩy , tình non tình nước là đó . Không bỏ thuộc cấp , không bỏ gia đình , tình nhà là đây. Ông ngồi đó trước mặt tôi , đôn hậu , vui vẻ với người đàn em xa lơ , xa lắc. Động cơ nào thúc đẩy ông tìm tôi ? Tôi xúc động , hình như mắt tôi ươn ướt, hình ảnh ông nhòe đi , nhưng trong lòng tôi sáng rực lên mấy chữ : TÌNH NGƯỜI LÍNH BIỂN .
Phước cafe
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Riêng tôi ở một gian nhà 12 phòng mà trước đó 12 sĩ quan Hải Quân Mỹ ở . Nhà rộng thênh thang ,đầy đủ tiện nghi . Lúc bàn giao nhận đơn vị chỉ có mình tôi là sĩ quan . Khu vực sĩ quan nằm trên đỉnh đồi cao nhứt , cho một quanh cảnh nhìn về Qui Nhơn rất nên thơ .
Đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng Qui Nhơn là đơn vị do Mỹ bàn giao lại nên chưa có trong bản cấp số , việc điều hành tiếp liệu , hành chánh và nhân viên gặp trở ngại vì vậy đơn vị chúng tôi phải sáp nhập vào Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn do Thiếu Tá T. làm Chỉ Huy Trưởng . Tôi được bổ nhiệm là Chỉ Huy Phó kiêm Sỉ Quan Đặc Trách PTHC . Trên danh nghĩa là Chỉ huy Phó , dưới quyền của Thiếu Tá T. , nhưng tôi làm việc biệt lập , đơn vị của tôi nằm trên ngọn đồi của bán đảo Hải Minh , trong khi Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn đồn trú trong thị xả Qui Nhơn .
Bạn bè nghe tôi là Chỉ Huy Phó dưới quyền Thiếu Tá T. , Các anh ấy đùa, đe tôi :" Ông T. khó chịu như tên của ổng , đọc trẹo hàm . Mầy coi chừng , ổng đì sói trán ". Nhưng khi tiếp xúc với Thiếu Tá T. , tôi nhận thấy ông ấy là người khả ái và rất lịch sự . Lần đầu tiên gặp ông ở văn phòng CHT Căn Cứ , ông nói chuyện với tôi cả tiếng đồng hồ . Ông thuyết giảng với tôi về Luật Hàng Hải , Luật trong Hải cảng . Ông chỉ tôi một đống sách luật dày cộm trên bàn :" Mình phải nghiên cứu kỷ lưởng để tránh đụng chạm với các đơn vị bạn". Vì ngoài đơn vị PTHC của Hải Quân còn có lực lượng Giang Cảnh , Quan Thuế , Ty Hàng Hải ( thuộc Bộ Công Chánh ) và Hải Đội 2 Duyên Phòng . Mấy lần ông tiết lộ tên Thiếu Tướng Ngô Du như một sự liên hệ nào đó . Tôi chỉ nghe mà không đóng góp một chi tiết nào ngoài bàn về cách làm việc .
Sự tiếp cận của tôi với Thiếu Tá T. đi đến chổ thân mật hơn . Chiều thứ bảy hay chủ nhật , ông hay mời tôi lên căn cứ làm vài ly rượu . Chiều tối dần , ông hay rủ tôi ra quán cà phê ngồi nghe nhạc . Ông lái xe , tôi ngôì kế bên , thỉnh thoảng ông liếc nhìn vào kiếng chiếu hậu , bảo :" Bả đi theo " . Tôi liếc nhìn kiếng chiếu hậu phía bên tôi , thấy một chiếc jeep chạy sau , một người đàn bà ngồi trên xe . Chúng tôi ngừng xe vào quán cà phê , chiếc xe đi theo cũng ngừng bên ngoài , đợi hồi lâu không thấy gì lại bỏ đi . Thiếu Tá T. cười với tôi :" Chỉ vậy thôi " . Ông có thói quen rất ngộ . Ông rất thích ăn mì , ông hay rủ tôi đi ăn mì tiệm Tàu , ở ngoại ô Qui Nhơn , trên quốc lộ 1 , qua khỏi đường rầy xe lửa . Tiệm đơn sơ , mộc mạc nhưng nấu ăn rất ngon , nước lèo ngọt thanh và sợi mì dai nhai sầng sật . Lần đầu tiên đi ăn với Thiếu Tá T. , ông rất tự nhiên khi dặn người chủ quán : " Cho hai tô mì 3 vắt ". Tôi nhìn ông dọ hỏi . Ông giải thích :" Một tô 2 vắt thì không no , hai tô thì mất ngon , một tô 3 vắt thì vừa ". Tôi thích thú với sáng kiến của ông. Người chủ quán bưng ra hai tô mì nóng hổi . Thiếu tá T. cầm hủ ớt ngâm chua còn phân nửa , trút vào tô mì của ông . Chủ quán người Tàu than thở :" Hà cái lầy nị làm ngộ lổ vốn dồi ". Ông trả lời tỉnh queo :" Không sao đâu , tính tiền thêm đi mà ".
Đơn vị tân lập nhưng rất nhàn , nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ tàu buôn neo ở ngoài cảng Qui Nhơn . Hải cảng Qui Nhơn chia làm hai vùng : bên trong cảng có các cầu cặp thuộc ty Hàng Hải , Giang Cảnh và Quân Vận , bên ngoài cảng là vùng hoạt động của đơn vị Phòng Thủ Hải Cảng Qui Nhơn . Các tàu buôn trước khi vào bến cặp cầu bốc hàng , phải neo ở vùng ngoài cảng . Chúng tôi phái các tàu tuần luôn luôn túc trực xung quanh các tàu buôn nầy. Nhiệm vụ rất đơn giản nhưng tôi cũng siêng năng đi theo tàu tuần thường xuyên để nắm bắt hoạt động của đơn vị . Tôi nhận xét : chống đặc công Việt Cộng thì dễ nhưng chống buôn lậu thì nhiêu khê hơn , bất cứ ghe hay tàu nào cũng có thể lấy hàng lậu từ tàu buôn với sự thông đồng của tàu tuần . Với nhiệm vụ của tôi và với quyền hạn của ông anh tôi , Trưởng Ty Hàng Hải , tôi là người dễ bị dòm ngó .
Một hôm , anh tôi hỏi :" Em có biết Thượng sĩ Hải không ? ". Tôi nói biết vì Thượng sĩ Hải thuộc CCHQ/QN . Anh tôi nói tiếp :" Thượng sĩ Hải có nhà trong khu vực của Ty Hàng Hải Qui Nhơn , đúng ra tao không cho phép nhưng vì nghĩ là binh sĩ , nghèo , nên tao cứ để vậy . Nhưng sáng nào hắn cũng đi dọ hỏi ở các cầu tàu . Mầy cẩn thận ". Để đề phòng hoạt động không kiểm soát được của tôi , Thiếu Tá T. lấy quyền phân bố nhân viên xuống các tiểu đỉnh đồng thời ông cho di dời đài kiểm soát hoạt động Hải Cảng từ căn cứ của tôi ở Hải Minh qua Căn Cứ Hải Quân ở thị xả Qui Nhơn .
Một hôm tôi đang nói chuyện với Thiếu Tá T. thì Thượng Sĩ Hải vào trình việc với ông . Tôi nhận thấy Thiếu Tá T. tín cẩn đặc biệt ở Thượng Sĩ Hải . Trong đơn vị râm rang Thượng Sĩ Hải ( Trần thiện Hải ) là cháu của Thủ Tướng Trần thiện Khiêm . Khi Hải đi ra , tôi hỏi thẳng TTá T. :" Thượng Sĩ Trần thiện Hải có phải thật sự là cháu của Thủ tướng Trần thiện Khiêm không?". Ông T. ngần ngừ một hồi lâu:" Tôi không biết có hay không , nhưng thấy mỗi lần ông Khiêm ra đây là thấy hắn ta lăng xăng ". Tôi không hỏi thêm nữa và biết đây là " mèo mượn hơi hùm " . Ông T. còn đi xa hơn nữa khi bổ nhiệm Thượng Sĩ Hải là Sĩ Quan An Ninh đơn vị .
Thượng Sĩ Hải đối với tôi tỏ ra nhủn nhặn nhưng các thiếu úy , chuẩn úy trực đài Kiểm Soát Hải Cảng cho biết họ bị xem thường và mỗi lần xin đi phép phải làm đơn đưa cho Thượng Sĩ Hải duyệt . Tôi có trình việc nầy với Thiếu Tá T. nhưng ông không nói gì .
Tình hình hơi căng . Lời nói của ông anh văng vẳng bên tai . Vả lại tôi là người nóng tính không muốn bị làm nhục . Tôi nhớ lúc phục vụ ở Duyên Đoàn 21, tôi Xử Lý Thường Vụ khi Chỉ Huy Trưởng Duyên Đoàn về Nha Trang họp , một Trung Sĩ da ngâm ̣đen , mặt rỗ , thuộc Sở An Ninh Quân Đội ( đường Nguyễn bỉnh Khiêm ) trình giấy yêu cầu được giúp đở để thi hành nhiệm vụ . Hắn yêu cầu tôi cho một bàn giấy , đặt ở nơi yên tĩnh và được quyền gọi bất cứ ai trong đơn vị để phục vụ cuộc điều tra . Lỗi lầm là ở các sĩ quan tiền nhiệm nhưng đơn vị náo loạn hẳn lên , hầu như không còn kỷ luật nữa . Tôi ấm ức , tự hứa với lòng mình là không thể để mình dính vào những trường hợp như thế .
Mặt khác , tôi cố giữ những hoạt động riêng tư thật trong sạch . Thỉnh thoảng anh tôi nói dò la :" Mấy thương gia Tàu muốn gặp mầy ". Tôi bảo :" Anh cứ nói với họ là em bận ". Tôi suy nghĩ nếu gặp họ , mình xiêu lòng thì sao , chẳng thà không gặp thì hay hơn . Đi chơi ngoài phố , nhiều người đến làm quen , mời một ly nước rồi kỳ kèo đến nhà chơi . Tôi sợ sập bẩy , tuyệt đối từ chối . Nơi tôi ở , phong cảnh thật hữu tình , thoáng mát , tôi không dám mời ai lên chơi , kể cả người quen . Đơn vị có hai picket boat có thể tổ chức picnic đi chơi ở Cù Lao Xanh hoặc dùng skimmers đi bắn cá ở các ghềnh đá . Tôi cố tiết chế để không xử dụng của công . Tình hình êm ả , nhưng cái gì đến , nó sẽ đến .
Sĩ quan an ninh đơn vị , Thượng Sĩ Hải , báo cáo trực tiếp lên Thiếu Tá T. mà không qua tôi , nhưng vì tôi làm việc sát với thủy thủ trên tàu tuần , mọi hoạt động xảy ra tôi đều biết . Một hôm , một thủy thủ trên một chiếc tàu tuần báo cáo sẽ có buôn lậu tối hôm đó . Khuya 12 giờ , tôi và hai thủy thủ lái một chiếc skimmer đi tuần tra . Biển êm , tôi cho chiếc skimmer thả lềnh bềnh trên biển . Ngoài xa , các thương thuyền bỏ neo , chong đèn sáng choang . Hai giờ khuya , tôi đang ngủ gà , ngủ gật , một chiếc ghe lạ xáp vào một chiếc thương thuyền . Tôi đợi cho họ chất hàng lậu xuống , ghe vừa tách ra là chiếc skimmer của tôi vọt tới . Bên trái tôi , trong bóng tối của rặng đồi Hải Minh , một lằn nước trắng xóa xuất hiện . Tôi nhìn kỷ thấy Thiếu Tá T. trên một chiếc skimmer khác . Tôi gật gù : sĩ quan an ninh đơn vị cũng khá đấy . Chiếc skimmer của Thiếu Tá T. kè chiếc ghe buôn lậu vào cầu tàu của đơn vị PTHC nằm trong khu vực của Hải Đội 2 Duyên Phòng . Người chủ ghe buôn lậu hóa ra là thủy thủ làm việc ở Thủy Xưởng . Đưa hắn lên cầu tàu , Thiếu Tá T. cứ hạch hỏi :" Ai cầm đầu mầy ?". Tôi biết ông ấy nghi ngờ tôi . Tôi đứng kế bên , tỉnh queo không thèm nói gì . Bổng nhiên , ông đấm mấy cái vào bụng tên thủy thủ buôn lậu và quát lên " Khai ra ". Tên thủy thủ ôm gập người xuống , rên rỉ :" Em làm một mình ". Thấy vô ích , Thiếu Tá T. giận dử , quay qua tôi :"Ông Phước , sao ông không báo cáo tôi ". Các nhân viên của tôi đứng xung quanh lo lắng . Lúc đó tuổi trẻ , tôi có một khuyết điểm là rất nóng tính . Biết mình có khuyết điểm , tôi ráng giữ mình mực thước . Bây giờ bị nghi ngờ , mất mặt , tôi giống như thùng thuốc súng nổ bùng lên . Tôi đập tay vào cái bàn nhỏ kế bên một cái rầm và to tiếng với Thiếu Tá T. :" Tôi nói cho cammandant biết , commandant có sĩ quan an ninh ,anh ta không báo cáo tôi , tôi phải làm một mình . Vả lại tôi có quyền đi bắt buôn lậu trước rồi báo cáo commandant sau". Ngày mai commandant báo cáo lên cấp trên , tôi đi hầu ". Nói xong , tôi bỏ về căn cứ .
Sáng hôm sau , ngày chủ nhựt , tôi trằn trọc nằm ngủ nướng . Người thủy thủ tài xế của Thiếu Tá T. vào nói :Thiếu Tá T. muốn gặp tôi . Chiếc xe jeep đưa tôi vào CCHQ/QN , xe vừa vào cổng , tôi thấy một cái bàn phủ drap trắng đặt dưới một tàng cây , Thiếu Tá T. đang ngồi ở đó . Tôi đến chào ông . Thiếu Tá T. đưa tay bảo tôi ngồi , ông cầm chai rượu Hennessy vừa rót vào ly , vừa nói :" Ông nóng tánh quá ". Tôi thật sự hối hận :" Xin lỗi commandant , tôi quả thật cư xử không đúng ". Thiếu Tá T. cười xòa :" Thôi nhắp một tí cho ấm ". Buổi sáng nắng lên hơi cao , gió thổi nhè nhẹ . Ánh sáng chiếu xuống tàng cây . Bóng lá cây lung linh , nhảy múa trên dĩa mồi nhậu , các con chim mía vàng rượm đang nằm chờ đợi . Tôi cảm thấy nhẹ nhàng , bao nhiêu buồn phiền tan biến .
Sau biến cố đó , tôi suy nghĩ mấy ngày . Tôi biết đơn vị tôi , bao nhiêu người thèm muốn . Nhàn hạ , an ninh , đầy đủ tiện nghi và nếu khôn ngoan một tí xíu có thể ... khá hơn . Nhưng tôi biết tôi không có khả năng đó . Tôi còn nghĩ xa hơn , nếu tôi còn nắm đơn vị , tôi sẽ là chướng ng̣ại vật , là ...kỳ đà cản mũi . Ngoài ra , tôi có một chuyện tình cảm cần giải quyết . Tôi phải rời Qui Nhơn . Tôi làm đơn xin thuyên chuyển , ba ưu tiên đều xin về Hạm Đội . Vài ngày sau khi nộp đơn , tôi ghé văn phòng CCHQ/QN , nhân viên ở đó bảo Thiếu Tá T. cầm đơn của tôi về Sài Gòn rồi . Tôi cười . Quả nhiên một tuần sau , tôi có lịnh thuyên chuyển về làm Hạm Phó của Pháo Hạm Lôi Công HQ330 .
Tôi trình diện Thiếu Tá T. trước khi thuyên chuyển . Ông cười , vui vẽ :" Sẳn dịp có phái đoàn thanh tra về kỷ thuật , tôi làm tiệc đãi, luôn dịp chia tay với ông . Tôi có hai món quà tặng ông , tôi đề nghị ông được huy chương kỷ thuật vì giữ đơn vị được hoàn hảo và phiếu phê điểm thuyên chuyển , tôi phê ông 90 điểm ". Ông chìa giấy cho tôi xem . Thiếu Tá T. để lại trong tôi nhiều kỷ niệm và một vài ân tình . Sau nầy khi đi tù Việt Cộng về , tôi có ghé thăm ông. Tôi đưa ông đi ăn mấy lần.
Ông sống trên một cái chòi cao ở đường Trương minh Giảng , như con cọp già đơn độc , vợ con xa vắng . Ông sống cô đơn với hàng chục cuốn sách tử vi bày la liệt trên bàn .
Buổi sáng tinh sương , tôi rời căn cứ trên đồi Hải Minh . Tôi gặp Vũ ngọc Thọ ( khóa 16) ở bến phà bên phía Qui Nhơn . Tôi chào từ giã Thọ . Thọ đưa tôi một ít tiền , tôi không lấy . Hắn cứ nằn nì , chạy theo nhét vào túi tôi :" Tao biết mầy mà , rủi đạp bánh tráng thì sao ". Lòng lâng lâng buồn nhưng tâm hồn thanh thản , tôi rời Qui Nhơn , một vùng đất kỳ bí , trắc trở , một vùng đất mà nhiều sĩ quan cao cấp bị thân bại danh liệt
Phước cafe
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Người Nhái Lê Văn Kinh
Anh Lê Văn Kinh lớn hơn tôi 3 tuổi, là bạn học cùng lớp với tôi ở trường Trung Học Đồng Nai, Sàig̣n trong những năm 1951 đến năm 1955. Anh Lê Văn Kinh sanh ngày 15 tháng 2 năm 1935 tại Sa Đéc, Nam Việt Nam trong một gia đ́nh có 9 người con gồm: 3 gái và 6 trai. Sau hai chị, anh Kinh là người con trai lớn nhứt trong gia đ́nh.
Sau khi thi Brevet xong (Anh Kinh học chương tŕnh Pháp. Bằng Brevet tương đương với bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp của Việt Nam), anh Kinh mất tích trong chốn học đường. Sau đó một tḥi gian khá lâu, tôi mới biết là anh phải đi làm để giúp gia đ́nh nuôi đàn em dại, nên anh đă hy sinh tương lai của anh để lo cho tương lai của các em. Khi lớn lên, đáp lời sông núi, cả 6 anh em đều đầu quân vào QLVNCH và đă thật sự góp xương máu ǵn giữ giang sơn tổ quốc. Người em kế của anh Kinh đi Hải Quân, bị địch pháo kích, đă đền nợ nước. Người em kế tiếp đi Thiếu Sinh Quân, sau trở thành sĩ quan Pháo Binh. Hai em kế nữa đi TQLC, th́ một đền nợ nước tại chiến trường Kontum, một trở thành thương phế binh. Người em Út đi Biệt Động Quân cũng trở thành thương phế binh. Riêng anh Kinh th́ trở thành người tù 20 năm khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt. Tổng cộng trong 6 anh em của anh Kinh th́ 2 người đă dâng mạng sống của ḿnh cho tổ quốc, hai người đă hy sinh một phần thân thể cho quê hương, dân tộc, một người chôn vùi tuổi thanh xuân suốt 20 năm khổ sai trong lao tù Cộng Sản.
Anh Kinh rất to lớn so với khổ trung b́nh của người Việt Nam. Thật ra, anh cao lớn hơn tất cả các bạn cùng lớp, nhưng anh rất hiền và dễ thương như một thư sinh “khổng lồ”...
Khi vào học khóa 9 SQ/ Hải Quân năm 1959, tôi mới biết anh Kinh và người bạn thân khác, cùng lớp, Lâm Văn Hiếu và Nguyễn Văn Thành đă gia nhập quân chủng Hải Quân trước tôi, từ năm 1955. Hiếu chọn ngành Trọng Pháo, Thành, Giám Lộ, anh Kinh, Vận Chuyển. Hiếu và Thành đều đă đền nợ nước: Hiếu trong Nam, Thành, ngoài Bắc (Lực Lượng Hải Tuần). Sau 5 năm dệt mộng hải hồ, anh Kinh thấy chưa thỏa chí tang bồng, muốn t́m những cảm giác mạnh hơn, những công tác khó khăn hơn, và nguy hiểm hơn: Anh muốn đùa giỡn với tử thần, anh muốn trở thành Người Nhái.
Năm 1960, anh t́nh nguyện ghi tên đi học khóa Người Nhái và được gởi đi Đài Loan huấn luyện để trở thành một trong những Người Nhái đầu tiên của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Anh Kinh mà đi Người Nhái th́ đúng quá rồi, v́ anh có đủ yếu tố cần thiết để trở thành Người Nhái: Thông minh, khỏe mạnh, dẻo dai, chịu đựng, nhẫn nại, hiền nhưng can trường và cương quyết, có biệt tài bơi lội, lặn sâu và lặn xa...Và anh đă thành công. Anh đậu hạng nh́ (Lê Quán Thủ Khoa) trong khóa huấn luyện Người Nhái tại Đài Loan. Anh đă trở thành Người Nhái như ước mơ của anh.
Năm 1962, không ảnh của t́nh báo cho biết có 6 chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt, chia làm 2 toán, mỗi toán 3 chiến hạm thay phiên nhau hoạt động và nghĩ bến. Do đó thường xuyên có một toán gồm 3 chiến hạm đậu nghĩ bến tại quân cảng Quảng B́nh, bên trong Ba Đồn, sông Gianh. Người Nhái được lệnh đặt chất nổ phá hủy 3 chiến hạm đậu nghĩ bến. Một chương tŕnh huấn luyện và thực tập đặc biệt về ḿn chống chiến hạm và kỹ thuật sử dụng được thực hiện tại Đà Nẵng. Việc tuyển chọn Người Nhái thích hợp cho chuyến công tác bí mật nầy đă được Sở Khai Thác Địa H́nh, trực thuộc Phủ Tổng Thống, thi hành hết sức kỷ lưỡng và gắt gao: Anh Nguyễn Văn Chuyên được chỉ định chỉ huy tổng quát, hướng dẫn 3 Người Nhái khác được tuyển chọn cho công tác đặc biệt này gồm có: Nguyễn Văn Tâm, Lê Văn Kinh và Nguyễn Hữu Thảo. Chương tŕnh huấn luyện và thực tập chỉ chấm dứt sau khi mỗi người trong toán đều thông suốt cách sử dụng loại khí giới hết sức lợi hại này. Tuy đi chung một toán, nhưng mỗi Người Nhái đều có riêng mục tiêu của ḿnh đă được chỉ định trước, cũng như v́ lư do an ninh cá nhân, mỗi người đều có trang bị riêng và chỉ Người Nhái đó chịu trách nhiệm việc sử dụng và điều chỉnh trang bị của ḿnh chứ không ai khác được kiểm soát hay đụng tới. Cũng giống như nhảy dù điều khiển, người nhảy phải tự xếp dù của ḿnh, chứ không để ai được đụng tới.
Tháng 5, năm 1962, toán Người Nhái sẵn sàng và lên đường, nhưng chiếc ghe chở toán Người Nhái đi công tác bị phát giác, lộ hành tung, phải trở về căn cứ. Độ một tháng sau, tháng 6, năm 1962, toán Người Nhái của Anh Chuyên được lệnh thi hành công tác trên. Lần này, không bị phát giác. Công tác được thi hành ban đêm. Chiếc ghe lớn chở toán Người Nhái đến cửa sông Gianh th́ dừng lại và cho ghe nhỏ hơn chở toán Người Nhái vào quân cảng Quảng B́nh, cách các chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt khoảng 100 thước th́ dừng lại. Cả 2 ghe lớn và nhỏ đều được ngụy trang giống như ghe đánh cá tại địa phương.
Ba chiến hạm Cộng Sản Bắc Việt đậu song song với nhau sát cầu tàu, ở Ba Đồn. Mục tiêu của anh Kinh là chiến hạm đậu bên trong sát cầu tàu, anh Thảo, chiến hạm thứ 2 (đậu giữa) và chiến hạm đậu bên ngoài là mục tiêu của anh Tâm. Anh Chuyên ở lại ghe nhỏ cùng với ba thủy thủ đoàn chờ đợi đón ba Người Nhái kia sau khi hoàn thành nhiệm vụ để đưa ra ghe lớn trở về căn cứ.
Sau khi nhận diện mục tiêu và kiểm soát lại lần chót trang bị của ḿnh, anh Kinh xuống nước trước, kế đến anh Thảo và cuối cùng là anh Tâm theo thứ tự mục tiêu xa gần, như vậy cả ba sẽ tới mục tiêu cùng một lúc. Cho tới giờ phút đó, mọi việc đều xảy ra như kế hoạch đă định sẵn. Kế hoạch dự trù kế tiếp là điều chỉnh thời nỗ 5 giờ sau ḿn mới nổ, để có đủ th́ giờ trở về căn cứ an toàn.
Anh Kinh hoàn tất công tác trước, rời khỏi mục tiêu khoảng 20 thước, trồi lên mặt nước để dùng hồng ngoại tuyến định hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ để rước toán của anh trở về ghe lớn sau khi hoàn thành công tác.
Th́nh ĺnh, một tiếng nổ long trời đẩy anh Kinh văng lên khỏi mặt nước, toàn thân tê dại, anh không c̣n biết ǵ nữa. Khi tỉnh dậy, anh mới biết ḿnh là tên tử tù của Cộng Sản Bắc Việt. Dựa theo cáo trạng và nghe lóm cán bộ nói chuyện với nhau trong lúc bị lao tù, anh Kinh cho biết như sau: V́ lư do kỹ thuật, sau khi được đặt vào mục tiêu như đă định, trái ḿn của anh Thảo nỗ liền tức khắc (thay v́ phải 5 giờ sau mới nỗ) anh Thảo chết banh xác tại chỗ, cả ba chiến hạm cùng nổ tung và ch́m theo xác anh Thảo. Sức nổ của 3 quả ḿn cùng nổ một lượt đẩy anh Kinh, ở cách đó khoảng 20 thước, văng lên khỏi mặt nước và làm anh bất tỉnh. Anh c̣n sống quả là phép lạ. Anh Tâm lội ra xa hơn về hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ nhưng sức nổ quá mạnh nên cũng bị bất tỉnh và cũng bị bắt. Riêng chiếc ghe nhỏ, chạy về ghe lớn và lập tức rời mục tiêu, nhưng v́ tốc độ chậm, bị chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt đuổi kịp, chúng ra lệnh đầu hàng, anh Chuyên không chịu hàng, hai bên bắn nhau, nhưng nhờ hỏa lực mạnh hơn nên cuối cùng chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc Việt làm chủ t́nh h́nh và đụng chiếc ghe lớn ch́m, chỉ một người thoát nạn nhờ núp dưới cánh buồm. Anh Chuyên và một thủy thủ đă đền nợ nước, tất cả thủy thủ đoàn c̣n lại đều bị bắt.
Ngày 30 tháng 6 năm 1962, anh Kinh bị kết án hai mươi năm khổ sai, anh Tâm bị kết án chung thân khổ sai. Thủy thủ đoàn bị kết án từ hai năm đến mười tám năm. Nhưng bản án là một tṛ hề, bởi v́ hai năm hay chung thân đều cùng chung số phận, phải ở tù từ mười bảy đến hai mươi hai năm khổ sai mới được phóng thích. Ngày 28 tháng 01 năm 1980, anh Tâm được phóng thích sau 17 năm rưỡi khổ sai. Anh Kinh được phóng thích ngày 30 tháng 6 năm 1982, đúng 20 năm khổ sai.
Anh Tâm hiện cư ngụ tại California, anh Kinh ở Florida.
Mặc dù 4 Người Nhái và thủy thủ đoàn thi hành công tác này đă đền nợ nước hay chôn vùi tuổi thanh xuân trong chốn lao tù khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt, nhưng họ không chết và không bị quên lăng, v́ họ sẽ sống măi trong ḷng của anh em Người Nhái thuộc Liên Đoàn Người Nhái Hải Quân Việt nam Cộng Ḥa và của đồng bào ruột thịt dành cho những đứa con thân yêu của dân tộc đă“VỊ QUỐC VONG THÂN”.
Đối với gia đ́nh anh Kinh, LĐNN xin giở nón cúi đầu bái phục một gia đ́nh ái quốc đă t́nh nguyện hy sinh, dâng hiến tất cả những đứa con trai của gia đ́nh cho Quân Đội để phục vụ cho Tổ Quốc, và làm tṛn nhiệm vụ của người trai trong thời loạn: “Chấp nhận hy sinh mạng sống hay một phần thân thể để bảo vệ từng tấc đất của quê hương xứ sở do tổ tiên để lại, trái ngược với bọn CS phản quốc nỡ ḷng cắt đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang.
California, ngày Quân Lực 19 tháng 6
Phan Tấn Hưng
Người Nhái HQVNCH
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Mấy năm gần đây, mỗi khi đến gần ngày Quốc Hận, tôi thường viết một truyện ngắn như ôn lại những chuyện thương đau của cái ngày oan nghiệt nầy. Lần nầy tôi lại chọn cái đề tài “Tôi phục vụ Phi Đoàn 225”. Phải nói là khó viết quá. Đây như là một bài viết như kể chuyện thôi mà, sao tôi bảo là khó ? Xin thưa khi viết về đề tài nầy bắt buộc phải nói đến nhiều đến cái tôi mà ai cũng biết “ Le Moi est haissable ” thôi th́ tôi cố gắng đừng để cái 'Tôi' của ḿnh bị ghét nhiều, có vậy mới là thành công được .
Tôi đến PĐ 225 vào tháng 10 năm 1970, sau khi tôi phục vụ một PĐ ở Cần Thơ hơn một năm với số giờ bay trên 1,300 giờ. Kể ra lúc đó tôi cũng có thớ lắm v́ PĐ 225 mới thành lập, chỉ có một số ít các anh đă từng bay cho PĐ nào đó trước khi về đây, c̣n phần lớn là các hoa tiêu mới, họ nhập ngũ vào năm 1968 và ra trường vào thời điểm nầy nên được bổ sung vào đây. Giai đoạn nầy phi đoàn đóng tại phi trường Sóc Trăng cũng là quê hương của tôi. Tôi được cấp một cái pḥng nhỏ gần pḥng hành quân PĐ để có chỗ ngủ khi trực bay đêm, hoặc tạm nghĩ ngơi trong khi chờ phi vụ.
Đêm đến, tôi về trú ngụ nhà mẹ tôi ngoài phố. So với các anh em khác tôi sướng hơn nhiều v́ có nước sạch để tắm gội mỗi ngày chứ không như ở trong căn cứ, nước bị phèn rồi c̣n khổ hơn nữa là khi có, lúc không. Cái chuyện nầy làm ai cũng thắc mắc không hiểu tại sao, căn cứ nầy trước đây do Mỹ đóng quân, ai cũng biết người Mỹ luôn đặt nặng lên hàng đầu cái vụ phải có nước sạch trong đơn vị của họ cho dù bất cứ nơi đâu, thế mà qua tay Việt Nam chỉ một vài tháng thôi, th́ t́nh trạng thiếu nước tồi tệ đến như vậy.
Theo chu kỳ th́ tôi bay 5 ngày và được nghĩ dưởng sức 3 ngày, vào ngày nghĩ nếu có tiền tôi dong về SG du hí xem phim như các anh em khác, c̣n khi cạn tiền th́ về nằm nhà bà cụ ăn bám, như vậy cũng xong. Nói vậy chớ, lúc ở Sóc Trăng tôi đở khổ nhiều lắm nghen, nhờ có mẹ và hai bà chị chu cấp thêm nên trông tôi mập mạp ra, bởi v́ sáng nào cũng được ăn sáng đàng hoàng, khi th́ cơm tấm b́, cơm cà ry khi th́ hủ tiếu, ḿ, phở hoặc điểm tâm kiểu chú Ba: bánh bao, xíu mại, há cảo v.v..trước khi xách nón đi bay. Chiều tối th́ được bạn bè tới kéo đi nhậu.
Tôi c̣n rất nhiều bạn cũ tại đây, hầu hết là bạn học thuở nhỏ, bây giờ phần lớn chúng nó làm việc tại Tiểu Khu, ty Cảnh Sát và ṭa Hành chánh tỉnh, rồi cộng thêm gần một chục ông bạn học gốc người Hoa nữa chi, họ là lính kiểng, lính ma ǵ là chuyện mấy ổng, được cái là mấy ổng có lắm địa nhiều tiền, nhậu với mấy ổng luôn là rượu dư thịt thừa, đă không chỗ chê. Nói vậy chớ tôi cũng biết kềm chế bản thân, như hôm nào sáng phải đi bay sớm th́ đêm trước đó tôi nhậu ít lại, khoảng 10 giờ đêm th́ rút lui về ngủ, chỉ khi nào ngày nghĩ mới dám xả láng, sáng về sớm.
Bây giờ xin kể sơ lượt về chuyện bay bổng lúc nầy nhé, thời gian nầy Sư đoàn IV/KQ có 4 phi đoàn trực thăng để yểm trợ cho Quân đoàn IV gồm: 16 Tiểu khu, 3 sư đoàn chủ lực và một Biệt khu tương đương với cấp sư đoàn, bộ Tư lệnh Biệt khu thường chỉ huy hay điều động các lực lượng Tổng trừ bị được biệt phái đến đây, khi là một Lữ đoàn TQLC, khi th́ một vài Liên đoàn BĐQ. Bốn phi đoàn trực thăng chia làm 2 team, nghĩa là 2 phi đoàn vào một team. Phi đoàn của tôi lại chung team với Đệ nhất PĐ 211, ở chung team với đại ca nầy th́ cũng đă thiệt, không biết đại ca có áp phe ǵ với Quân đoàn hay không, hay lấy lư do tiết kiệm xăng, khỏi phải bay tŕnh diện (T.O.T) nơi xa, thành thử đại ca luôn được yểm trợ phía bắc sông Hậu giang và vùng biên giới Miên-Việt do Biệt khu 44 đảm trách. Thằng em 225 phải yểm trợ phía nam sông Hậu nên ngày ngày : khi th́ tŕnh diện ở Vị Thanh, lúc th́ xuống Cà Mau Bạc Liêu vào ra U Minh Thượng, U Minh Hạ thấy toàn là rừng tràm, rừng đước hoặc rừng dừa nước, không có ǵ vui cả .
Có những địa danh mà người dân thị thành biết được qua tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Dương Hà, Sơn Nam như là : G̣ Quao, Chắc Băng, Cạnh Đền, Giồng Riềng, Miệt Thứ, Kinh Trèm Trẹm, Cán Gáo, Thái B́nh, Tân Bằng, Đầm Dơi, Cái Nước, Năm Căn, sông Gành Hào, sông Ông Đốc v.v…. chớ c̣n anh em chúng tôi th́ tới những nơi ấy hà rầm như ăn cơm bữa. Lại có những nơi thật vô cùng nguy hiểm, bay vô đó thật là hú vía, kinh hồn chẳng hạn như vùng ‘VC Lake’, nằm phía tả ngạn sông Ô.
Đốc, cách con sông lớn nầy chừng 2 miles và cách quận Sông Ô. Đốc ở hướng tây chừng khoảng 10 miles, cái hồ nầy khá lớn và đẹp giống như cái hồ Possum Kingdom ở Mineral Wells của tiểu bang Texas mà tất cả phi công trực thăng đều biết v́ là gần trường bay Fort Wolters. Sở dĩ tôi nói ‘nguy hiểm’ là v́ nơi đây Việt cộng nhiều vô số kể, chính cái tên ‘VC Lake’ là do phi công Mỹ đặt ra đấy, chớ anh em 225 âu yếm gọi tếu là ‘Hồ bao tử kh́a’.
Nếu bạn được dịp bay chiếc vơ trang, bạn có dịp bay rà sát ngọn cây vùng nầy, bạn sẽ thấy phía dưới không c̣n một khoảnh đất nào gọi là lành lặn cả, toàn là vũng rộng hố sâu bởi do bom, đạn đại pháo tạo nên và nếu tiếp tục bay nữa thỉnh thoảng bạn bắt gặp đủ loại thân xác trực thăng bị bắn rơi tại đây như loại : trứng vịt OH6, cụ ông H-34, UH1B, trái chuối H-21 với hai hệ thống rotors trên nóc giống như Chinook và có cả loại phi cơ cánh quạt Cessna, L19. Chiếc th́ sứt gọng, găy càng, chiếc th́ chỉ c̣n lại cái đuôi hay cái cánh, chiếc th́ bị cháy thành đống sắt vụn, chỉ thấy thôi th́ cũng đủ làm bạn đái són ra quần. Chúng tôi cũng cống hiến nơi đây một chiếc vơ trang nằm phía nam cái hồ nầy lối chừng ba dậm, tức là phía bắc của Chi khu Hải Yến độ chừng 5 dậm.
Nhưng rồi như một phép lạ, cuối cùng chúng tôi cũng được luân phiên yểm trợ phía bắc sông Bassac như các PĐ đàn anh, nguyên do là : ông anh 211 đụng phải mặt trận Kompong Trạch, đây là một trận chiến lớn, địch quân hằng cả một Sư đoàn bao vây 3 tiểu đoàn BĐQ (đây là BĐQ biên pḥng) và một thiết đoàn M113 của quân ta, v́ vậy Quân đoàn tăng cường thằng em 225 đến giúp ông anh 211 và sau đó họ thấy thằng em nầy làm cũng được việc quá đi chớ, cho nên kể từ đó 225 có mặt tất cả chiến trường từ nội địa đến ngoại biên giống y những PĐ kỳ cựu. Là hoa tiêu trực thăng (phải kể luôn cả phi hành đoàn nữa mới được, không thôi hai ông em ngồi phía sau cự nự là phiền lắm đó) th́ phải chấp nhận hằng bao cái bất trắc, hiểm nguy đang đón chờ, nội cái tội : tấm thân sồ sề, bay chậm và thấp th́ coi như là tấm bia tập bắn cho đối phương rồi.
Bạn tôi và tôi đă từng nếm trải đủ loại súng đạn của quân thù từ bích kích pháo 61, 82 hay hỏa tiễn cầm tay B40, 41 tại băi đáp, rồi loại súng nhỏ như AK 47, CKC, loại trung liên, đại liên rồi thượng liên RPD, pḥng không 12 ly 8 và loại hỏa tiễn tầm nhiệt địa đối không SA-7. Được sống được tới giờ nầy, chắc là nhờ cái phước đức quá lớn của ông bà, ông văi để lại.
Vào đầu năm 1973, PĐ được dời về Cần Thơ. Chiến trường vùng I và vùng II bắt đầu thật sôi động, các lực lượng Tổng trừ bị được lệnh rút ra khỏi vùng IV để tăng cường cho các vùng I và II. Dù vậy Quân đoàn IV vẫn giữ vững t́nh h́nh, có lẽ là nhờ các chiến sĩ Quân đoàn IV rất siêng năng hành quân tảo trừ, luôn bẻ găy những chiếc đũa lúc c̣n riêng rẽ của cộng quân trước cái ư đồ gom lại thành từng bó lớn của chúng và t́nh trạng yên tỉnh tốt đẹp của vùng IV vẫn tiếp tục kéo dài cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Vào đầu tháng 3 năm 1975, PĐ 225 c̣n tăng phái cho Sư đoàn VI/ KQ tại Pleiku có nghĩa là PĐ chúng tôi c̣n góp mặt chiến đấu cùng với Quân đoàn II chống lại giặc thù chung nữa đấy.
Chiến trường mỗi ngày thêm khốc liệt sau khi đồng minh rút đi. Tôi càng ở lâu trong quân ngũ tôi càng hư đốn. Tứ đổ tường : Tửu, sắc, tài, khí th́ tôi làm đổ mẹ hết 3 bức tường rồi, chỉ chừa lại cái bức tường thứ tư là nằm thủ cây Bazoka bắn khỉ hay hít cocaine th́ tôi chưa dám thử. Cái tôi mê nhất là Tửu v́ nó giúp tôi dễ ngủ, thêm can trường, dũng cảm để mỗi ngày phải bay ra mặt trận. Và rồi cũng chính cái tánh nết bê tha phóng túng khiến tôi mắc nợ như chúa chổm. Những hàng quán gần quanh khu cư xá độc thân đều cho tôi ăn nhậu “À la ghi”.
Để coi tôi nợ ai, nếu tính con đường từ pḥng hành quân cũ đến cuối khu cư xá SQ độc thân th́ : xe bánh ḿ thịt của bà phi đoàn phó, tôi nợ nơi đây năm bảy bao thuốc lá 555 mỗi tháng; kế đến là quán anh chị Hưng râu, tôi nợ hơi nhiều cũng bởi anh Hưng biết tôi từ lúc ở quân trường Nha Trang nên anh chị cho tôi ghi sổ ‘líp ba ga’, trong quán nầy c̣n có ‘gian hàng’ của chị Tần. Xin phép chị, đùa với chị một chút cho vui chớ chị Tần làm ǵ có được gian hàng, chẳng qua là một quang gánh được ông bà Hưng râu thương t́nh cho đặt trong một góc xó xỉnh, bên nầy gióng chị có cái nồi nhôm to đặt trên hỏa ḷ để hâm nóng sản phẩm của chị, bên kia gióng chị bày trí nào là tô, đũa, lọ tương ớt, hũ tiêu đen, chai nước mấm, thau rửa tô bát, khăn giẻ lau khô v.v…
Món ăn của chị được thay đổi luôn khi th́ cháo cá, cháo vịt khi th́ bánh canh, hủ tiếu v.v…Chị nấu không ngon lắm nhưng được cái là giá cả rẻ mạt, chỉ chừng 1/3 đến nửa giá tiền nếu so với các quán ăn dưới dốc cầu B́nh Thủy, chính v́ thế gánh hàng của chị luôn hết sạch vào lúc 10 giờ sáng mỗi ngày. Chị Tần có gương mặt chơn chất, thiệt thà của phụ nữ miệt vườn miền Tây, chị luôn nói cười hệt hạt với mọi người nên tạo cho người đối diện có cảm nhận là chị rất dễ mến, v́ vậy tên ‘chúa chổm’ nầy chưa dám ăn thiếu nơi gánh hàng của chị. Quán kế tiếp là ‘Sơn Sỏi Đá’, quán nầy bán giống y chang như quán anh chị Hưng, nghĩa là chủ yếu vẫn là cà phê, nước ngọt, sinh tố giải khát, trong quán cũng có nhạc xập x́nh từ chiếc máy ‘AKAI reel to reel’ và kèm theo vài món ăn sáng dễ làm như xôi mặn, bánh ḿ kẹp thịt hay bánh ḿ trứng chiên ‘ốp la’.
Họ c̣n giống nhau ở cái 'mode' tăng cường thêm một vài cô em họ hàng bên vợ, bưng nước dọn bàn bẹo h́nh bẹo dạng để thu hút khách hàng. Tôi ít khi lui tới quán ni, lư do là không có ǵ khác biệt so với quán anh Hưng, c̣n lư do chánh nữa là ḿnh đang ghi sổ bên quán anh ấy, lại chui vào quán nầy th́ coi sao đặng. Quán cuối cùng trên con đường nầy là quán ông bà Tr/u Phương, ối giời ơi cái quán nghèo ơi là nghèo, vỏn vẹn hai chiếc bàn cây nhỏ và tám chiếc ghế đẩu con. Ông bà nầy chỉ bán bia và nước ngọt thôi, đồ nhấm để nhậu bia có mỗi món tôm khô củ kiệu ngoài ra không c̣n thứ ǵ khác.
Tôi bày cho bà Phương là nên mua thêm vài loại cá khô như : khô cá đuối, mực, cá kèo, cá khoai v.v…rồi pha luôn một keo nước mắm tỏi ớt có điểm dưa chua như củ cải, củ sắn, cà rốt xắt que tăm và bán thêm rượu thuốc, rượu nếp than hoặc rượu đậu nành v.v… ít ra phải như vậy mới lôi kéo được nhiều người. Tôi hỏi đùa bà ấy “Có cho tôi ghi sổ không ?” Bà vui vẻ trả lời “Được chứ, nhớ khi lănh lương anh phải trả cho em trước à nghen”.
Đùa vậy thôi, chớ thấy cái khó khăn của ông bà nầy, ai nở ghi sổ. Các quán tôi vừa kể chỉ là quán để bạn ăn vặt hay uống nước giải khát thôi, c̣n muốn ăn cơm trưa th́ phải vào quán Đ/u Thông cũng ở gần đó. Đúng ra chúng tôi ăn cơm ở câu lạc bộ Cửu Long nhưng trở ngại là đi bộ quá xa, vậy th́ chui vào quán cơm phần của ông Thông coi như là thượng sách, đó là chưa kể anh ấy cho bạn ăn ghi thỏa mái, thật thích hợp với tôi. Các quán ăn sáng ăn trưa coi như tôi kể đă xong, bây giờ nói qua quán nhậu, tôi tâm đắc nhất là quán Song Mă của Tr/u Ba Lang ở ngoài cổng phi trường, nơi nầy khá khang trang, nhiều món ăn tương đối hấp dẫn dân nhậu, cũng v́ thế mà tôi nợ ở nơi nầy hơi nhiều đấy.
Mỗi cuối tháng sau khi thanh toán nợ ăn nhậu chịu, tiền lương của tôi c̣n lại chừng một phần ba, hoặc nhiều lắm là gần một nửa, vậy làm sao đủ sống cho hết tháng? Thôi th́ ḿnh tự an ủi : ‘Trời sanh voi th́ sanh cỏ mà’, không thấy trong Kinh Thánh, Chúa Kitô dạy sao : "Loài chim Sẻ nào có biết để dành để dụm được hạt thóc nào đâu, thế mà Đức Chúa Trời đâu có để chúng nó chết v́ đói". Vậy th́ ta hơi sức đâu mà lo cho hao gầy thân xác.
Phần tiếp theo cũng là đoạn cuối bài viết nầy chắc tôi phải nhắc vài chuyện vào những ngày cuối cùng tại Quân đoàn IV cũng như tại PĐ 225 . Vào tháng Tư (năm 75) t́nh h́nh chiến sự vô cùng ác liệt, phần thua thiệt đă nghiêng hẵn về phía VNCH. Hai Quân đoàn I và II tiêu tan và triệt thoái, lănh thổ Quân khu III phải thu hẹp lại, pḥng tuyến xa nhất (Xuân Lộc) chỉ cách Thủ Đô Sàig̣n chừng lối 60 dậm (100 kilometres), nơi đây Sư đoàn 18 và vài đơn vị Tổng trừ bị đang dũng cảm chiến đấu để ngăn chận cơn sóng bạo tàn của cộng quân đang vỗ ập về phía nam.
Dù vậy Quân khu IV vẫn c̣n kiểm soát được, nói chung tinh thần chiến đấu của binh sĩ nơi đây chưa suy sụp, tất cả quân nhân đều hớt tóc ngắn gọn theo lệnh của Tướng Nam, răm rắp thi hành mọi chỉ thị của thượng cấp giao phó, sẵn sàng trực diện với quân thù nhất là bằng mọi giá phải giữ an ninh cho bằng được quốc lộ 4 đó là con đường huyết mạch tiếp tế về thành đô. Nhưng than ôi, trung tuần tháng Tư th́ pḥng tuyến Long Khánh bị chọc thủng, cộng quân ráo riết tiến nhanh về Thủ đô nhưng gặp nhiều ổ kháng cự của quân ta làm chậm bước của chúng, phi trường Biên Ḥa bị chúng nă pháo dữ dội, tất cả phi cơ đều phải di tản.
Ngày 29 tháng 4 phi đội II của tôi lên ca chánh, chúng tôi thi hành phi vụ 'package nhẹ' : 1-2-2 (1 C&C, 2 slicks, 2 gunships) làm việc cho Tiểu khu Sóc Trăng, đến 5:30 pm chúng tôi được họ 'released'. Trên đường về chúng tôi nghe rơ mồn một trên tần số FM Emergency, ôi thật là ồn ào kinh động, họ gào hét inh ỏi y như là cảnh mổ heo hay nhóm chợ ở miền quê, kẻ nói tiếng Mỹ người nói tiếng Viêt, họ báo cáo bị emergency, kẻ hỏi : Đệ thất hạm đội HK hiện ở tọa độ nào ? Người hỏi : lấy heading mấy, nếu bay từ Phú Quốc qua Utapao ? Kẻ hỏi : liệu khi đáp ở Côn Sơn có chắc là có tàu rước ḿnh đi không ? v.v..và v.v…
Những âm thanh đối thoại nầy không khỏi làm hoang mang xôn xao thêm cái tâm tư của anh em chúng tôi, mà nỗi ưu tư nầy vốn có sẵn cách đây vài tuần khi mà lănh thổ VNCH chỉ c̣n lại một nửa. Liệu rồi đây có giải pháp nào cứu văn t́nh h́nh nầy được chăng ? Đất nước chúng ta sẽ ra sao ? C̣n tương lai của chính ḿnh nữa ? Lại c̣n thêm cái tin Hoa kỳ có kế hoạch di tản gia đ́nh của những người làm sở Mỹ và vợ con mấy ông tướng tá thuộc hàng sĩ quan cao cấp của Quân đội VNCH.
Vậy ta nghĩ sao về mấy cụ tướng tá nầy, họ có c̣n tinh thần chiến đấu nữa không ? Hay mấy cụ cũng đang tính đường “vọt” theo vợ con ? Chắc là chúng ta đă có câu trả lời cho câu hỏi nầy, bởi chính chúng ta đặt ra mà. Hàng ngày h́nh ảnh và tin tức được báo chí đăng tải ở trang đầu về những trại tỵ nạn dă chiến do Mỹ thiết lập để tiếp nhận người tỵ nạn như Utapao ở Thái Lan, Subic Bay ở Phi Luật Tân, trại Asan và trại lều vải Orote Point tại đảo Guam, Trại ở Wake Island v.v…Tất cả các tin tức trên đă tàn nhẫn kết hợp lại làm nản ḷng người vô vạn, và tạo ra muôn ngàn câu hỏi dồn dập bủa vây trong tâm trí mọi người. Rồi từ đó những lần đi bay chung một hợp đoàn, các anh đâm ra biếng nói ít cười, không c̣n chọc phá, kể chuyện tiếu lâm hay trêu cợt nhau trên radio như lúc trước nữa.
Bỗng tôi nghe giọng anh Th. trong hợp đoàn hỏi tôi qua làn sóng VHF nội bộ : “Anh định thế nào hả anh Q ?”. Đang mơ mơ, màng màng theo dơi diễn biến trên FM thế mà nghe câu hỏi nầy, tôi tỉnh lại ngay, không phải suy nghĩ tôi trả lời dứt khoát : “Tôi không tính ǵ cả, đơn vị ḿnh c̣n nguyên vẹn, tôi không hề có ư định đào ngũ đi trước, tôi không thể phản bội anh em”. Và rồi cả 5 chiếc về đáp phi trường B́nh Thủy lúc gần 6 giờ chiều, tất cả 20 anh em vào pḥng hành quân, 5 anh hoa tiêu phó làm bổn phận ghi báo cáo giờ bay vào quyển sổ Phi Vụ như thường lệ, sau đó các anh em chia tay về nghỉ.
Tôi gặp anh A. trong phi đội của tôi tại nơi đây, A. bảo tôi tối nay đến pḥng hắn, hắn có chuyện cần nói với tôi. Tôi uể oải phóng xe Honda về nhà ḿnh trong khu cư xá Hoàng Hoa III ở ngoài cổng phi trường. Bước xuống nhà sau tôi thấy nước mưa đầy cả hồ chứa th́ khoái lắm, đó là nhờ cơn mưa lớn vào tối hôm qua, thời gian nầy là bắt đầu mùa mưa ở miền Nam và kéo dài trong suốt 6 tháng liền, ngày nào trời cũng u ám chuyển mưa trông thật ủ dột, buồn thảm tưởng như thương xót khóc than cho số phận hẩm hiu của miền nam sắp rơi vào tay cộng sản chăng.
Tôi cởi áo bay ra, tắm một phát rồi mặc y phục ‘civil’ vào, cảm thấy ḿnh khỏe ra và rồi bao tử bắt đầu làm eo, thôi th́ cuốc bộ đến quán Song Mă kiếm cái ǵ ăn vậy, ḿnh đang có tiền mà (Hôm nay tôi gặp anh tôi tại ṭa Hành chánh ST, ảnh dúi vào túi tôi một ít tiền). Trên đường đi đến đó phải đi ngang nhà ông Tư Ch., Tôi định nếu thấy ổng ở trước nhà th́ rũ ổng nhậu với ḿnh vài chai bia cồ cho vui, nói vậy chớ khó gặp ổng lúc nầy v́ ổng mới rước bà từ SG xuống. Bây giờ đă no rồi, tôi lưỡng lự chưa biết làm ǵ đây, vào PĐ gặp ông A. chăng, tôi nghĩ chắc không cần thiết lắm đâu, tôi đoán là hắn muốn báo cho ḿnh biết nội dung của buỗi họp Tham mưu vào tối đêm qua mà ḿnh v́ bận nên phải nhờ hắn đi họp thay, nếu có vậy th́ ngày mai gặp hắn cũng được, dù sao sáng mai ḿnh cũng phải vào PĐ sớm v́ ngày nầy : phi đội tôi xuống ưu tiên II tăng cường nên rất có thể tôi có tên đi bay vào lúc sáng sớm.
Vậy th́ quyết định nằm ở nhà lấy quyển ‘Thiên Long Bát Bộ’ ra đọc tiếp. Dạo nầy tôi rất khoái đọc chuyện chưởng, đó là cách tránh cho đầu óc ḿnh không phải suy nghĩ nhiều về thời cuộc, dẫu biết rằng ḿnh chỉ là hạng tép riu, cấp thừa hành bé tí tẹo th́ có giải quyết được chuyện ǵ đâu nà, nhưng trước t́nh thế nầy th́ đố ai giữ cho đầu óc ḿnh được thanh thản vô tư ? Tôi không biết thiền, vậy th́ đọc tiểu thuyết kiếm hiệp, đó là cách ru tôi vào giấc ngủ dễ dàng thôi.
Sáng hôm nay tôi đă có mặt tại pḥng hành quân rất sớm, tôi thấy Th/ tá Đ. đă ở đó rồi, tôi đến chào ông th́ được ông cho biết : “Đêm rồi Vc pháo kích vào thành phố Cần Thơ, hai chiếc gunships của ḿnh phải bay suốt đêm. Vậy tôi muốn đích thân anh và anh cắt thêm một phi hành đoàn (PHĐ, crew) chiếc số hai nữa, lên thay thế hai PHĐ trên đó, để họ về nghỉ”. Lệnh lạc của ông Alpha như vậy th́ làm kẹt tôi quá, v́ nguyên tắc th́ phi đội nào lên ca chính th́ họ mới có quyền cắt bay. Như tôi đă nói ở trên là hôm nay phi đội của tôi đă xuống ưu tiên hai rồi, nhưng mà : Nhà binh, lệnh là phải thi hành, chuyện khiếu nại là sau.
Tôi nh́n lên bảng phi vụ : Crew của tôi và crew anh S. nằm ở cuối bảng trực bay, thế là tôi sẽ dùng hai crew nầy, c̣n chút thắc mắc là tôi không biết 2 ông cơ phi, 2 ông xạ thủ của 2 crew nầy có bay được gunship không, điều đó tôi phải check lại ông Ch/úy trưởng toán của họ và cũng nhờ ổng điều động họ phải có mặt pḥng hành quân trong 15 phút nữa, đồng thời tôi nhờ ông sĩ quan trực xuống cư xá thông báo đến 3 ông hoa tiêu có tên trong hai crew nầy lên đây gắp, rồi xe pick-up truck chở xuống cư xá văng lai Hồng Lạc.
Tôi phóng xe Honda đến đó trước để bàn giao. Tôi trông thấy tám ‘người hùng’ có vẻ cũng mệt mơi, tôi nói “Thôi các ông chuẩn bị đi về nghỉ, chúng tôi sắp lên đây thay thế các ông theo lệnh ông Alpha Đ.” Tám ông nầy c̣n muốn tiếp tục bay nữa nên họ bảo tôi :“ Các ông cứ 'ground alert' tại PĐ, khi nào mệt, tụi nầy sẽ gọi về, chừng đó các ông sẽ lên thay”. Tôi chào các ổng rồi về lại PĐ, chắc mọi người hiểu rồi đấy : thời gian nầy mà có con tàu trong tay th́ dễ dầu ǵ các ổng chịu nhả ra. Về tới pḥng hành quân tôi thấy bảy anh em sẵn sàng lên xe truck, tôi bảo họ “Thôi, không phải đi đâu hết, hai crew của bọn ḿnh tạm thời cứ trực 'ground alert' tại PĐ, khi nào mấy ông trên đó muốn về th́ ḿnh sẽ lên thay, bây giờ có thể giải tán”. Tôi cũng dặn ông SQ và HSQ trực hăy gọi chúng tôi lên thay thế, khi nào các ông trên đó muốn về.
Xong xuôi tôi đi qua văn pḥng của Th/tá Đ. báo cho ông biết chuyện giao ước giữa các crew của chúng tôi. Ông Đ. nói : “Như vậy cũng được, tôi c̣n một chuyện nữa là nhờ anh điểm danh anh em thật kỹ lúc 9:00 sáng nầy cho tôi”, rồi ông nói thêm : “Đây là lệnh của Sư đoàn, ai vắng mặt không lư do th́ bảo ban Văn thư báo cáo đào ngũ”. Tôi đáp : “ Thưa, vâng ” chào ông, rời khỏi nơi nầy. Lại là một chuyện khó cho tôi nữa đấy, v́ theo thông lệ : Điểm danh là nhiệm vụ của phi đội nào xuống ưu tiên III nghĩa là phi đội đang nghĩ xả hơi tại đơn vị hoặc sắp đi phép.
Mà thôi, Sếp bảo tôi làm, th́ tôi làm, nhà binh mà. Cũng xin nói thêm mấy tháng gần đây không hiểu sao Sếp có vẻ chiếu cố tôi hơi ‘kỹ lưỡng’ như : cách đây hơn một tháng, ông bảo tôi lấy xe truck qua PĐ 217 bên phi trường 31 mượn đỡ mấy trăm hộp thực phẩm khô (C ration) về phân phát cho anh em đi tăng phái miền Trung, rồi lần khác ông bảo tôi xuống khu tiếp liệu kư mượn 12 chiếc giường sắt có luôn nệm, đem đặt trong cái Shelter ngoài phi đạo để anh em có chỗ ngũ khi đến đây trực đêm (trực dời tàu qua phi trường 31, khi căn cứ nầy bị tấn công), cũng may cho tôi : mấy chiếc giường đó chưa bị ai chôm chọt, chớ nếu mất một cái thôi, tôi phải đền thấy m..., toàn là những chuyện không phải nhiệm vụ của tôi.
Bây giờ tôi phải trở lại pḥng hành quân, nhờ SQ và HSQ trực thông báo dùm anh em là có cuộc điểm danh bất thường và rất quan trọng vào lúc chín giờ, yêu cầu mọi người phải có mặt đầy đủ. Sau đó, tôi về pḥng nghĩ một chút, v́ sáng tới giờ cứ làm chuyện ǵ đâu không.
C̣n chừng năm ba phút là đúng 9 giờ, tôi trở lại pḥng hành quân với cái danh sách nhân viên 225 trong tay, gần như tất cả mọi người đều có mặt tại pḥng họp. Đúng 9 giờ hai ông Th/tá Đ. và Ch. bước vào, tôi đứng lên chào và hô to :"Tất cả..vào hàng .. phắc", mọi người trong pḥng họp đều đứng lên nghiêm trang chào đón hai ông ấy, sau đó lại hô : "Tất cả…ngồi”, anh em ngồi xuống, tôi bước tới bục, quay mặt xuống đưa tay lên chào tất cả mọi người.
Trước tiên tôi cho anh em biết tại sao có cuộc điểm danh đặc biệt nầy, tôi lập lại y chang những lời sếp Đ. nói với tôi lúc năy và sau đó là điểm danh. Xong phần điểm danh, tôi hỏi hai vị Th/tá nầy có cần nói ǵ với anh em không, Sếp Đ. đứng lên tiến về phía bục, tôi lại chào tất cả pḥng họp lần nữa, rồi đi xuống ghế ngồi. Hôm nay Th/tá Đ. nói năng thật nhỏ nhẹ, ông khuyên anh em : "Đừng có dại dột mà lặn vọt lúc nầy, chính người ngoài phố họ c̣n muốn vào trong đây mà không được, nơi nầy chúng ta có sẵn tàu bay trong tay, nếu có lệnh di tản th́ chúng ta sẽ cùng đi v.v…".
Đến đây phần điểm danh sáng nầy coi như đă xong, tôi làm thủ tục để tiễn hai ổng đi ra, sau đó pḥng họp giải tán, tôi trả lại cái bản danh sách cho ban văn thư. Vừa bước ra cửa tôi gặp anh H. ở mái hiên, anh và tôi tṛ chuyện cũng khá lâu, anh cho tôi biết : nếu có chuyện di tản th́ anh sẽ không đi đâu, anh chỉ muốn trở về quê của anh ở CĐ. Đứng lâu, tôi thấy hơi mỏi chân nên rũ anh vào quán Hưng Râu uống cà phê, H. từ chối v́ anh muốn qua khu cư xá 211 để thăm vài người bạn bên đó.
Bây giờ đă hơn 10 giờ sáng, tôi đi đến quán anh Hưng, tôi thấy các bạn Đ., L., Q., H.Indian, T.(Flight II) có mặt ở đây nên tôi tấp vô bàn của họ để ngồi tán gẫu giải khuây, gọi luôn cho ḿnh một cà phê filtre có đá có đường. Khoảng 10:30 sáng, anh Hưng chủ quán hớt hải mang tới bàn chúng tôi một cái radio cassette đang nói tin tức lỡ dở, Hưng nói: “Các ông nghe kỹ đi, Tổng Thống Minh Cồ đă tuyên bố đầu hàng rồi”, sáu đứa chúng tôi chưa nghe được ǵ v́ ông nói sắp xong rồi, tiếp nối là một bản hùng ca.
Kinh nghiệm xưa nay cho ta thấy trong những lần có biến loạn như đảo chánh, chỉnh lư ǵ đó, th́ đài phát thanh thường hay xen kẽ giữa những huấn thị, hiệu triệu của tướng lănh bằng một bản nhạc hùng ca. Vậy phải đợi xong bản nhạc nầy th́ chắc họ sẽ ‘playback’ hiệu triệu của ông Minh. Đúng vậy, giọng ông Minh thật là monotone, ông nói rất từ tốn chứ không giống như giọng của một vị tướng lănh, tôi chỉ nhớ đại khái ‘…kêu gọi QL/VNCH hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng miền Nam VN…từ trung ương đến địa phương trao lại cho chánh phủ cách mạng lâm thời miền Nam VN ’.
Thế là hết, nỗi uất hận đă hằn lên gương mặt mọi người, muốn khóc mà khóc không được. Tôi uể oải đứng lên định đến quầy trả tiền, anh Hưng chận lại, anh nói : “Coi như tôi đăi các bạn lần cuối”. Thật ra ổng rất muốn tất cả mọi người trong quán rời khỏi đây cho rồi, để c̣n thu xếp chuyện của ổng. Năm ông bạn của tôi trở lại cư xá, c̣n tôi th́ lên văn pḥng của hai ông Thiếu tá nầy xem hai ổng đă biết tin nầy chưa? Rồi tôi sẽ hỏi luôn các ổng : ‘Đă đến lúc chúng ta lấy tàu di tản được rồi chứ? Không lẽ các ông ngồi đây đợi họ tới bàn giao?’ Nhưng tôi không thấy ông nào ở đây cả, thôi th́ tôi trở lại cư xá với mấy bạn lúc năy. Chúng tôi đứng chụm nhum 4,5 người bàn thảo với nhau ngay phía ngoài pḥng ngủ của A. và Đ.
Chừng 10 phút sau th́ thấy Đại tá T.M.Th quá giang xe Honda của ai đến đây, nhập với bọn tôi. Hầu hết chúng tôi đều biết ông Đ/tá Th, ông hiền từ như cái tên của ông, ông đă từng giữ chức Chỉ huy trưởng căn cứ Sóc Trăng trong lúc PĐ 225 đồn trú tại đó. Ông cho chúng tôi biết : “Soleil của ḿnh (Tướng TL Sư đoàn IV/KQ) mới lên Cessna đi rồi, vậy các anh hăy tự lo liệu cho chính ḿnh.” Ông không thấy chúng tôi phản ứng ǵ, nản quá ông từ giă bọn tôi, đi bộ qua cư xá 211. Và rồi chừng 5 phút sau th́ có một chiếc tàu đang Hovering fly từ khu Parking về đến khu cư xá, tàu hover trên cao, canh ngay cái sân vuông ở giữa 4 dăy cư xá 225 rồi hạ thẳng xuống, th́ ra ông pilot đó là H.Indian, thảo nào tự năy giờ tôi không thấy mặt ổng. H. gài controls bằng 'Forced trim', rồi mở cửa bên phải phóng đi t́m vợ con. Tàu bắt đầu cḥng chành v́ H. không giảm ṿng quay của máy (Engine RPM), bọn tôi đứng cách tàu chừng 5, 6m thôi, tôi phóng tới mở cửa trái leo vào, chụp controls điều khiển, các bạn tôi cũng leo lên tàu luôn, L. ngồi vào ghế phải, tôi đợi khi nào H. đem được bầu đoàn thê tử của hắn lên phi cơ đàng hoàng th́ tôi take off, trong lúc đó lại có thêm 5, 3 ông nữa nhảy lên tàu.
Ngoài tôi và L., tổng cộng người lớn và trẻ con cũng khoảng 15, 16 người rồi, ngồi kín cả sàn tàu. Trước mặt tôi là cây trứng cá khá cao, tôi làm cái 'maneuver' : maximum take off, cũng may con tàu nầy rất mạnh nên lên khá dễ dàng nhưng vẫn khốn đốn với giây điện, cột anten TV của cư xá 211, phải luồn qua, lách lại mới ra được. Sau khi đạt được cao độ, tôi lấy heading 150 độ để bay ra Côn Sơn giống như tôi đă nghe lóm từ hôm qua. Rồi từ phía sau chuyền lên cho L. và tôi mỗi người có một chiếc helmet, L. mở tần số FM emergency, và VHF nội bộ của 225 để theo dơi, chúng tôi thấy là chúng tôi đă bay đúng hướng như những người đi trước chỉ dẫn.
Chúng tôi đáp tại phi trường Côn Sơn lúc 12:45 trưa, thấy nơi đó có 2 ṿi Fuel, chúng tôi ghé vào đổ đầy săng cái đă và theo sự chỉ dẫn của một vị Th/tá phi công trực thăng nào đó, chúng tôi đem đậu vào bên hông phi đạo, 'line up' với mười mấy chiếc đậu sẵn tại đây, sau đó chúng tôi tắt máy như những chiếc kia. Viên Th/tá gặp lúc năy lại đến tàu chúng tôi nói chuyện, ông cho biết : “Nơi đây rất an ninh, hiện tại chúng ta đang có một UH1 toàn những ông rất giỏi tiếng Mỹ đang bay orbit gần Đệ thất hạm đội để liên lạc với họ, xin họ cho chúng ta được đáp xuống Hàng không mẫu hạm. Họ trả lời, họ cần phải gọi về Washington trước mà bây giờ bên Mỹ là đêm, nên họ bảo ḿnh ráng chờ, họ tin là WA sẽ chấp nhận thỉnh cầu nầy. Chiếc UH1 đó vẫn c̣n tiếp tục bay gần họ để chờ tin, khi được tin tốt, chiếc UH1 sẽ về cho chúng ta biết ngay. Bây giờ chúng ta phải lập nhiều hợp đoàn V5 sẵn, cứ 5 chiếc vào một hợp đoàn để bay an toàn, tôi nghĩ chắc sẽ có rất nhiều trực thăng nữa bay ra đây sau khi nghe lệnh đầu hàng của ông Minh.”
Thật dúng vậy, sau đó cứ 10 hoặc 15 phút th́ có một hoặc vài trực thăng UH1 hay Chinook đáp xuống, tất cả họ đều ‘refuel’ rồi đem tàu đậu nối đuôi nhau. Tôi thấy có chiếc của ông Alpha Đ., của ông Đ., ông Nh., ông S., ông Th. v.v…Tôi mừng lắm khi thấy anh em ḿnh thoát được cũng nhiều, tôi tới thăm hỏi Sếp Đ., Sếp hỏi tôi “Có cách nào để PĐ cùng bay chung Formation với nhau không?”. Tôi trả lời : “Chắc là không rồi, nhưng Sếp đừng lo, tất cả đều đáp USS Midway ḿnh c̣n gặp nhau dài dài mà”. Tôi cảm thấy ḿnh quư mến Sếp Đ. hơn v́ cho đến lúc nầy ông vẫn nghĩ tới anh em 225.
Khoảng 16:00 giờ, chiếc UH1 đi liên lạc với Hạm đội 7 trở lại đổ thêm xăng và ra dấu cho mọi tàu quay máy và đổi frecency mới trên VHF để cho tất cả các tàu có thể liên lạc được với nhau. Hôm nay, chiếc liên lạc coi như là chiếc C&C sẽ hướng dẫn mọi người bay phi vụ cuối cùng trong đời ḿnh. Chiếc C&C cất cánh trước rồi lần lượt các chiếc khác thứ tự cất cánh theo, cứ 5 chiếc ráp một 'Formation V5' như 'briefing' trước đó; V5 sau cách V5 trước chừng 10 cánh quạt. Dường như có tất cả là 7 cái Formation V5 (khoảng 30 đến 40 chiếc UH1H), lấy heading 030 (đi lênVũng Tàu) cao độ khoảng 1500 bộ.
C̣n bên Chinook cũng có khoảng 3,4 chiếc, họ bay với formation riêng của họ ở phía sau. Bay độ chừng hơn 30 phút th́ nh́n xa xa thấy Hạm đội 7 của Hoa Kỳ, khi đến gần hơn, tàu C&C ra lệnh cái V5 thứ nhất (I) đổi qua độ h́nh Trail (hàng một) và khi nào thấy hàng không mẩu hạm bật đèn xanh th́ 5 chiếc nầy vào đáp, trong khi đó cái V5 thứ nh́ (II) sẽ lên làm lead, dẫn nguyên hợp đoàn lớn bay ṿng tṛn lớn chờ đèn xanh, khi thấy đèn xanh th́ V5 (II) cũng đổi đội h́nh Trail vào đáp, rồi cái V5 số ba (III) sẽ lên làm lead tiếp tục dẫn hợp đoàn bay ṿng chờ…cứ như vậy đến cái V5 cuối cùng. Sở dĩ chờ hơi lâu là v́ mỗi tàu vừa đáp xuống xong, đợi cho mọi người trong tàu bước ra hết, trưởng phi cơ phải tuân theo sự hướng dẫn của toán phi đạo trên mẫu hạm Hoa Kỳ : là phải dời tàu ḿnh ra sát mé b́a của chiếc mẫu hạm, sau đó tắt máy, hai phi công bước ra khỏi tàu, tức th́ nhóm phi đạo của Mỹ h́ hục đẩy con tàu đó xuống biển ngay.
Tôi vừa bước ra khỏi tàu th́ có một ông thủy thủ da đen cao lớn đến bên tôi, hắn tháo cái dây súng Rouleau P38 của tôi quăng xuống biển rồi bảo tôi qua bên kia đứng với mọi người. Sau đó họ hướng dẫn toán của tôi khoảng ba mươi người đi xuống dưới hầm chiếc mẫu hạm. Tại nơi đây, tôi thấy đă có trên trăm người rồi, họ đang ngồi trong những chiếc tàu nhỏ, loại tàu há mồm đổ bộ của TQLC, phía trước mũi được mở ra để mọi người ra vào. mỗi chiếc chứa khoảng 30 người. Toán của tôi cũng chiếm một tàu giống như vậy, sau đó họ mang cho chúng tôi mỗi người một ít bánh 'Cracker' và một cái ly bằng nhựa chứa chừng 8 oz Coca Cola lạnh.
Được dung nạp một số calories do những thứ nầy tôi thấy khỏe ra, bởi từ sáng đến giờ tôi có ăn cái ǵ đâu. Nội cái chuyện lo âu, hồi hộp đă làm ḿnh quên đói, chỉ thấy mệt trong người thôi. Bây giờ th́ đỡ rồi đó, hết lo cái vụ bị người “anh em” phía bên kia bắt bớ giam cầm, khảo tra trả thù ǵ nữa ... Như vậy ta phải cám ơn người Mỹ mới được, đă giúp ta thật đúng lúc, rồi tôi lại thắc mắc : Tại sao Hạm đội 7 lại vào quá gần bờ ? (giữa Vũng Tàu - Côn Sơn). Tại sao Đặc khu Côn Sơn chỉ là một quận nhỏ của Bà Rịa Vũng Tàu lại rất an ninh vào những ngày cuối, tù chánh trị vẫn bị nhốt kỹ, ngoài phi trường phi cơ lên xuống như b́nh thường ? C̣n cái nguồn nguyên liệu ở đây sao quá dồi dào, nội ngày hôm nay đă cung cấp đầy đủ hơn 40 trực thăng vừa UH1 vừa Chinook và không biết bao nhiêu tàu trong ngày trước đó nữa ? Phải chăng người Mỹ đă có kế hoạch thu hồi lại những phương tiện và chiến cụ của họ, họ thà đổ sông, đổ biển chứ không muốn tặng cho csVN. Tôi nghĩ như vậy, không biết có đúng không ? Tôi ngó quanh t́m kiếm bạn bè để đến nói chuyện hay thăm hỏi cho đầu óc ḿnh bớt căn thẳng.
Khoảng 9:15 đêm, một ông Hải quân Thượng sĩ Mỹ dùng cái Haul-Parleur loại cầm tay nói cho mọi người biết là chừng 15 phút nữa, họ sẽ tắt bớt hàng đèn lớn trên trần để mọi người nghĩ ngơi. Vậy mọi người hăy dừng đi thăm viếng ở tàu khác mà hăy trở lại tàu của ḿnh rồi ông nhờ một người Việt giỏi tiếng Anh thông dịch lại. Đúng 9:30 mọi đèn lớn trên trần đă tắt hết, chỉ c̣n vài đèn nhỏ trên vách cao đủ ánh sáng cho ai cần thiết phải đi nhà vệ sinh. Tàu khá chật chội khi phải chứa đến 30 người, mọi người đồng ư ngầm là nhường cho trẻ con, người lớn tuổi hoặc phụ nữ được ngủ nằm c̣n hạng trai trẻ như tôi phải dựa lưng vào thành tàu, co gối ngồi ngủ. ‘Giang sơn’ của tôi ở phía ngoài cùng (mặt trước của con tàu) v́ khi sắp toán dẫn xuống tàu th́ tôi là người đi sau chót.
Tôi tựa lưng và thành tàu, định chộp mắt ngủ một chút cho khỏe như mọi người nhưng không, không dễ dàng vậy đâu v́ với những kẻ đang mang tâm trạng th́ bóng đêm là điều kiện tốt để thẩm vấn viên lương tâm lấy khẩu cung can phạm, can phạm đó chính là ḿnh đây. Điều tra viên nầy muốn chính can phạm phải trực diện với lương tâm ḿnh. Tội lớn nhất là bỏ nước ra đi, xa ĺa người thân, giờ đây thân quyến của tôi giống như họ đang ở dương trần, c̣n tôi ở nơi âm phủ th́ chắc ǵ kiếp nầy có dịp thấy lại họ ? Nghĩ tới đó, nước mắt tôi tự dưng tuôn trào, tôi ước ǵ đừng có ai nơi đây để tôi được khóc rống như trẻ con, hầu vơi bớt phần nào khổ đau như người đời hay nói như vậy.
Tôi ngồi phía ngoài, bên phải tôi th́ không có ai nên tôi xoay người về phía đó, hai tay bó gối, đầu gục xuống đó để đừng ai nh́n thấy hai ḍng nước mắt của ḿnh cứ đầm đ́a tuôn rơi không ngớt, xen kẽ đó là những uất nghẹn sắp bật thành tiếng, tôi vội nuốt nước bọt nhiều lần mới ḱm hăm lại được. Tôi tự nguyền rủa ḿnh 'chả ra làm sao cả', đối với gia đ́nh : ḿnh là người tắc trách vô tâm, c̣n với Tổ quốc ḿnh là kẻ vong ân bội nghĩa. Một con người tệ bạc như thế đấy th́ tương lai ḿnh sẽ ra sao đây, thôi th́ hăy phó thác cho định mệnh.
“Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Thử xem cao tạo xoay dần tới đâu”. ND
Nhờ rơi được nhiều nước mắt nên tôi thấy có chút nguôi ngoai, nhưng không dễ lấy lại trạng thái b́nh thường được đâu mà lúc nầy tâm trạng tôi vẫn rối bời, cứ chuyện nọ lại xọ qua chuyện kia, bây giờ tôi lại nhớ đến đơn vị cũ : PĐ 225 mà tôi yêu quư như một người t́nh sắt son chung thủy v́ đă chung sống với nhau những 54 tháng rồi, đó là tôi phải tính bằng tháng để được hai con số, chứ tính năm th́ chỉ có một con số thôi, mà c̣n dưới con số 5 nữa. Thật là đau đớn cho tôi phải nói lời giă biệt cùng nàng cũng như giă biệt những con tàu gunship mà tôi coi như những đứa con trai kiêu hùng đă cùng tôi hữu xung, tả đột xông pha nơi trận mạc và những con tàu slick như những đứa con gái mũm mĩm trang đài, giàu ḷng nhân ái đă cùng tôi chuyển quân, tiếp tế, tản thương.
Chỉ trong một ngày mà tôi có đến hai lần đầu hàng. Đầu hàng lần đầu là thừa lệnh vị Tổng Tư Lệnh QĐ (nhiệm kỳ hai ngày) : hạ vũ khí đầu hàng, sau khi hạ vũ khí th́ tôi có thể ra đi được rồi chứ, bởi v́ khoảng tiếp theo là ‘bàn giao hay trao lại’ ǵ.. ǵ.. đó, th́ hoàn toàn không có tôi.. bởi tôi chỉ là quân nhân hạng bét th́ có cái đếch ǵ để ‘trao lại hay bàn giao’? Đầu hàng lần thứ hai là đầu hàng định mệnh, chỉ mong sao định mệnh an bày cho tôi số phận nào cũng được trong những ngày sắp tới.
nguyên quân 225.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tác giả là Bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Thời chiến tranh, ông là YSĩ Quân Y Nhảy Dù. Bài viết sau đây được tác giả viết cho Mùa Giáng Sinh năm 2012. Chuyện là thật, nhưng họ và tên các nhân vật không hoàn toàn đúng sự thật.
Kèm theo bài viết là h́nh ảnh trực thăng hành quân sưu tập từ internet.
Bất cứ một chiến tranh nào cũng có những hoạt động quân sự được che dấu bảo mật. Với những phi cơ màu đen không số không tên không cờ, Phi Đoàn 219 Thần Phong của Không Quân VNCH, trực thuộc Pḥng 7 Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, có nhiệm vụ thả người ra phía Bắc vĩ tuyến, đưa đón và yểm trợ những toán tiền thám Lôi Hổ, Biệt Kích đi sâu vào ḷng địch… Bài phóng tác dưới đây được dựa trên câu chuyên của Trần Khánh, một người con của Huế và là một “Thượng Sĩ Già” của Biệt Đoàn 83 gồm những chiếc trực thăng H34 của phi đoàn 219, với nét mặt vẫn mang đầy vẻ khí khái hiên ngang của một chàng trai thời chiến của ngày nào dù tóc nay đă nhuộm màu thời gian. Ước mong bài viết diễn tả được phần nào công việc hiểm nghèo các phi hành đoàn của Không Lực VNCH thi hành hàng ngày mà cá nhân tôi, một y sĩ QYND, đă chứng kiến qua những phi vụ đánh phá mục tiêu, yểm trợ, tiếp tế, tản thương…trong trận đánh năm 1974 ở Đồi 1062 tại vùng Thường Đức/ Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Từ xa về thăm bạn bè trong vùng Nam Cali nhân Mùa Giáng Sinh năm 1981, Khánh cố t́nh quên cái đau răng đă hành hạ anh từ mấy ngày qua. Qua một đêm mất ngủ v́ nhức răng quá độ dù tối hôm trước anh uống rượu khá nhiều với các bạn cùng phi đoàn, Khánh quyết định t́m đến văn pḥng nha sĩ cầu cứu.
V́ không quen biết ở vùng này, Khánh bước đại vào một văn pḥng nha khoa nằm ở góc đường, gần căn nhà người bạn mà ḿnh vừa tá túc. Trong khi đang đứng kể rơ bệnh t́nh với cô nhân viên để xin cho được gặp nha sĩ dù không có hẹn trước, Khánh thấy người nha sĩ bước vào pḥng và ra dấu cho người nhân viên chấp nhận, có lẽông ta nghe được câu chuyện v́ đứng sát cửa pḥng chờ khách.
Nằm chờ trên ghế khám không mấy lâu, Khánh thấy người Nha Sĩ vừa bước vào pḥng vừa đọc hồ sơ cá nhân của Khánh. Qua vài câu thăm hỏi về bệnh t́nh, ông hỏi Khánh có ở trong quân đội trước khi mất nước. Khánh trả lời có và cho biết ḿnh phục vụ trong Không Quân VN. Người Nha Sĩ ngần ngừ một thoáng rồi nói nhỏ “tôi có người em trai cũng ở trong Không Quân, nhưng nó chết rồi”. Rồi như muốn trút đi một tâm sự buồn, ông vội nói tiếp “Nó tên là Ḥa, Nguyễn Đại Ḥa, người rất hiền ḥa như tên của nó vậy đó. Nó là trung úy phi công trực thăng đóng ở Đà Nẳng, và chết trong một phi vụ vào tháng 2 năm 1971”.
Khánh thảng thốt bật thẳng dậy, hỏi ngay “có phải xác của Trung Úy Ḥa được đưa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương ở Huế bằng trực thăng không?” Người Nha Sĩ bước lui mấy bước và trả lời không ngập ngừng “Đúng rồi. Sao anh biết?”
Như một tia chớp, bao nhiêu h́nh ảnh trong phút chốc bỗng trở về trong đầu Khánh một cách mạch lạc dù câu chuyện đă xẩy ra cả mươi năm qua.
“Thưa Nha Sĩ, nếu đúng với tên người chết là Trung Úy Hoà, chính phi hành đoàn chúng tôi đưa xác anh ấy về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương!”
Người Nha Sĩ đứng yên lặng trong giây lát, như để tự trấn tĩnh lấy ḿnh, rồi bỗng vái lạy Khánh, vừa nói nhanh.
“Mấy lâu nay gia đ́nh chúng tôi muốn biết về cái chết của nó v́ nghe phong phanh phi đoàn nó nói là trực thăng của nó bị bắn rơi, chỉ riêng một ḿnh nó chết thôi và phi hành đoàn 3 người c̣n lại đều bị bắt làm tù binh”
Trong cùng lúc đó, Khánh cũng bật dậy, nhảy vội ra khỏi chiếc ghế khám, chạy đến bên cạnh người Nha Sĩ, làm hành động ngăn không cho ông ta vái nữa; và trong sự cảm thông, hai người xúc động ôm chặt lấy nhau trong im lặng. Rồi người Nha Sĩ mời Khánh bước qua pḥng làm việc. Bấy giờ Khánh mới lấy lại b́nh tĩnh và tuần tự kể từng chi tiết về chuyến rescue mission đặc biệt năm đó.
Trong Chiến Dịch Lam Sơn 719 đánh vào các căn cứ của CS Bắc Việt ở Hạ Lào vào tháng 2, 1971, Biệt Đoàn 83 của Khánh được biệt phái từ Phủ Bài ra Ái Tử. Sau khi thi hành thả những toán Lôi Hổ vào vùng đất địch, trực thăng H34 của Khánh đang trên đường trở về căn cứ Phủ Bài. Trước khi đến cây số 17 gần An Lỗ, liên lạc viễn tuyến trên tần số phi cơ cho biết có một chiếc trực thăng UH1H của phi đoàn bạn từ Đà Nẵng bị bắn rớt ở phía Tây Động Ông Đô. Phi hành đoàn của Khánh lập tức chuyển hướng, quay về hướng Tây, lần theo toạ độ t́m đến nơi chiếc trực thăng bị rơi.
.
Trời lúc đó đă về chiều dù chưa tới 5 giờ và càng vào trong núi càng nhiều sương mù. Từ trên cao, Khánh thấy xác chiếc trực thăng nằm nghiêng ở kế bên ḍng suối nhỏ. Sau khi đảo quanh một ṿng để quan sát t́nh h́nh chung quanh trực thăng bị rơi, chiếc H34 từ từ bay dừng một chỗ trên không và sử dụng hệ thống Hoist thả Khánh xuống ở cách xa trực thăng kia khoảng 80 thước.
Khi đến được mặt đất và tháo gỡ dây Hoist ra khỏi người, Khánh mới biết cỏ tranh xanh cao hơn đầu người anh và triền đồi rất dốc, khiến anh đă bị lăn từ trên triền đồi xuống đến dưới ḷng suối.
Vừa ê ẩm trong người, vừa hồi hộp, Khánh chạy lần theo men bờ suối và đến cạnh chiếc trực thăng ngộ nạn. Khánh nh́n ở bên ngoài và chung quanh trực thăng, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Nh́n vào pḥng lái, Khánh thấy thân thể một người nằm gục không nhúc nhích ở ghế phi công trưởng, đầu nghẹo sang một bên và kính phía trước bị bắn lủng một lỗ to tướng.
Khánh lách người qua cửa hông bên trái, lần đến gần người nằm bất tỉnh ở ghế trước bên phải. Bấy giờ Khánh mới nghe hơi thở ph́ pḥ của người phi công bị thương cùng một lúc nhận thấy khuôn mặt anh bên phải là một khối bầy nhầy đầy cả máu.
Sau khi cố gắng lôi được hai bàn chân của người bị thương c̣n bị kẹt ở pedales phía dưới thân máy bay, Khánh bắt đầu ôm lấy thân h́nh anh ta, từ từ kéo ra khỏi xác máy bay. Khánh nghe được một tiếng thở mạnh từ người phi công vừa trút hơi thở cuối cùng trong tay ḿnh.
Trong khi vác xác đồng đội trên vai chạy dần về nơi an toàn, máu người chết tiếp tục chảy xuống ướt cả áo bên trong của Khánh, cộng thêm với mồ hôi của ḿnh khiến Khánh choáng váng và mệt đến lả cả người. Sau hai lần phải dừng lại nghỉ mệt, Khánh đă đến được điểm hẹn, bấm đèn pin lên hướng trực thăng của ḿnh làm dấu thả dây Hoist xuống cho Khánh móc xác người chết lên trước, rồi đến ḿnh lên sau.
Chiếc H34 bay quành một ṿng nhỏ như để chào vĩnh biệt lần cuối người bạn mới hy sinh, rồi lấy hướng về phía Đông Nam. Ít phút sau, Khánh lấy lại b́nh tĩnh, nh́n đọc bảng tên H̉A trên áo bay của người phi công xấu số.
Phi hành đoàn H34 báo cáo sự việc và nhận chỉ thị đưa xác Trung Uư Phi Công Ḥa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Khánh vẫn c̣n run sợ, thầm nghĩ anh có may mắn không bị VC phục kích và chiếc trực thăng H34 đang bay chờ anh trên trời cũng không bị nhắm bắn trong khi thi hành nhiệm vụ một cách đơn độc vào giờ chót trong một thời tiết rất xấu.
Dù đau buồn v́ 3 người phi hành đoàn c̣n lại đă bị bắt làm tù binh trước khi trực thăng của anh đến vùng, và phi công trưởng tử thương, nhưng Khánh và phi hành đoàn H34 của anh có niềm hănh diện riêng v́ ước nguyện của các chiến hữu Không Quân đă thêm một lần được thực hiện qua châm ngôn “Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn bè”
Cả tuần sau, Khánh vẫn bồn chồn đứng ngồi không yên, người cứ mệt mỏi bần thần.Bộ đồ bay màu đen của anh vẫn c̣n thoảng mùi máu của đồng đội dù đă được giặt đi giặt lại khá nhiều lần. Cái chết của người Trung Úy Phi Công Ḥa với gương mặt bị bắn nát một nữa bên của anh,cùng với h́nh ảnh của bao người lính Lôi Hổ, Biệt Kích mà Biệt Đoàn 83 của anh đă từng đưa đi, đón về phía sau lưng địch, có khi đầy đủ có khi thiếu một vài người, đă để lại những vết thương âm ỷ khó quên trong tâm hồn của con người vốn coi nhẹ tính mạng nơi anh.
Nghe xong câu chuyện và với nước mắt lưng tṛng, người Nha Sĩ lên tiếng:
“Chắc vong linh em tôi xui khiến và dẫn đường cho anh đến văn pḥng gặp tôi sáng nay. Câu chuyện anh kể hôm nay về cái chết của Ḥa là một món quà vô giá trong mùa Giáng Sinh năm nay cho gia đ́nh Cha Mẹ và anh em chúng tôi. Nguyện ước biết rơ về cái chết đau thương của Ḥa trong ṿng tay của một đồng đội sẽ mang đến một kết thúc nhẹ nhàng cho gia đ́nh chúng tôi. Thay mặt cho toàn gia đ́nh, tôi xin được nói lời cảm tạ với ân nhân đă đem xác em tôi về…”.
Trong mùa Giáng Sinh năm 1981, sau khi rời văn pḥng nha sĩ, Khánh cảm thấy nhẹ hẳn người, như vừa trút bỏ được một gánh nặng đă cất giữ trong ḷng từ lâu. Và anh bỗng thấy tâm hồn ḿnh thư thái, nhẹ nhàng như muốn vụt lên với trời cao trong xanh.
Vĩnh Chánh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Biệt Cách Dù
Vâng ! Chúng tôi thuộc Biệt đội 817 của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, một biệt đội tân lập để nhằm đáp ứng nhu cầu chiến trường thật sôi động vào những ngày cuối tháng tư đen.
NHẬN ĐƠN VỊ
Sau lễ ra trường vội vă tại căn cứ Long Thành, tôi và một số anh em khoá 28/29VBĐL, những người trai trẻ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm, đă chọn bộ đồ dù với chiếc nón xanh ngạo nghễ làm chiến y. Nếu ai hỏi tôi: Cái ǵ làm mày chọn binh chủng oai hùng đó, tôi sẽ trả lời bằng hai câu thơ cảm khái của một nữ sinh ở chiến trường đẫm máu An Lộc:
An Lộc địa, sử lưu chiến tích,
Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân.
Tuổi trẻ là vậy đó: thèm khát chiến trường, sau gần bốn năm trui rèn gian khổ mong được thử lửa, thêm với bầu máu nóng của tuổi trẻ muốn bảo quốc an dân, chúng tôi đă xông pha vào trận chiến vói hành trang thật đầy đủ từ tinh thần, thể lực lẫn trí tuệ của một sĩ quan đa hiệu, và c̣n nữa: trên vai chúng tôi c̣n cả một truyền thống oai hùng của các bậc đàn anh. Ôi ! Kể sao cho hết ḷng tự tin, hăng say náo nức của ngày đầu tiên tôi được khoác lên ḿnh bộ quân phục khét tiếng chiến trường ấy.
Tôi và Xuân, một tay có dáng người cao,đen,đẹp trai của khóa 29, sau khi cùng anh em tŕnh diện Trung tá Thông ở bộ Tư Lệnh Tiền Phương 2 Suối Máu, được phân phối ngay về Biệt Đội 817 đo Đại úy L. chỉ huy, không một ngày giờ phép.
Tôi xin nói sơ qua về cách phối trí đơn vị và danh xưng trong liên đoàn một cách tóm lược v́ sự hiểu biết hạn hẹp và cũng để bảo mật cho một đơn vị đặc biệt nàỵ Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn là Đại tá Huấn, Hậu cứ của Liên đoàn đóng ở An Sương,Hóc Môn, có hai Bộ Tư Lệnh Tiền Phương đặc nhiệm cho từng vùng hoạt động. Dưới quyền cuả Bộ Tư Lệnh Tiền Phương là những Biệt Độị . Biệt Đội có quân số của một đại đội, lúc nào cũng được bổ sung thật đầy đủ, và được chia ra làm 03 Trung Đội Xung Kích, một Trung Đội Thám Kích và một Trung Đội Súng Nặng. sau đó được chia thành Toán và Tổ. Khi hành quân, các trung đội xung kích thường đánh trực diện và trung đội thám kích được phân phối thành 06 toán để nhảy thăm ḍ, đột kích, t́m diệt, thu thập tin tức, hay hoa nở trong ḷng địch. Biệt Đội được yểm trợ đặc biệt như một Tiểu Đoàn khi hành quân.
Đại Úy L. là một người chỉ huy dày dạn và b́nh tĩnh. Sau khi chúng tôi chào tŕnh diện, ông chỉ nói vỏn vẹn “Chào hai anh” rồi lặng yên nh́n hai đứa tôi như ḍ xét khả năng, nhưng chúng tôi như một cặp gà ṇi ế độ, đứng lặng yên chờ nhận nhiệm vụ, không chút bồn chồn, dù trong ḷng có chút băn khoăn.
Sau khi yên lặng soi vảy và xem gị cẳng, Đại Úy L. từ từ nói: “Biệt Đội cần một Trung Đội Trưởng súng nặng và một Trưởng toán Thám Kích, hai anh chọn cái nào”. Xuân K.29 e dè nh́n qua tôi, bắt gặp cái nh́n của Xuân tôi hiểu rằng “em muốn nhường anh”. Tôi không ngần ngại, bước lên một bước, đưa tay lên chào và dơng dạc nói: “Tôi nhận Trưởng toán Thám Kích”. Quả thật cái ǵ đă in sâu trong tôi: Truyền Thống -T́nh Anh Em ? Em nhường Anh và Anh gánh vác hiểm nguy cho Em…và cùng lúc đó trong đầu tôi thoáng qua h́nh ảnh người tôi yêu với đôi mắt đợi chờ sâu thẳm.
Sau thủ tục giấy tờ và giới thiệu sơ qua về đơn vị đo một Sĩ quan khác đảm nhiệm, hai đứa tôi được đi ăn bữa tối đầu tiên của đời lính thật sự trong căn lều lớn có những lớp bao cát dày che chở chung quanh.
Trên đường đi, Xuân lo ngại hỏi tôi: Làm sao Niên trưởng, tôi quên hết rồi, Niên trưởng chỉ tôi với..Tôi trấn an Xuân: “Ông đừng lo, chỉ cần ông định điểm đứng và chấm tọa độ cho chính xác là đủ, tụi nó sẽ làm hết cho ông.” Xuân vẫn c̣n lo ngại nói tiếp: “Tối nay tôi qua hỏi thêm Niên trưởng vài chuyện”. Tôi gật đầu và sụyt khẽ với Xuân khi có vài người lính đi lại gần.
Trong đầu tôi lúc đó cũng mang nặng nỗi lo không kém : Làm sao để thu phục được những người lính gan ĺ đă từng vào sinh ra tử này.
Buổi tối hẹn với Xuân không bao giờ đến, v́ sau bữa cơm chiều, chúng tôi đă nhận được lệnh hành quân cấp tốc vào sáng sớm ngày mai.
VÀO VÙNG TRÁCH NHIỆM.
Biệt đội chúng tôi được chuyển vận về sân vận động quận Nhất ở bên hông bộ Tổng Tham Mưu đúng vào ngày 23 tháng Tư của năm định mệnh 1975.
Trên đường về Sài g̣n, ngang qua đại lộ Phan Thanh Giản, chúng tôi đă nh́n thấy những căn cứ pḥng thủ được vội vàng thiết lập đọc hai bên đường, nhưng Sài G̣n vẫn c̣n ngơ ngác, chưa sẵn sàng cho một cuộc pḥng thủ qui mô rộng lớn trong chiến tranh. Dân chúng hốt hoảng, sợ VC, ủng hộ quân đội Quốc gia, nhưng họ vẫn xem cuộc chiến chống lại VC là của Quân Đội VNCH, người dân chỉ đóng vai tṛ như một cổ động viên trong một trận tranh tài thể thao không hơn không kém. Những căn cứ pḥng thủ được thiết lập lẻ loi trơ trọi, không kết hợp được với địa h́nh bao quát chung quanh, chưa thiết lập được sự liên kết chặt chẽ cần thiết giữa dân và quân cũng như giữa những đơn vị chính qui và địa phương cho một pḥng tuyến liên hợp cần thiết khi chiến tranh đă đi vào thành phố.
Nh́n những lô cốt bằng bao cát nằm lẻ loi trơ trọi hai bên xa lộ, quan sát những ṭa nhà cao ốc chung quanh không một sự pḥng thủ thích nghi, tôi lo ngại cho sự an toàn bền vững của nhưng chốt pḥng thủ nàỵ Chúng là miếng mồi béo bở của một trái B40 hay cối 61 của một toán đặc công vô danh nào đó len lỏi vào các ṭa cao ốc trước khi tank hay lưc lượng chính qui tiến chiếm trận địa.
Suy nghĩ bâng quơ một lúc, th́ đoàn xe đă đến ngă tư Công Lư và quẹo phải để chạy về hướng Bộ Tổng Tham Mưu. Đến đây, chúng tôi phải chạy chậm lại v́ dân hai bên đường di chuyển hỗn loạn khác thường, một số đă nhận ra chúng tôi và bắt đầu hô lên “Biệt Cách Dù về! Biệt Cách Dù Về!” và làn sóng âm thanh ấy từ từ rộ lên nhịp nhàng lấn át cả mọi tiếng động ồn ào trong thành phố và rồi toả rộng ngân vang: Biệt Cách Dù về ! Biệt Cách Dù về ! Biệt Cách Dù về! hoà với tiếng vỗ tay cách nhịp của các em thiếu niên, và trên khuôn mặt hốt hoảng của những người dân đă dấy lên ánh mắt loé sáng của niềm tin. Vâng! chúng tôi, những người lính của chiến trường đẫm máu, đă về thành phố. Bất giác, tay tôi nắm chặt lại, nh́n gương mặt của những người lính vốn đă gan ĺ nay lại rạng ngời lên ánh mắt cương quyết. Trong ḷng chúng tôi như cùng thầm nguyện lời hứa Kinh Kha.
Chúng tôi đổ quân xuống sân vận động quận Nhất, Sau khi bố trí canh gác pḥng thủ, các sỉ quan trong biệt đội được lệnh họp và chúng tôi được tiếp xúc với một vị Trung Tá từ Bộ Tổng tham Mưu phái đến. Sau khi sơ lược ngắn gọn t́nh h́nh và nhiệm vụ, ông ta dỏng dạc nói: “Các anh là đơn vị cuối cùng được cấp trên tin tưởng đưa về đây pḥng thủ BTTM.và chúng tôi tin rằng đơn vị các anh không phụ ḷng tin đó.” Sau lời phát biểu ngắn gọn hàm chứa ư nghĩa ủy thác, ông ta lên vội xe jeep về lại TTM, chúng tôi về đơn vị ḿnh và tôi băt đầu làm quen với những người lính chai lỳ có gương mặt lạnh lùng u uất, những nét chỉ có trên những người đă từng về từ cơi chết. Quả thật họ là những người đáng gờm, những người lính lạnh lùng ít nói này sẽ gầm lên như hổ dữ khi chạm trán địch quân..
Chiều hôm đó, chúng tôi được cấp phát mỗi người một bộ quân phục của cán binh VC và được huấn luyện sơ qua về các hoạt động trà trộn trong ḷng địch cùng cách xưng hô địch quân thường gọi nhau trong đơn vi.. Măi sau này, tôi mới biết cấp trên đă dự trù một kế hoạch rút vào rừng và tiếp tục chiến đấu nếu Sài g̣n thất thủ. Sau đó, sĩ quan và các trưởng toán dược phát một bản đồ quân sự của Sài g̣n.
Chúng tôi đóng quân hai ngày đêm trong sân vận động để dưỡng quân, huấn luyện và cũng để các binh lính và sỉ quan làm quen với đơn vị mới.Sáng ngày 26/04/75, theo từng vùng trách nhiệm đă phân định sẵn, chúng tôi âm thầm rải quân trấn ngự các dịa điểm trọng yếu.Toán Thám Kích do tôi chỉ huy trấn đóng nhà thương Cơ Đốc lúc bấy giờ c̣n đang xây cất dở dang và một dăy cao ốc đối diện.
Đă được chỉ thị từ trước, tôi cho anh Trung sĩ toán phó chọn hai người lính có kinh nghiệm xử dụng M72, thiết lập hai tổ chống tank di động trải dài dọc theo bờ rào bằng gạch táp- lô (concrete block) nằm cạnh lề đường.Một tổ khác nằm trên cao ốc đối diện. Tôi theo tổ thứ tư đóng ở nhà thương Cơ Đốc. …
Phối trí đơn vị xong th́ trời cũng đă đứng bóng, trong ḷng tôi đầy ắp những lo âu và căng thẳng tột cùng: giặc vào Đô Thành dân chúng sẽ ra sao.Đánh giặc trong thành phố thật là điều mới mẻ trong kiến thức quân sự nhỏ bé của tôị Từ cao ốc nh́n xuống nhũng dăy phố chung quanh, tôi tưởng như những dăy đồi trùng điệp với nhũng địa dạo bí hiểm bên trong. Trong đầu tôi loé lên kế hoạch xử dụng những toán trẻ đưa tin như Huân tước Baden Powell (ông tổ của Phong trào Hướng đạo) để chống lại sự xâm nhập bằng đặc công của đich. Tôi lịm người thiếp đi trên vai người hạ sĩ mang máy PRC25 với giấc mơ tuổi thơ của những tṛ chơi lớn. Những đêm mất ngủ lo âu đă kéo đôi mi tôi sụp xuống.
T̀NH QUÂN DÂN:
Tôi giật ḿnh tỉnh giấc v́ những tiếng rè rè cuả PRC 25 từ Tổ 1 gọi lại: K a đây Hắc báo ! nghe rơ trả lờị Tôi đáp : 5/5. “Có 02 con tôm đang ḅ lại nghe rơ trả lời ! 5/5 tôi đáp gọn nhưng trong ḷng hoang mang với danh từ mới mẻ nàỵ Cua là tank của địch, én hay chuồn chuồn là các loại phi cơ, c̣n tôm….tôi đảo mắt nh́n xuống mặt đường, hai chiếc xích lô đang đậu lại, trên mỗi xe là một giỏ cần xé đầy được phủ bao đệm, không biết cái ǵ bên trong. Tôi giật ḿnh thét lên “Đ.M. coi chừng!” rồi nhảy từ lầu một xuống một đụn cát bên dưới, người Hạ sĩ mang máy cũng nhảy theo. Toán phó H. đă nhanh chóng dẫn tổ ba người của anh tràn lên mặt đường, phối hợp với tổ trực đang gác trên đường để cô lập hiện trường, một mặt kềm chế những chiếc xích lô, một mặt chận đứng giao thông. Tôi đích thân gọi các toán trưởng khác cùng lên máy. Một người đàn bà ăn mặc b́nh dân từ sau giỏ cần xé của chiếc xích lô bước xuống với vẻ ngạc nhiên lẫn hốt hoảng: ” Tôi đem đồ ăn tới cho lính ḿnh mà”. Trung sĩ nhất H. quay nh́n tôi chờ lệnh.
Thấy hơi quê với đàn em, tôi làm như tay sành điệu, đưa bàn tay phải ra, chúm năm đầu ngón tay lại rồi dùng ngón chỉ của tay kia chạm vào chúm tay nọ rồi bung năm đầu ngón tay ra ( hiệu lệnh lục soát tôi mới học lóm được). H. hiểu ư, sai một lính dưới quyền trải tấm poncho mỏng bên lề đường, (đời lính ăn ngủ và hy sinh gói trọn trong tấm poncho).
Người đàn bà cùng hai phu xích lô lần lượt chất chả và bánh ḿ xuống poncho dưới sự quan sát cẩn thận của H. rồi tất tả cùng đạp đi như sợ người khác nhận diện, không kịp nhận một lời cảm ơn.Tôi giao cho H. xử lư mọi việc, không quên nhắc anh ta chia đều cho các toán khác và “cúng dường” ban chỉ huy Biệt đội.
Bữa cơm trưa thật ngon miệng, những lát chả thơm ngon lạ lùng sau một tuần lễ gạo sấy , cá hộp làm ấm cả ḷng người (ration C chỉ c̣n là huyền thoại). Nh́n khuôn mặt những người lính tươi lên, có lẽ họ cũng thấy ấm ḷng như tôi và tay súng của họ sẽ gh́ chặt thêm trong trận chiến.
Trời dần về chiều, những tin tức bất lợi dồn dập đưa tới, tiếng nổ xa gần của đại pháo không làm tôi quan tâm đến nữa.Những chiếc xe buưt chật cứng người được Mỹ cho đặc ân di tản chạy về hướng Tân Sơn Nhất báo trước sự chạy làng của cái gọi là “Đồng Minh”, chúng tôi chỉ chận lại xem xét giấy tờ và tịch thâu tất cả vũ khí trên xe để pḥng ngừa rối loạn có thể xảy ra.
Họ ra đi cho bản thân riêng, chúng tôi ở lại v́ nhiệm vụ chung của người lính cho đến giờ phút cuối, không mảy may than phiền thắc mắc.
Tối đến trong căng thẳng, sau bữa cơm chiều, tôi ra lệnh cho các tổ giữ vững cách phối trí nhưng thay đổ vị trí để ngừa đặc công. Tổ chỉ huy của tôi di chuyển qua bên kia đường đóng trên một cao ốc. Khuya hôm đó, H. Toán phó, chuyền tay đến tôi một chai Johny Walker với hàng chữ thật dễ thương ghi bên ngoài: “tặng các anh”. Chúng tôi chuyền tay nhau hết chai, đỏ mắt lên chờ sáng.
NGAO DU SÀI G̉N.
Hôm nay đă là ngày 29, 08 ngày mang chiếc lon Thiếu Úy mới toanh trên trên cổ áo với nhũng nhiệm vụ thật mới lạ và bất ngờ không có trong binh thư, tôi cũng đă quen dần với đời sống lính rừng trong thành phố.. Suốt gần 04 năm quân trường, có bao giờ tôi nghĩ đến t́nh huống ngộ nghĩnh như thế này: Đường đường một đơn vị lính trận mà phải chia nhau đứng gác đường như những anh chàng cảnh sát bạn dân không bằng. Thật rơ chán, ḷng lại nóng như lủa đốt v́ những tin tức bất lợi dồn dập đưa đến không ngừng qua các đài phát thanh. Đất nước tan hoang, gia đ́nh di tản không nơi ăn chốn ở.
Người yêu duy nhất của tôi lúc bấy giờ đă một lần đến thăm tôi nắm tay để nói lời từ biệt, Nàng muốn ra đi với một ông lớn nào đó trong Bộ Dân Vận Chiêu hồi, nơi Nàng đang làm việc.Ḷng tôi thật rối như tơ ṿ nhưng ngoài mặt vẫn lạnh như băng.
Tội nghiệp những người lính đang trông chờ tất cả vào tôi, họ nh́n thẳng vào mắt tôi mỗi khi có biến động dầu chỉ là tiếng nổ của đạn pháo xa xa.
Quả thật pḥng thủ không phải là sở trường của một đơn vị đầy tính chất linh động như thế này.Và chúng tôi bắt đầu cảm thấy ḿnh như những con vật nửa người nửa ngợm. Bộ đồ dù này chỉ đẹp trong những buổi sớm chiều trong rừng già trùng điệp, hay trên băi chiến trường khét mùi thuốc súng.
Ngày 29 trôi qua thật nhàm chán, thỉnh thoảng chỉ nghe vài tràng liên thanh nhỏ, không khí ngột ngạt, một sự yên lặng ngấm ngầm ghê rợn. Lệnh tử thủ vẫn được nhấn mạnh từ Bộ Tư lệnh tiền phương. Trong ánh mắt những người lính gan ĺ đă thoáng lên sự nhàm chán. Tôi chợt nghỉ ra một cách để giải khuây: Hai tiếng đồng hồ phép cho tất cả mọi người, một quyết định thật táo bạo trong t́nh huống bấy giờ, nhưng không biết tại sao tôi lại tin tưởng hoàn toàn ở những người lính chịu chơi nàỵ.
Tôi im lặng phối trí lại các tổ tam đầu chế, mỗi tổ có một người biết đường đi nước bước ở Sài G̣n. Đúng 08 giờ tối, tôi cho tổ đầu tiên âm thầm lên tŕnh diện.
Tôi ra lệnh ngắn gọn:
Tao cho tụi bay đi chơi, đúng hai tiếng, mổi đứa chỉ được mang theo một trái mini, súng đạn để hết lại đây, thằng tổ trưởng giữ cây P38 này của tao nghe. Đi về cho đúng giờ để thằng khác c̣n đi. Nhớ cẩn thận.
Đầu tiên là ngạc nhiên và sau đó là những nụ cười sáng rỡ, hồn lính thật ngây thơ. Một tiếng dạ ngắn rồi ba chàng Ngự Lâm biến mất trong màn đêm, tôi bắt đầu lo âu chờ đợi…Và họ đă trở về đầy đủ, đúng giờ với những nụ cười hồn nhiên pha một chút bẽn lẽn khi nghe tôi hỏi “Dzui không tụi bay”.
Khi các tổ đă về đầy đủ, tôi cũng tự cho phép tôi, mượn chiếc Honda, chạy vội về thăm gia đ́nh đang tạm trú ở nhà người quen gần đó sau khi di tản từ Qui Nhơn. Tôi chỉ kịp ôm hôn Mẹ tôi, trấn an Bà vài câu rồi vội vă ra đi, mang theo ánh mắt luyến lưu chịu đựng của một bà Mẹ VN tiễn con đi trong những giờ phút cuối.
ĐÔI CO TRÊN LỬA ĐỐT.
Khoảng 5 giờ rạng sáng ngày 30 tháng tư, toán thám kích chúng tôi như một chú sư tử ngái ngủ trong cũi sắt giữa một thanh phố bỏ hoang. Bỗng nhiên tiếng gầm của đại pháo và súng chống tank vang lên dữ dội từ hướng Lăng Cha Cả, cùng lúc tiếng rè rè của máy PRC25 vang lên, tôi vươn ḿnh chụp vội cần liên hợp không kịp chờ anh Hạ sỉ mang máy. Lệnh chuẩn bị hành quân từ Đ/U Biệt đội trưởng.
Qua đối thoại ngắn ngủi, tôi biết rằng biệt đội đang chận đứng một đoàn Tank của cọng quân không rơ bao nhiêu chiếc và đă nướng được 04 con. Chúng tôi được lệnh chuẩn bị thật nhẹ để nhảy chân chim, một lối nhảy trải mỏng từng tổ một và thay đổi vị trí liên tục để gây hoang mang trên đường tiến của địch quân. khu vực và phương tiện sẽ được chỉ định sau.
Tôi ra lệnh cho thuộc cấp chỉ mang theo những trang bị nhẹ nhàng nhất và chuẩn bị tinh thần cho những trận cận chiến và chống Tank. Vài người lính rút chiếc dao găm ra ngắm, liếc nhẹ vào ṇng súng vài cái, đút lại vào bao rồi vỗ mạnh, tôi biết họ đă sẵn sàng và thật điệu nghệ. Có người c̣n nhổ một băi nước bọt vào ṇng súng, có lẽ v́ một thói quen cố hữu.
Chúng tôi nóng ḷng đợi chờ lệnh hành quân như những con ngựa chiến bị gh́m cương, mắt trợn trừng lồng lộn, bạn bè cùng đơn vị chúng tôi đang sống chết với giặc ngoài kia, sao chúng tôi đành ôm vó đợi chờ vô tích sự, và tôi như một chàng trai tân đang chờ đợi cuộc hẹn đầu đời với con gái của Ma Vương.
Cái đợi chờ làm tôi bồn chồn nóng nảy lẫn lo âu như một chú cá đang bị nướng sống trên ḷ lửa nóng, mắt tôi đỏ gừ, hơi thở dồn dập, mặt tôi tê dại đi không c̣n cảm giác. Tôi cắn chặt hàm răng, cố thở thật sâu để nén đi cảm xúc của ḿnh rồi lừ mắt nh́n thẳng vào mặt của từng người lính. Bất giác, tôi chưởi thề lớn tiếng: ĐM. tao như đứng trên lửa… và cứ thế thời gian trôi qua như thử thách sự dẻo dai của những dây thần kinh đang căng thẳng đến cùng cực. Để đốt thời gian, trấn an tinh thần lính, tôi trải rộng tấm bản đồ, định hướng chính xác, rồi gọi các tổ trưởng đến phân tách và giải thích từng cứ điểm quan trọng trong vùng.
Tuy sẵn sàng nhưng chúng tôi vẫn duy tŕ nhiệm vụ của ḿnh trong vùng trách nhiệm, các tổ vẫn thay phiên nhau cho người đứng gác đường, chứng tỏ sự có mặt của ḿnh để duy tŕ trật tự. Đang trong t́nh thế căng thẳng đó, một sự kiện buồn cười nhưng cảm động xảy đến làm tôi nhớ măi.
Người đứng gác đường lúc bấy giờ là một anh Trung sĩ tổ trưởng với bộ quân phục đẹp nhất mà anh có được trong túi quân trang. Bỗng nhiên, có chiếc cyclo đậu xịch lại sát bên anh, mọi người đều giật ḿnh chưa kịp phản ứng th́ một cô gái trẻ ăn mặc diêm dúa nhảy ra, cô ta cười toe toét, ăn nói líu lo rồi rút ra một xấp tiền dúi vào tay anh chàng Trung sỉ trẻ, anh ta đẩy tay cô này ra, nh́n về hướng tôi có vẻ lo lắng v́ tôi rất nghiêm ngặt trong nhiệm vụ đứng gác này , sau một hồi đôi co, cô gái t́m cách dúi đại tiền vào túi quần trận của anh Trung sĩ rồi leo lên cyclo chạy đi mất.
Tôi ra lệnh cho người khác lên thay gác, kêu anh chàng này đến chấn chỉnh để làm gương. Anh Trung sỉ này chỉ biết găi đầu bứt tai rồi phân trần với giọng đặc sệt miền Nam:
“Hồi hôm, Trung úy cho tụi em đi chơi (lại lên lon), em quằm con nhỏ này, tiền bạc đàng hoàng, sáng nay ngang qua đây, nhận ra mặt em đứng gác, nó tội nghiệp, nằng nặc đ̣i trả tiền lại cho được.”
Tôi mĩm cười trong bụng, ra lệnh anh ta quay lưng lại, đá nhẹ một cái vào đít cảm thông. Anh ta xoay người chào tôi với nụ cười trên khoé mắt rồi vội vàng chạy đi thi hành tiếp nhiệm vụ canh gác đang được tạm thời thay thế.
NGƯỜI LÍNH MANG MÁỴ
Lúc bấy giờ đă hơn 10 giờ 30 phút trưa ngày 30, lệnh tử thủ vẫn được duy tŕ, lệnh hành quân tôi vẫn đang chờ đợi mặc dù trên đài phát thanh, Tướng Minh đă tuyên bố và kêu gọi đầu hàng. Chúng tôi, những người lính, chỉ biết tuân lệnh cấp chỉ huy trực tiếp của ḿnh. Tôi thấy được trong ánh mắt lính sự hoang mang, trong ḷng tôi cũng tự đặt câu hỏi không biết phải làm ǵ.
Tuy đă quá mệt mỏi với sự đợi chờ và lo âu kéo dài, nhưng tinh thần trách nhiệm trong tôi vẫn c̣n tỉnh thức: mạng sống của thuộc cấp và sự an toàn ổn định của người dân trong khu vực trách nhiệm lúc bấy giờ là mối quan tâm chính yếu của tôi.
Trên vai trái hai khẩu M72, trong túí áo 04 trái mini, vai phải là cây M16 với cấp số đạn đầy đủ trong túi quần, giắt khẩu P38 ngắn ṇng vào dây nịt dưới chiếc áo 4 túi, tôi cố gắng tạo cho ḿnh một dáng đi chững chạc b́nh tỉnh dẫn anh Hạ sĩ mang máy đi một ṿng thăm hỏi nói chuyện với từng người lính, tinh thần họ hơi xao động v́ không biết việc ǵ sẽ xảy ra, nhưng những người lính gan ĺ này vẫn quyết tâm sát cánh bên tôi cho đến giờ phút cuối, thật không hổ danh là những con cọp biết nhảy dù. Không biết tôi trấn an họ hay chính họ đă làm ḷng tôi ấm lại và vững vàng hơn.
Tôi biêt rằng một sơ sẩy của tôi trong lúc này có thể đưa đến cái chết thật oan uổng cho những người lính quả cảm trung thành ấỵ Chúng tôi như keo sơn sống chết có nhau, quan cũng như lính, sự hiểm nguy thật công bằng trong những đơn vị nhảy toán này. Đây đă là giờ thứ 25, tất cả đều im lặng vô tuyến, tôi rít một hơi thuốc dài cuối cùng rồi dùng ngón tay bóp nát đóm thuốc lúc nào không biết. Măi lo nghĩ đến sự an nguy của thuộc cấp, tôi quên hẵn đi thân phận của chính ḿnh.
Đang suy nghĩ vẫn vơ, bỗng nhiên, một chiếc Pờ-giô 404 màu trắng bóng loáng thắng rít cạnh lề đường, gần chỗ tôi đang đứng, một người đàn bà đứng tuổi, ăn mặc sang trọng xuống xe, chạy vội lại ôm chầm lấy người hạ sĩ mang máy, bù lu bù loa:
– Con ơi con! sao giờ này con c̣n ở đây con! về với má đi con.
Trong t́nh huống này, tôi không biết phải làm gi, có nên giữ anh ta ở lại đơn vị trong giờ phút thứ 25 này không?. Suy nghĩ thoáng nhanh trong đầu, tôi vội bước lui vài bước, quay đi hướng khác, để tùy anh ta định đoạt. Qua ánh nắng đỗ nghiêng, tôi thấy bóng anh ta quay lại phía tôi im lặng hồi lâu, rồi với giọng trầm buồn nhưng quả quyết:
– Má về đi, con ở lại với Thiếu uư à.
Tôi bất giác quay lại nh́n anh, nén vội ḍng lệ đang trào dâng lên mắt. T́nh đồng đội, tinh thần trách nhiệm hay khí phách của một người trai đă giữ anh ở lại với chúng tôi trong những giờ phút cuối cùng tuyệt vọng đó. Đơn giản quá một câu trả lời ngắn ngủi, nhưng nó hàm chứa tâm t́nh của một hào kiệt, và tâm t́nh đó không thiếu trong đơn vị dù mũ xanh này.
Người Mẹ không biết làm ǵ, quay lại phía tôi với ánh mắt nh́n cầu cứu, một lần nữa tôi lại phải ngoảnh mặt để tránh đi một t́nh huống ngỡ ngàng khó xử. Trong đầu tôi thoáng hiện lên h́nh ảnh luyến lưu chịu đựng của Mẹ tôi đêm hôm trước.
– Thôi, Mẹ về, con nhớ lời Mẹ dặn.
Bà chỉ nói được bao nhiêu, rồi ôm chầm lấy con thổn thức. Người lính mang máy đứng thẳng người, hai tay trong túi quần trận, đầu ngẫng cao, cắn chặt răng, quai hàm bạnh ra, trông anh vững vàng như một cổ thụ đang cố đè nén những cơn băo táp phong ba dữ dội trong ḷng.
Người Mẹ sau đó lau vội nước mắt, đi chậm chậm về hướng chiếc xe, tôi đưa mắt ra hiệu cho anh trung sỉ toán phó đang ở gần đó đến mở cửa đứng chờ. Bà lẳng lặng bước lên xe nổ máy, ngồi nh́n con một lúc rồi từ từ lái xe đi sau khi quay lại đón nhận cái gập ḿnh cúi đầu chào tôn kính của tôi.
Quả cảm thay người lính, bao la thay ḷng hy sinh của người Mẹ trong chiến tranh. Ḷng tôi chạnh lại dưới ánh nắng dă dượi của Sài g̣n trong ngày tàn cuộc.
ĐỊT MẸ NÓ, ĐẦU HÀNG RỒI
Ḷng bàng hoàng xúc động về ḷng trung thành của anh Hạ sĩ mang máy đối với đơn vị, tôi ngẩn ngơ đứng lặng người, nh́n bâng quơ lên bầu trời ám khói hanh vàng.
Lúc bấy giờ đă gần 11 giờ, dân chúng di chuyển tấp nập, thỉnh thoảng họ lén đưa ánh mắt ái ngại nh́n về phía chúng tôi. Họ đang nghĩ ǵ về chúng tôi?: những nhân chứng của chiến tranh, h́nh ảnh hào hùng đă trôi vào quá khứ, hay những h́nh nộm được trưng bày không đúng thời hợp lúc. Mặc cho những suy nghĩ thị phi, chúng tôi vẫn chu toàn nhiệm vụ của ḿnh trong vùng trách nhiệm: bảo vệ mạng sống của binh sĩ dưới quyền và sự an toàn ổn định của người dân cho đến khi có lệnh mới.
Một tràng M16 nổ ḍn tan kéo tôi ra khỏi những suy nghĩ vẩn vơ, tiếp theo là tiếng thét thất thanh phẫn nộ :”Địt mẹ nó! Đầu hàng rồi. Địt mẹ nó! đầu hàng rồi.Một toán lính Dù gồm một người có vẻ là cấp chỉ huy và 3 người lính xuất hiện ở ngă ba cuối phố, họ di chuyển về phía chúng tôi không được b́nh tĩnh. Thỉnh thoảng, người chỉ huy bắn một tràng M16 rồi lại thét lên: “Địt mẹ nó! Đầu hàng rồi.” Trên vai anh, một ḍng máu chảy dài xuống cánh tay c̣n nhỏ giọt, ba người lính với khuôn mặt đanh lại lạnh lùng im lặng đi theo bảo vệ.
Tôi ra dấu cho thuộc cấp giữ ổn định tại vị trí của ḿnh. Chúng tôi đă dùng áp lực tước vũ khí nhiều toán quân lẻ tẻ không tổ chức khi họ qua pḥng tuyến của chúng tôi để vào Sài g̣n nhằm tránh những hỗn loạn đáng tiếc trong thành phố. Nhưng đây là một trường hợp thật nguy hiểm và khó khăn.
Chúng tôi tôn trọng những người anh em lính Dù mũ đỏ này với những chiến công lừng lẫy. Nh́n t́nh đồng đội của họ trong hoàn cảnh tuyệt vọng hiện nay cũng đủ thấy tinh thần và hiệu quả chiến đấu của họ như thế nào khi lâm chiến. Làm sao đây để chận đứng những hành động nguy hiểm chết người có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cơn cuồng nộ phẫn uất ấy.
Một suy nghĩ táo bạo thoáng qua trong đầu, tôi lột chiếc nón sắt đưa cho một thuộc cấp, gác hai khẩu M72 bên vệ đường, rút trong túi áo ra chiếc nón xanh của binh chủng đội lên đầu, mang cây M16 trên vai, khoác tay ra dấu cho thuộc cấp cùng đứng lên, rồi với thái độ b́nh tĩnh ung dung, tôi dẫn anh Hạ sĩ mang máy chậm bước đến vị trí người lính đang đứng gác giữa đường. Một tràng M16 nữa lại nổ vang, toán lính Dù này chỉ c̣n cách chúng tôi khoảng 30 thước, và họ vẫn chưa nhận thấy sự hiện diện của chúng tôi. Họ tiến gần chúng tôi khoảng 20 thước nữa, một tràng đạn chỉ thiên lại nổ ḍn trên không. Tôi hít một hơi thở sâu, dùng hết sức thét lên
” N-G-H-I-Ê-M “. Đúng là Lính, họ giật ḿnh dừng lại nh́n quanh, thấy chúng tôi với quân trang và vũ khí đầy đủ, có lẽ cảm thấy ấm ḷng trong vùng kiểm soát của một đơn vị bạn, họ dừng chân và hơi b́nh tĩnh trở lại, chúng tôi nh́n nhau, chung bộ đồ Dù, một là chiếc nón đỏ với những trận chiến vang danh, một là chiếc nón xanh với những hoạt động biệt cách đởm lược. Tôi tiến đến bắt tay anh, người chỉ huy toán lính Dù quả cảm. Chúng tôi im lặng nh́n nhau, anh vẫn c̣n th́ thào : Địt mẹ nó!……
Tôi đích thân đưa anh vào một căn bỏ trống trong ṭa cao ốc, kêu toán phó băng bó vết thương ở vai và lưng cho anh rồi vội vă bỏ ra ngoài sau khi đưa cho anh chiếc áo dù c̣n mới toanh của tôi để thay chiếc áo đă bết máu khô. Ba người lính Dù vẫn lặng lẽ bám theo anh không rời một bước.
Tôi không nhớ anh mang cấp bậc nào, nhưng chỉ biết toán lính Dù này rút về đây khi trại Hoàng Hoa Thám đă hoàn toàn thất thủ. Sau khi chuyện tṛ thuyết phục, họ đă đồng ư ở lại với chúng tôi và trở thành một tổ mới trong toán. Về sau toán lính Dù này đă theo chúng tôi cho đến tọa độ cuối cùng.
TOẠ ĐỘ CUỐI CÙNG.
Thời gian như dừng lại, cái nắng ảm đạm của Sài g̣n như chuyên chở tâm tư tôi trở về với những thực tại phũ phàng:
Sụp đổ rồi ư những hoài băo ước mơ vá trời ngang dọc, có làm được ǵ không trong cơn tuyệt vọng cùng đường này.
Đầu óc tôi trống không mụ mẫm. Cổ họng tôi khô quánh lại. Những người lính của tôi dễ thương và tội nghiệp quá, làm sao để bảo vệ mạng sống của họ trong hiện tại và dẫn dắt họ trong đời sống vô định của một tương lai đen tối. V́ trách nhiệm, tôi bám chặt họ để làm lẽ sống.V́ quả cảm trung thành, họ quyết theo tôi cho đến bước đường cùng. Tôi đứng như trời trồng, nh́n sững xuống chân thấy bóng ḿnh dần thu ngắn lại.
Tiếng rè rè của PRC25 làm tôi giật ḿnh, đích thân Đại úy Biệt đội trưởng ra lệnh hành quân, các sĩ quan trong ban chỉ huy Biệt đội đă đồng ư một kế hoạch rút quân về toà nhà Quốc Hội, giá súng tại đây, tuyệt đối không buông súng trong vùng trách nhiệm. Trung đội Thám kích mở đường và tập hậu, chiếm các cao ốc làm điểm tựa cho cuộc rút quân.
Tôi tê dại đánh rơi cần liên hợp xuống mặt đường. Vậy là hết !…
Sững người trong phút chốc, tôi buông thơng:
– Đi .
– Đi đâu thiếu uư. Người toán phó nôn nóng hỏi.
Tôi nh́n anh ta với đôi mắt ngầu lên uất hờn tủi nhục rít qua kẽ răng đang nghiến chặt:
– Lệnh hành quân về quốc hội. Tôi đáp gọn rồi kịp quay đi dấu đôi ḍng lệ trào tuôn không cầm được.
Biệt đội đă bắt đầu di chuyển, ba toán nhảy theo chân sáo mà điểm đậu là các ṭa cao ốc để bảo vệ các trung đội xung kích di chuyển trên mặt đường.. Toán chúng tôi tuy vẫn giữ nguyên tắc tổ tam đầu nhưng tụ lại cho ấm cúng hơn.
Bỗng nhiên, tiếng máy của T54 đồng loạt gầm lên trên khắp ngă đường, những khối sắt đen đồng loạt ḅ ra dừng lại án ngữ những điểm chính yếu rồi đứng lại đe dọa, có tiếng click nhẹ của những khẩu M72 dương ṇng, tôi chưa kịp phản ứng ǵ th́ nh́n quanh, những người lính thiện nghệ của tôi đă vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, tôi vụng về dương ṇng cây M72 rồi ẩn ḿnh sau một gốc cây lớn vệ đường quan sát.
Một sự im lặng căng thẳng cùng cực, T54 gục ṇng trong tư thế trực xạ, M72 đă sẵn sàng với biểu xích đă bật lên, súng gh́m súng, mắt long lên theo từng động tỉnh của đối phương, chỉ cần một tiếng súng nổ là khai hỏa một trận chiến không ai lường được hậu quả. Lúc bấy giờ khả năng tham chiến của biệt đội 817 chúng tôi vẫn đầy đủ.
Chiến công cuối cùng của Biệt Đội 817 Liên Đoàn 81 BCD ngay giữa Thủ đô Sài G̣n sáng ngày 30-04-1975
Đang trong phút im lặng tử thần đó, một sĩ quan, nếu tôi nhớ không lầm là một toán trưởng kỳ cựu trong trung đội thám kích, một cánh tay phải của Biệt đội trưởng, đứng thẳng người, mạnh dạn bước ra, nh́n về hướng Biệt đội trưởng như chờ sự chấp thuận. Nhận được thủ lệnh, anh từ tốn cởi bỏ vũ khí để xuống mặt đường, rồi dỏng dạc bước ra đứng giữa đường lớn tiếng:
– Chúng tôi, biệt đội 817 Biệt cách Dù, chúng tôi không buông súng trong vùng trách nhiệm, chúng tôi đang hành quân về quốc hội để trả vũ khí lại cho dân. Giọng anh sang sảng bằng tiếng Bắc 54.
Phía đối phương không động tĩnh một hồi lâu, có lẽ họ đang liên lạc để chờ lệnh trên hay để đánh giá lực lượng chúng tôi trước khi quyết định việc ǵ. Sau đó, từ chiếc T54 phía sau, một người bên đối phương bước xuống nói chuyện với anh Sĩ quan toán trưởng này, hai bên tranh luận dằng co, lúc nhẹ nhàng, khi lớn tiếng, cuối cùng, anh toán trưởng quay trở lại, khuôn mặt đỏ ngầu. V́ sự an nguy của đồng đội, anh đă cố nén đi sự phẫn nộ, có lẽ anh đă quen nói chuyện với địch quân bằng một phương pháp cứng rắn hơn..
Sau khi về lại vị trí, anh toán trưởng này đă gọi mọi người cùng lên máy và chúng tôi nói chuyện bằng bạch văn.
Tôi được biết đối phương đă đồng ư để chúng tôi tiếp tục hành quân về toà nhà quốc hội, nhưng hai bên cùng thỏa thuận: trên lộ tŕnh hành quân, nếu gặp nơi đối phương đang trú quân, chúng tôi phải vác súng lên vai và ngược lại, khi chúng tôi nghỉ chân th́ bất cứ đơn vị nào của đối phương đi chuyển qua cũng phải vác súng lên vai không được ở tư thế tác chiến.
Đại úy Biệt đội trưởng ra lệnh tiếp tục hành quân.
Chúng tôi câm lặng di chuyển, trong ḷng thấm dần niềm đau nỗi nhục, nh́n quang cảnh phố phường lẫn lộn đỏ xanh của màu cờ gạt lừa dối trá.
Dân chúng hai bên đường nh́n chúng tôi như những bóng ma đang đi chuyển trong một nghĩa địa hoang tàn của Sài g̣n sau cơn binh lửa.
Đến ngă tư Trương minh Giảng- Công lư, một lần nữa tiếng gầm rú của T54 lại vang lên như đang cố gắng nghiền nát tinh thần chúng tôi. Đối phương đă huy động một lực lượng chiến xa lẫn chủ lực đáng kể nhằm khống chế chúng tôi tại chỗ. Toán nhảy tiền phương đă bị chận đứng không thi hành được nhiệm vụ v́ đối đầu với những khẩu 3.5 đang theo dơi bước chân của từng người lính thám kích. Nh́n chung quanh, đại pháo của chiến xa trên các ngă đường dang gục ṇng sẵn sàng khai hoả.Toán nhảy tập hậu đă gọi về báo một t́nh trạng tương tự ở sau lưng, trên các cao ốc đối phương đă hoàn toàn trấn giữ.
Chúng tôi nh́n nhau không biết phải làm ǵ, Biệt đội trưởng lắc đầu chậm chạp, từng khuôn mặt lặng câm không cảm xúc. Một cảm giác tê dại chạy khắp người tôi từ bàn chân lên đến đỉnh đầu.Tâm trí hoàn toàn trống không, tôi đứng như trời trồng uất nghẹn, mắt trợn trừng nh́n vào cơi hư vô, tai ù lên chỉ c̣n nghe tiếng mạch máu nhảy lên trong lồng ngực. Tôi nói như trong mơ:
– Các anh về với gia đ́nh đi.
…………………………
Từng người lính rời xa, trái tim tôi quặn thắt.
…………………………
Tôi không nhớ việc ǵ đă xảy ra sau đó, nh́n chung quanh trống vắng lạnh lùng, ṇng đại pháo trên các chiến xa T54 vẫn c̣n nh́n tôi với con mắt chột đen ng̣m lạnh lẽọ
Tôi lặng lẽ trút bỏ quân trang và vũ khí trên người, giắt khẩu P38 ngắn ṇng vào thắt lưng, đặt chiếc nón sắt nhẹ nhàng xuống một gốc cây gần đó, rút chiếc nón xanh của binh chủng đội lên đầu, vuốt sơ lại bộ quân phục đă nhàu nát và bước đi giữa những vết tích tàn lụn ngổn ngang của binh sĩ, như kẻ mộng du, nhắm về hướng Suối Máu, như loài cá vô tri t́m về nơi chốn đă khởi đầu một cuộc hành tŕnh dĩ văng.
Tôi bước đi như vào chốn không tên, tất cả giác quan đều ngưng hoạt động, mắt nh́n đăm đăm trơ dại, tai ù lên những tiếng vo ve nhức nhối, miệng lưỡi đắng khô và chân tôi đều bước nhịp quân hành…..Lúc bấy giờ trời đă nghiêng bóng, có lẽ đă hơn 2 giờ……..
– Niên ttrưởng! Niên trưởng! Trời ơi, giờ này mà Niên trưởng c̣n mặc đồ này đi coi chừng tụi nó bắn chết.
Một khoá đàn em hay một nguời lính nào đó nắm tay tôi, vừa la thất thanh vừa kéo tôi vào một hẻm nhỏ bên kia cầu xa lộ . Anh ta dằng lấy nón, cởi phăng áo tôi ra, rút khẩu P38 gói vào trong áo chung với chiếc nón xanh dấu vào một góc nhà, rồi khoác vào tôi một chiếc áo sơ mi cũ nhàu nát loang đốm vết dầu.Sau đó quăng cho tôi một chiếc quần cũng nhàu nát không kém và một đôi dép Nhật, tôi lặng lờ theo lời anh thay đôi giày và chiếc quần trận ra như một kẻ không hồn.
Anh dẫn tôi ra lại xa lộ, nắm tay khẽ bảo: Niên trưởng về nhà đi.
Và tôi lại lững thững bước đi…..Như một xác âm binh lạc lối……
Bước chân tôi dừng lại trước căn nhà trọ của gia đ́nh đă di tản từ Qui nhơn hơn tháng qua . Nh́n qua khe cửa hé mở, tôi thấy Mẹ tôi ngồi im lặng một góc theo lối Kiết già, Bà đang niệm Phật để nguyện cầu cho Quốc thái Dân an, hay cho hai đứa con trai đang c̣n măi mê ở chiến trường đâu đó. Tôi khẽ lách cửa bước vào, hai người chị gái tôi ngồi bệt dưới đất trong tư thế đợi chờ ngột ngạt không biết chuyện ǵ sẽ xảy đến.
– Mạ! tôi khẽ kêu lên.
Cả nhà nh́n lên tôi, ngạc nhiên, sững sờ, bể dâu của cuộc đời đă thể hiện cả lên h́nh hài tôi qua bộ đồ dân sự nhàu nát.
Mẹ tôi nh́n tôi từ trên xuống dưới, cái nh́n đau đớn đến vô hồn của một bà Mẹ đi nhận xác con.
Vâng! con của Mẹ đă chết trong ngậm ngùi, mang theo những hoài băo ước mơ vá trời lấp biển, và nó đang về đây với cái xác không hồn từ cơi âm ti…..
Tôi viết lên những ḍng chữ này để nhớ đến những người lính quả cảm trung thành cùng binh chủng. Đây là dấu tích sau cùng của riêng tôi trong đoạn đường binh nghiệp ngắn ngủi .
Trong những ngày cuối tháng tư đen, hảy chia xẻ niềm đau với biết bao nhiêu người trai trẻ đă bị sống trong cảnh bức tử oan nghiệt .
Thượng cấp, v́ quá lệ thuộc vào ngoại bang, đă tước bỏ đi của chúng tôi cái quyền căn bản của các cấp sĩ quan trẻ đầy lư tưởng và nhiệt huyết:
QUYỀN ĐƯỢC CHIẾN ĐẤU ĐỂ ĐI ĐẾN CHIẾN THẮNG HOẶC HY SINH BÊN CẠNH NHỮNG NGƯỜI LÍNH THÂN YÊU.
Minh cui ( minh gồ ) thuộc Biệt đội 817 nằm trong bộ chỉ huy chiến thuật 3 thuộc Thiếu tá Phạm châu Tài . Biệt đội 817 dưới quyền chỉ huy của TRung úy lợi ( là chú của một nick hải thuyền sát cộng trong forum này ) Biệt đội 818 do đại úy Ánh chỉ huy . Toán của tui rút về từ núi bà đen ( biệt đội 813 do trung úy Hợi nắm quyền ) sau khi phá đài truyền tin ở núi bà dend9e63 bọn chúng khỏi xử dụng và rút lui thất lạc đơn vị rút về sài g̣n sát nhập vào 818 trinh sát
Theo tin tức lúc đó tui c̣n nhớ , một trung đội thuộc biệt đội 819 giải vây cho 2 chuyến xe bus bị bọn nào đó uy hiếp khi tiến vào phi trường . Trung đội này sau đó họ bảo vệ và đưa những người này vào phi trường để di tản
Biệt độ 818 thả dọc từng toán từ trại dù Hoàng hoa thám đến ngă tư 7 hiền cùng phối họp với biệt đột 817
Toán biệt kich 18 người bị bọn nó bắt và giết ở hố nai , tui nhớ mang máng trực thuộc bộ chỉ huy chiến thuật 2 do Thiếu tá sơn nắm quyền
Mỗi người lính nằm trong đơn vị chiến đấu th́ không thể thấy toàn cảnh sự việc , chỉ bổ túc thêm những sự kiện để góp vào quân sử
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân & Mặt Trận Phan Rang
Bốn mươi năm nh́n lại ngày Phan Rang thất thủ, tôi lại nhớ một khuôn mặt tướng lănh cựu tư lệnh sư đoàn 6 không quân (bản doanh đóng tại Pleiku), người đă bị địch bắt tại chiến trường, bị đem ra Bắc và trở thành người tù có thâm niên cao nhất (17 năm).
Trong số các sĩ quan bị trả thù sau cuộc chiến, ông là người vào tù sớm nhất (16-4-75) và ra trại trễ nhất (11-2-92). Thân tàn lực kiệt ông sống thêm được 10 năm và mất tại Quận Cam năm 2002. Trước khi mất ông dồn sức cố viết một hồi ức về trận đánh Phan Rang và làm một điều chẳng ai bắt ông phải làm là tỏ lời cáo lỗI cùng đồng bào qua mấy ḍng bi tráng, Tôi cảm nhận rất có tội với đồng bào, v́ làm tướng mà không giữ được thành.
Nói đến quân chủng Không quân người ta nhắc nhiều đến những khuôn mặt vừa hào hoa vừa gan dạ, lấy không gian làm nhà, lấy nghiệp bay làm lẽ sống, và trong hàng tư lệnh mang sao đă có hai ông một thời làm tới Phó tổng thống và một ông làm tư lệnh cảnh sát đă tự tay bắn chết tên VC trong tết Mậu thân (mà sau này hăng CNN đă chọn là một trong số 100 sự kiện nổi bật của…thế kỷ 20!).
Nhưng dư luận và báo chí ít chú ư đến vị tướng gốc Nam bộ này, tên ông chỉ được nhắc khi được đề bạt làm tư lệnh một sư đoàn sau chót của không quân mới thành lập cuối năm 1972 nhằm yểm trợ cho chiến trường cao nguyên và trở thành bại tướng khi Phượng Hoàng (danh xưng chỉ huy của ông) găy cánh tại Phan Rang hai tuần trước ngày mất nước.
Ngược ḍng tiểu sử ít ai biết tướng Phạm Ngọc Sang, người đă có gần 25 năm quân vụ, nguyên xuất thân là một sĩ quan bộ binh (khóa 1 Thủ Đức), sau được tuyển sang không quân du học tại Pháp, trở thành một phi công chuyên lái vận tải. Nhờ tài năng và tác phong gương mẫu, ông được tin cậy và là một trong ba người được chọn lái riêng cho tổng thống Diệm. Sau 63 trả về không quân ông tiếp tục bay và có thời đă làm Chỉ huy trưởng trung tâm đào tạo phi công tại Nha trang. Ông cũng là chánh vơ pḥng cho tướng Kỳ khi ông này làm chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương.
Trước khi vào quân ngũ ông cũng từng là nhà giáo, có kiến thức văn hóa, song hành với nghiệp bay, ông là sĩ quan cấp tá duy nhất tốt nghiệp các khóa quân sự về chỉ huy tham mưu và quốc pḥng nổi tiếng của Việt nam và Hoa kỳ, đáng kể là khóa cao đẳng quốc pḥng (VN), chỉ huy tham mưu cao cấp tại Leavenworth (Kansas) và quản trị quốc pḥng tại trường đào tạo hậu đại học của Hải quân Mỹ tại Monterey (California).
Cứ dựa vào thâm niên và tài năng ông xứng đáng trở thành Tư lệnh của quân chủng, nhưng vốn không có tham vọng, lại khiêm tốn, không phe cánh, măi đến 1972 mới lên tư lệnh và được thăng một sao một năm trước ngày găy cánh. Cũng năm này được tuyên dương trước toàn quân với Anh dũng bội tinh kèm nhành dương liễu về công trạng yểm trợ không lực hữu hiệu cho chiến trường cao nguyên.
Là người hay viết về chân dung tướng lănh của Quân lực VNCH khi các vị nằm xuống, tôi hụt viết về chuẩn tướng Sang khi ông từ giă bạn bè và người thân v́ ngày ấy tôi chưa quay lại làng văn làng báo. Nhưng cũng may tôi có dịp gặp ông hai lần trớ trêu thay trong cùng cảnh tù của một trại giam hắc ám nhất miền Bắc, trại Nam hà, rồi khi ra hải ngoại lại có dịp được biết thêm về ông qua các sĩ quan thuộc cấp đă gần gũi ông tại Pleiku và những tháng ngày cuối cùng trước ngày Sài g̣n tắt thở.
Viết về ông hơi khó v́ bản thân ông không thích người khác ca ngợi ḿnh, lại càng kín tiếng v́ không thích chuyện chính trị, ông là một mẫu quân nhân thuần túy, dù là một phi công mang tiếng hào hoa nhưng cá nhân lại hết mực nghiêm túc, trọng quân phong quân kư, có thể v́ gốc nhà giáo và luôn tỏ ra gương mẫu trong nếp chỉ huy của quân trường, nơi một lần ông đă uốn nắn các sinh viên sĩ quan theo đuổi nghiệp bay cả về kỹ thuật lẫn tác phong.
Tôi nhớ lần lén gặp ông trong khu biệt giam tướng lănh, khó ai ngờ ông là tướng một sao, cảm tưởng nh́n ông cặm cụi tưới mảng rau thơm và rau cải để tự cải thiện trong một khu đất khép kín của trại tù, người ta h́nh dung giống như một ông giáo già người Nam bộ đang chăm sóc mảnh vườn nhà èo uột dưới quê.
Nhưng bên trong con người này là một nhân cách đáng kính, lầm lỳ ít nói, ngay cả khi địch bắt cũng chẳng khai thác được ǵ, bảo lên đài nói để kêu gọi binh sĩ ta đầu hàng buông súng ông không chịu làm, bảo thành khẩn khai báo quá tŕnh bản thân để sớm được tha ông vẫn an nhiên tự tại, ông không dại ǵ mà chống khi cánh bay đă găy, nhưng phía cán bộ địch vận ở trung ương và quản lư trại giam nơi nhốt ông, họ biết người này khó mà chiêu hồi, cải tạo, có thể v́ vậy mà khi trại giam tù cải tạo cuối cùng trên đất Bắc đóng cửa, người ta đem ông về Nam để nhốt thêm. Ông là người cuối cùng ra khỏi trại giam sau 17 năm, chính thức khai tử cái chính sách khoan hồng mà cộng sản rêu rao dành cho những kẻ cựu thù của chúng.
Trở lại những ngày cao nguyên di tản, ông là nhân chứng đầu tiên ngoài tướng Nguyễn Văn Phú, người nhận lệnh từ tổng thống Thiệu. Ông vẫn hận về cái lệnh quái đản bằng miệng từ người tổng tư lệnh cho một tư lệnh quân đoàn qua đường điện thoại (từ Khánh Ḥa Nha Trang), áp đặt một quyết định sinh tử cho việc tháo lui bỏ ngỏ một vùng cao nguyên chiến lược mà chính người thi hành chỉ có không đầy… 72 tiếng đồng hồ để sắp xếp!
Ông vẫn c̣n nhớ như in trong cuộc họp tham mưu tại văn pḥng tướng Phú, cú điện thoại gần như độc thoại từ đầu dây bên kia và phía đầu dây bên này chỉ có những độc âm…dạ, dạ, dạ,…rồi ngưng, không kịp để phát thêm một lời xin giải thích và nhu cầu thời gian cho một cuộc di tản chiến thuật vô tiền khoáng hậu. Mặt buồn như người đưa đám, người tư lệnh cấp cao hơn ông chỉ đạo các đơn vị tự lo lấy phương tiện chuẩn bị băng qua con lộ 7, mà mấy ngày sau thành tử lộ trên đường rút về Tuy ḥa, một thị trấn gần Nha Trang, nơi chưa đầy một tuần trước ông Thiệu và đoàn tùy tùng có cả đại tướng Cao Văn Viên đă có mặt tại đây.
Chưa đầy một tháng sau, bản đồ miền Nam được vẽ lại, Phan Rang trở thành tuyến đầu của lănh thổ cộng ḥa. Tướng Thiệu cho gom góp các đơn vị vừa tản hàng sau cuộc di tản, từ cao nguyên đổ về, từ miền Trung dạt xuống, bằng mọi giá phải bảo vệ thị trấn này cũng là hometown của ông, không để cho Bắc Việt lấn chiếm thêm. Từ đây, tướng Sang thêm một nhiệm vụ mới, làm phụ tá cho tướng ba sao Nguyễn Vĩnh Nghi, một cựu tư lệnh đồng bằng sông Cửu đang bị thất sủng nên chịu giữ chức tư lệnh tiền phương pḥng thủ Phan Rang.
Có một giai thoại là tại mặt trận tiền phương, tướng Nghi đă chỉ định tướng Sang đặt bộ chỉ huy trên không để dề bề điều động phối hợp, nhưng ông đă nói đùa, tướng 3 sao dưới đất, tướng 1 sao trên trời coi sao tiện, ông đă xin cùng ngồi ở bộ chỉ huy đóng gần phi trường, để rồi cùng số phận ít ngày sau khi Phan Rang thất thủ cả hai ông trở thành tù binh có cấp bậc cao nhất bị bắt tại chiến trường. Một thuộc cấp cũng là bạn của tôi thuật lại nếu Phượng Hoàng cứ ở trên không th́ chiếc vận tải biết đâu đă quay hướng Sài g̣n và số phận của mấy thầy tṛ đă có ngả rẽ khác.
Viết lại về ông điều đáng nói không phải muốn đề cao một khuôn mặt từng được kính nể cả về tài năng lẫn phẩm chất, cái đáng phục dù không được nhắc nhớ như năm vị tướng đă chết theo thành, nhưng Phuợng Hoàng khi găy cánh đă trả giá bằng những tháng năm tù đầy gian khổ qua các trại giam của kẻ thù từ Bắc vào Nam, rồi trước khi về cơi đă dũng cảm nh́n lại bằng tri nhớ của ḿnh và nhờ các thuộc cấp bổ sung, ông đă viết được một tài liệu mang tính hồi ức thuật lại trận đánh Phan Rang mà những chi tiết có thể dùng làm tư liệu cho người viết quân sử.
Theo dư luận chung ông chẳng có lỗi ǵ, trái lại đă làm hết sức ḿnh trước t́nh h́nh vận nước đă đến hồi mạt vận, dù ông đă tự thân xin lỗi đồng bào v́ đă để mất Phan Rang. Các đồng đội vẫn tự hào khi nh́n lại thấy Thầy ḿnh sống chết có nhau, hơn nhiều kẻ chóp bu đă bỏ thành trước giờ tàn cuộc.
Mọi sự đă thuộc về lịch sử, thắng thua để các người sau phân giải. Bên thắng cuộc họ mới kỷ niệm ầm ỹ 40 năm Sài g̣n mất tên, nhưng cảnh đói nghèo tụt hậu vẫn c̣n là vết thương nhức nhối của một quê hương tan nát.
Tôi mượn lời của các thuộc cấp trong lễ truy niệm với đầy đủ lễ nghi quân cách trong ngày tiễn ông ra đi, “Thôi th́, ân đất nước đă đền, nghĩa đồng bào đă trả, xin Tướng quân thanh thản ra đi”. Chúng tôi, những người lính không cùng quân chủng, với ḷng quí mến của các cựu tù xin Phượng Hoàng cứ yên nghỉ ngàn thu.
Viết tại quận Cam
Đỗ Xuân Tê
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Nhớ lại suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà Nẳng, các đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ phải rút theo, tạo ra cảnh đỗ vở tan thương cho không biết nhiêu gia đ́nh quân nhân cũng như dân chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu, không bị đánh chận, nên cứ ung dung tiến văo thành phố đă bị bỏ ngỏ. Đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan Rang cũng đă bỏ chạy, nên tiếp tục cho các toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu tiên bị ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ng̣i chờ viện binh. Măi đến ngày 16.4.1975, khi tung ra toàn lực áp đảo, chúng mới vào được Phan Rang
Vào thời điểm các đại đơn vị ta rút lui, mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm khó khăn và thiệt hại cho đối phương, th́ căn cứ Phan Rang đă anh dũng chống cự, và đă làm thiệt hại đáng kể cho quân đội chánh quy Bắc Việt. Chiến trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhứt: từ ngày 1 đến 3.4.1975, là giai đoạn h́nh thành tuyến pḥng thủ, với Sư đoàn 6 Không quân và Tiểu đoàn 5 Dù thuộc Lữ đoàn 3 Dù cùng một số đơn vị địa phương quân c̣n lại.
Sư đoàn 6 Không quân gồm:
- 3 Phi đoàn A-37, 524, 534, 548
- 1 Phi đội A-1
- 2 Phi đội tản thuơng 259 B và 259 C
- 2 Phi đoàn Trực thăng 229 và 235
Lữ đoàn 3 Dù gồm:
- Bộ chỉ huy
- Tiểu đoàn 5
Giai đoạn thứ hai: từ ngày 4 đến 12.4.1975, là giai đoạn củng cố tuyến pḥng thủ, với sự thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, với Lữ đoàn 2 Dù. Đây là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong việc ổn định t́nh h́nh sau nhiều ngày xáo trộn. Một số đơn vị nhỏ của địch đă hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng viện.
Lữ đoàn 2 Dù gồm:
- 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11
- 1 Tiểu đoàn Pháo binh
- Các đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận
Giai đoạn thứ ba: từ 13 đến 16,4.1975, là giai đoạn của trận chiến quyết định, với các đơn vị gồm:
Liên đoàn 31 Biệt động quân gồm:
- 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52.
Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền phương:
- Toán Thám sát / Nha Kỷ thuật
Sư đoàn 2 Bộ binh gồm:
- 2 Trung đoàn 4 và 5
- 2 Pháo đội gồm 10 khẩu 105 ly
- 2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc
Lực lượng Hải quân gồm:
- Duyên đoàn 27
- 2 Khu trục hạm
- 1 Giang pháo hạm
- 1 Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ
Trong 2 ngày 13 và 14, Lữ đoàn 2 Dù được lịnh rút về Saigon. Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và pḥng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16.4.1975, bởi 2 sư đoàn VC 325 và 3 Sao vàng, cùng với các đơn vị của Đoàn 968 VC. Trong ngày 14.4.1975, ngoài Duyên đoàn 27 đă có mặt tại Phan Rang, Hải quân Saigon tăng cường khẩn cấp 2 Khu trục hạm, 1 Giang pháo hạm, 1 Hải vận hạm cùng một số tàu yểm trợ.
Lực lượng địch:
Theo tù binh thuộc Đoàn Hậu cần 57 địch bị bắt tại đèo Du Long ngày 9.4.1975, các cấp chỉ huy địch ngở Phan Rang đă bỏ chạy, nên tiếp tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp thu. Bị đánh đuổi, chúng lui về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ng̣i chờ đại quân của 2 Sư đoăn 3 và 325 VC từ phía Bắc đến. Các nhóm du kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi nhận có mặt. (xác nhận bởi Đại tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá Mạo khi bị đơn vị nầy bắt tại mặt trận.)
I. H̀NH THÀNH TUYẾN PH̉NG THỦ
Kể từ ngày 1.4.1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lử đoàn trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Saigon. Căn cứ tôi lúc bấy giờ rất là trống trải, v́ một số lớn quân nhân Địa Phương Quđn canh gác ṿng đai đă bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ v́ lo sợ vu vơ. Ngoài thị xả, Tỉnh trưởng đă rời nhiệm sở, dân chúng th́ ngơ ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Saigon, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường Vơ Bị Đà Lạt đang theo Quốc lộ 11 trên đường đi B́nh Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở thành tiền đồn và đang ở trong t́nh trạng hết sức cô đơn.
Chuẩn bị t́m phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị hạn chế sự ra vào căn cứ để tránh xáo trộn do toán người tháo chạy mang đến. V́ vậy nên khi nghe có đơn vị Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. Được biết đó là do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu để Lử đoăn III được văo căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp pḥng thủ, tôi mới thuận cho đoàn quân của Trung tá Phát vào phi trường. Thật là đúng lúc cần thiết và tôi rất bằng ḷng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ hiện trong t́nh trạng bỏ ngỏ. Tôi phối họp ngay với Trung tá Phát để phối trí việc pḥng thủ căn cứ với Không đoàn Yểm Cứ của Trung tá Phạm Bá Mạo và Trung tá Nguyễn Văn Thiệt v́ căn cứ mênh mông với ṿng đai h́nh vuông mỗi cạnh 6 km, mà Liên đoàn Pḥng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh gác ṿng đai gần mà thôi. Dù muốn dù không, căn cứ không quân Phan Rang đă trở thành tiền đồn của Miền Nam mà tôi đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung tá Diệp ngọc Châu Phụ tá Nhân Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên, để đừng xảy ra t́nh trạng bung chạy, v́ quá hoang mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như bộ binh.
Trung tá Phát xử dụng Đại đội Trinh sát Dù, bung ra kiểm tra nội vi căn cứ và đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào Đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ. Về phần Không quân, câc cấp phi hành và kỷ thuật đê am hiểu t́nh h́nh mới, chấp nhận thực trạng và hết ḿnh nổ lực chiến đấu v́ nhu cầu pḥng thủ.
Vào buổi chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi t́nh h́nh. Sáng hôm sau, rời căn cứ bay về Saigon.
Ngày 2.4.1975, Saigon tăng cường một đơn vị Dù. Trung tá Phát liền xử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp với các đơn vị Địa phương quân trong việc giữ an ninh cho thị xả.
Lúc 2 giờ chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ nầy lẻ ra cũng đă bỏ chạy như Nha Trang và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết tŕnh t́nh h́nh, Trung tướng Toàn nói:” kể từ buổi thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III, trở thành cứ điểm cực Bắc của quân đoàn.”
Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ tổng tham mưu chỉ định tôi phụ trách bảo vệ Phan Rang.
Ngày 3.4.1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xă và nội vi phi trường. Từ Ba Râu đến Thị xă, dân chúng bớt hoảng sợ mặc dầu sanh hoạt vẫn c̣n rụt rè. Trong căn cứ Không đoàn Yểm Cứ đă chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy lại sanh hoạt b́nh thường.
Đại tá Lê văn Thảo Không đoàn trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 phi đoàn A-37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen. đă sát cánh cùng đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu.
Trung tá Lê Văn Bút Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi đoàn trực thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát 118 và một bộ phận của Phi đoàn 530 A-1 với Phi đội tản thương 259 C, đă bay thi hành nhiều công tác khó khăn nguy hiễm.
Trung tá Đổ hữu Sung và đoàn kỷ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chửa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch.
Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin phương tiện về Saigon, th́ VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho phi cơ A-37 đánh phá.
Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên liệu đang gặp trở ngại v́ xe bồn không cung cấp như b́nh thường, bởi cảng Cam Ranh đă bị địch chiếm. V́ vậy hàng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Saigon bằng phi cơ C-130, một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quđn mà thôi.
Để tránh hổn loạn khi bị pháo kích dồn dập, tôi cũng phải cho nửa số phi cơ về trú đêm ở Saigon, để sáng hôm sau trở ra với đầy nhiên liệu.
Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số người, tôi liền cử Trung tá Lư Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong những tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện t́nh ở Phan Rang. Tiếp đón và trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, Hạm trưởng thúc giục Trung tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời tŕnh thuật của Trung tá Bút, tôi đê hiểu rỏ ràng là trong cấp thời, Mỹ không c̣n có ư định dính líu ǵ nửa đến cuộc chiến đang diễn tiến hiện nay.
II – BỘ TƯ LỆNH TIỀN PHƯƠNG
Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao bọc bởi các dải núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho việc pḥng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện. Các đơn vị VC đă tiến quá xa với hậu tuyến của họ. Họ chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được th́ không thể tập trung tấn công ngay được. Có thể có những phần tử lẻ tẻ đă xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy. Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2 hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1 tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xả và hai là từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ hướng về thị xả Phan Rang. Ngoài ra c̣n có một ít đường ṃn từ Vườn Dừa, Ba Ng̣i chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân Mỹ có thể chọn để xâm nhập được. Trong lần bay quan sát chiều ngày 14.4.75, tôi thấy một vài thiết vận xa địch trên những đường ṃn nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách khoảng 8 km. (Đương nhiên, khi bị phát hiện, chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh tạc.)
Thị xă và Phi trường Phan Rang nằm vào phần Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du long về thị xả, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi tiến về Nam không qua thị xă. Từ thị xă đến Du Long khoảng 15 km với Ba Râu khoảng 9 km và với Că Đú khoảng 4 km. Từ Cà Đú đến thị xă, mặt đất bằng phẳng.
Phi trường Phan Rang rất rộng, h́nh vuông, mỗi cạnh trên dưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng Đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt sắt vă 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở cho kỷ thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh tối tân. Việc pḥng thủ bao gồm 60 cḥi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội Địa phương quân phụ trâch.
Ngày 4.4.1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ chỉ huy Tiền Phương trong Căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân, nằm vào lối 5km Bắc Tây Bắc của Thị xă Phan Rang. Ông cho biết là đă được Thượng cấp chấp thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui ḷng đảm nhận chức vụ.
V́ địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc pḥng thủ, nên Trung tướng Nghi quan niệm:
” Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho Thị xả phối họp với một số đơn vị Địa phương quđn c̣n lại.”
Theo quan niệm đó, Trung tướng Nghi thảo ra kế hoạch pḥng thủ Phan Rang với một lực lượng cở 2 sư đoàn mới có thể trong tạm thời pḥng thủ được. Đó là:
Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xả hoặc vào căn cứ.
Mặt phía Tây, trín Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.
Bảo vệ an ninh cho thị xả và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp với Địa phương quân phụ trách.
Ngày 5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không quân thất lạc tŕnh diện xin phương tiện về Saigon và luôn xác nhận là vẫn có một số VC xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Chúng nói v́ có quân Dù của ta ở phía trước nên chúng c̣n nấp chờ chi viện.
Ngoài ra Tướng Times, phụ trách an ninh cho Ṭa Đại sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp xếp cho người của ông thường xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về ṭa đại sứ.
Trong mấy ngày qua, tôi đă điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 KQ. Vô t́nh tôi đă biến căn cứ Không quân Phan Rang thành một cứ điểm pḥng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp nầy.
Ngày 6.4.1975, trong ngày, sinh hoạt trong căn cứ không quân đă có sự b́nh thường và các phi vụ đều được thi hành như thông lệ. Thêm một số quân nhân của 7 Đại đội Địa phương quân phụ trách canh gác ṿng ngoài phi trường tiếp tục trở về.
Quân địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vă đến tiếp thu Cam Ranh. Toán viễn thám của họ theo đă chạy tiếp thu, có thể đă xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ng̣i, qua đồi Du Long, xuống về phía Nam. Các Sư đoăn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn vị F-10 hoặc 968 đang lẫn núp xâm nhập lẻ tẻ.
Ngày 7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ.
Đại tá Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Phan Rang, vừa trở về với một số công chức, và đang tập họp các lính Địa phương quân và Nghĩa quân.
Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11 và 1 Tiểu đoăn Pháo binh cùng các Đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận lần lượt đến căn cứ. Trung tướng Nghi liền giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến pḥng thủ tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực lượng khi cần để chận không cho địch vượt qua Du Long. Xử dụng Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Phát hiện có mặt tại căn cứ giữ an ninh cho phi trường.
Ngày 8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại tá Lương liền điều dộng giải tỏa đoạn Quốc lộ 1, từ Thị xă đến Du Long, qua các Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du long, với 2 Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 3. Trên đường tiến quân, Tiểu đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu. Địch tổn thất khoảng một đại đội với nhiều vũ khí. Tiểu đoàn 11 được trực thăng của Sư đoàn 6 Không quân, đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đỉ Du Long.
Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần địch cùng một số quân lính VC, v́ ngở Phan Rang đă bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển. Đồng thời, t́m thấy bộ đồ bay của Trung úy Lư Tống, thuộc Không đoàn 92 Chiến thuật/ Sư đoàn 6 Không quân, c̣n để tại vùng đèo Du Long, khi phi cơ A-37 của ḿnh vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung úy Lư Tống là người đă thả truyền đơn chống cộng tại Saigon năm 1992, tại Cuba trong năm 2000 và tại Saigon cuối năm 2000, nhân dịp Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam.)
Tại phía Tây, phần lớn của Tiểu đoàn 5 Dù đă trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ, ngừa được sự tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh sât Dù cũng lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu đoàn 7 trừ bị giám sát việc giữ an ninh trong căn cứ không quân với Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù. Kết quả là trong ngày nầy, Phan Rang đă hoàn toàn kiểm soát được t́nh h́nh vốn bị tŕ trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy.
Buổi sáng, lúc Trung úy Nguyễn thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, th́ Bộ Tư Lệnh Không Quân bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đă được cấp tốc thi hành, và Trung đă không bay qua đây.
Đặc biệt Cha giáo sứ Hồ Diêm, với niềm phấn khởi, đến thăm Trung tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đă giải tỏa được Phan Rang. Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với lực lượng Nghĩa quân và Nhân dân tự vệ của giáo sứ, đă thành công bảo vệ địa phận ḿnh chống lại các cố gắng len lỏi xâm nhập của địch.
Ngày 9.4.1975, Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không đoàn 72 Chiến Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng Vơ trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Ḥa biệt phái. Mục đích là để lên Khánh Dương t́m kiếm và chở về các toán c̣n kẹt lại của Lữ đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 6 cùng một số quân của Tiểu đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng đi có Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 3 Dù phụ giúp t́m kiếm, chọn băi đáp để rước toán thất lạc nầy trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đa trở thành vùng địch kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A-37 yểm trợ. Kết quả là đoàn trực thăng đă mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà phần lớn lă quân nhân của các Tiểu đoàn 2 và 6, cùng một số thất lạc của Tiểu đoàn 5 với một số ít dân sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở toàn bộ vào Saigon. Cuộc hành quân trực thăng vận thành công tốt đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc của Lữ đoàn 3 Dù. Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. Đoàn trực thăng 60 chiếc đă phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và bất trắc khôn lường.
Trong thị xă, Đại tá Trần Văn Tự Tỉnh trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa phương quân. Ngoài thị xă, dân chúng hăy c̣n e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại b́nh thường, tạo nhiều phấn khởi.
Các ngày 10 và 11. 4.1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ Tư lệnh tiền phương đang trù tính kế hoạch chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang. Địch sau khi bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân.
Ngày 12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong việc pḥng thủ Phan Rang.
Lệnh từ Quân đoăn III cho biết sẽ rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu đoàn 5 Dù vào ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn, và Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 trung đoàn, cùng 2 Chi đội Pháo và Chi đội Thiết vận xa.
Liên đoàn 31 Biệt động quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng quân, th́ được tung ra tiền tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng.
Sư đoàn 2 Bộ binh cũng vừa tháo chạy từ Quảng Ngải, vừa tập trung tại B́nh Tuy và đang được bổ sung quân số th́ được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hảy c̣n hoang mang, dao động. V́ chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị nầy phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng với các trung đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ.
Bộ Tổng tham mưu Pḥng 7 vừa bổ sung toán thám sát, v́ kiểm thính phát hiện rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch xung quanh Phan Rang.
Chuẩn tướng Lê Quang Lưởng Tư lệnh Sư đoàn Dù và Trung tướng Trần Văn Minh Tư lệnh Không Quân, cùng đến thám sát công cuộc pḥng thủ. Cả hai vị đều tỏ ư bất đồng về việc điều quân nầy. Trung tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền đồn là sai lầm, v́ khi hữu sự dưới lằn đạn pháo th́ không thể sửa chửa, trang bị cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn tướng Lưỡng cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2 đơn vị đă từng vội vă rút quân vă c̣n đang chờ đợi bổ sung quân số.
Trung tướng Nghi cũng bất ngờ v́ không có được những đơn vị như đă hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang.
III. TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH
Ngày 13.4.1975 là ngày đánh dấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến pḥng thủ Phan Rang.
Trong ngày, liên tục toán kiểm thính Pḥng 7 TTM báo cáo có sự hoạt động bất thường của các đơn vị Sư đoàn 325 và Sư đoàn 3 Bắc Việt.
Tướng Times của Ṭa Đại sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên truyền tin, để chuyển về Ṭa Đại sứ mọi biến chuyển mới nhứt của mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm việc và rất b́nh tĩnh lúc địch dồn dập tấn công.
Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích văo căn cứ không quđn. Các đơn vị địch đang t́m cách tấn công các điểm cao ở vùng đồ Du Long và phía Đông Ba Râu. Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ không quân, phối họp với từng đợt pháo kích.
Tiếc thay, trong t́nh thế như vậy mà cơ cấu pḥng thủ phải thi hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và tinh thần.
Trong khi bộ phận lớn của Lữ đoàn 2 Dù, gồm Tiểu đoàn 7 với các bộ phần nặng và Tiểu đoăn 5 của Lữ đoăn 3 Dù rời căn cứ, th́ Đại tá Nguyễn Văn Biết, chỉ huy trưởng Liên đoàn 31 Biệt động quân và 3 tiểu đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa từ Biên Ḥa tới bằng phi cơ C-130. Quân số Liên đoàn gồm khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội vă đến trám vào các địa điểm đóng quân của Tiểu đoăn 11 Dù tại Du Long và Ba Râu. Tiểu đoàn 31 trám tại Du long, Tiểu đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân th́ chạm súng với các toán thăm ḍ của địch.
Cùng lúc, Trung đoàn 4 của Sư đoàn 2 Bộ Binh, quân số khoảng 450 người, từ B́nh Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được giao trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường thay cho Tiểu đoàn 5 Dù vừa rời căn cứ.
Theo khuyến cáo của Bộ Tư lệnh Không quân, Đại tá Nguyễn Đ́nh Giao, Tham mưu trưởng Sư đoàn 6 Không quân được nhiệm vụ cùng các chuyên viên về Tđn Sơn Nhất để phụ lo việc quân số và tiếp liệu cho Sư đoàn.
Ngày 14.4.1975, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, cùng Trung đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường v́ Lữ đoàn 2 Dù đă hết nhiệm vụ và đă bàn giao với Trung đoàn 4 hôm qua. Lực lượng Pháo binh chỉ có 1 Pháo đội 105 ly hiện diện tăng phái cho Tiểu khu trong đó có một Trung đội đóng tại An Phước, phía Nam phi trường lối 10 km.
Thị xả được pḥng vệ bởi khoảng 1 tiểu đoàn Địa phương quân c̣n lại. Cùng lúc, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá Trương Đăng Liêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 giử chức vụ tỉnh thưởng thay Đại tá Trần Văn Tự.
Cũng để dự pḥng cho những ngày tác chiến sắp tới, Bộ Tư lệnh Không quân cũng vừa gởi đến, một phi cơ C-47 để tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư lệnh Hành quân.
Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài đơn vị cấp Đại đội từ khu ém quân, đánh thăm ḍ cơ cấu pḥng thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị nầy đă xâm nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với trực thăng vơ trang, yểm trợ cho một bộ phận của Tiểu đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra tiêu diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không giựt 75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1 thiết vận xa pḥng thủ phi trường bị chây. Trung tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh dũng bội tinh cho các quân nhân hữu công.
Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại tá Lương chạy xe thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát công việc pḥng thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa quđn có mặt tại đây.
Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm ḍ của địch, mặt trận vẫn đứng vững như những ngày qua. .
Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch liên tục pháo từng chập văo căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc pḥng và Trung tướng Nguyễn Văn Toăn Tư lệnh Quân đoàn 3 đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xả, nghe Tướng Nghi thuyết tŕnh t́nh h́nh và ghi nhận các đề nghị, Trung tướng Tổng trưởng Quốc pḥng tỏ vẻ chú trọng đến việc pḥng thủ Phan Rang và hứa sẽ t́m mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt.
Từ chiều trở đi, Trung tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của Bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa, theo quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ng̣i. Biết ư định của địch, Trung tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề pḥng, đặc biệt là Liên đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long.
Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua pḥng tuyến pḥng thủ của Tiểu đoàn 31 Biệt động quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu đoàn 31 đă ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và Cá Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu đoàn 11 Dù trừ và Tiểu đoàn 3 Dù, cùng với Tiểu đoàn 36 Biệt động quân vừa trám chổ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A-37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng v́ không đủ phương tiện soi sâng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A-37 bị bắn bể b́nh xăng phải về đáp. Trận nầy Không đoàn 92/Chiến thuật đă tung toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A-1 của Phi đoàn 530.
Tôi cùng Trung tá Lưu đức Thanh Phụ tá Hành quân Sư đoàn 6 KQ đích thân theo dỏi trận đánh suốt đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của không quân, kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử dụng hàng đoàn xe để đến sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, vă chiếm thị xả lúc 7 giờ sáng ngày16.4.1975.
Tại Bộ chỉ huy tiền phương, Trung tướng Nghi cũng theo dỏi trận chiến suốt đêm và không nhận được tin ǵ từ Du Long của Liên đoàn 31 Biệt động quân sau 3 giờ sáng. (Sau nầy, Thiếu tá Đào Kim Minh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 36 Biệt động quân và Thiếu tá Nguyễn văn Tú Tiểu đoăn trưởng Tiểu đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho biết không hiểu v́ lư do ǵ mà từ 2 giờ sáng không liên lạc được với Bộ chỉ huy. Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là v́ đă 3 ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miíê đụng địch nên cấp số đạn dược mang theo đă gần cạn. Đến sáng, khu vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những lần chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nh́n vào phi trường thấy đang bị pháo kích.)
Ngày 16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi trường về hướng Bắc và kho bom ở hướng Tđy. Đến khi pḥng không chúng, bắn trúng chiếc phi cơ quan sát O-1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở lại đâp khẩn cấp, th́ đồng thời chúng gia tăng số lượng pháo kích.
Lúc bấy giờ mới khoảng gần 8 giờ sáng. Đại tá Biết bổng báo cáo là Du long bị mất và địch đă vào thị xă khiến cho Trung tướng Nghi phải t́m phương thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn tướng Nhựt vừa đặt văn pḥng cạnh Văn pḥng Trung tướng Nghi, liền được mời tham gia vào việc duyệt xét t́nh h́nh. Sau đó Ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách nhiệm của đơn vị ḿnh.
Trong khi Trung đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung đoàn 5 đang pḥng ngự địch tràn lên từ thị xả, th́ bên trong căn cứ t́nh h́nh bắt đầu có chiều hướng bất lợi. Địch vẫn giữ mức độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đă rời căn cứ. C̣n lại chỉ có một số rất ít trực thăng vơ trang và tản thương ở lại đến phút chót.
Khoảng hơn 9 giơ sáng, khi trực thăng vơ trang bị hỏa tiển SA.7 bắn tại ngọn đồi gần phi trường th́ t́nh h́nh đă khá nguy ngập. Trung đoăn 4 báo cáo đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu vực Bộ Tư lệnh Tiền phương. Đến lúc nầy, Trung tướng Nghi vẫn tin tưởng văo khả năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo vệ phi trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ.
Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương và tôi để tái duyệt xét t́nh h́nh. V́ lẽ mặt trận đă bị thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để lập tuyến pḥng thủ mới tại đó, nếu địch chọc thủng được pḥng tuyến bảo vệ phi trường. Dự trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung đoàn 5.
Khoảng 10,30 giờ sáng, măi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư lệnh Tiền phương th́ Trung tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị trưởng ḿnh rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập pḥng tuyến mới. Trung tướng Nghi, Đại tá Lương, Ông Lewis chuyên viên Ṭa Đại sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền phương, Sư đoàn 6 Không quân, Lữ đoàn 2 Dù cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên đoàn 3I Biệt động quân lối 400 người rời căn cứ tiến ra cổng số 1 về hướng Nam.
Đoàn quân di chuyển trật tự đến cổng số 1 khoảng 11 giờ, để cùng đi với Trung đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, v́ không liên lạc được với Chuẩn tướng Nhựt, nên Trung tướng Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo đường từ Tour Cham đến ngă ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ Đức lúc 12 giờ trưa.
Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu đoàn 3 Dù lần xuống băi biển, tẻ sâu về hướng Nam và không c̣n thấy Giang đoàn 27, chiến hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tău nào khác tại cảng Ninh Chử. Đến một băi cát xa hơn về hướng Nam của thị xả, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán quân địch khác đến bao vây. Sau khi thoát ṿng vây với ít nhiều tổn thất, Tiểu đoàn 3 Dù được một đoàn trực thăng, bốc về an toăn. (Đoàn trực thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ tư lệnh tiền phương, nhưng v́ Trung tướng Nghi không thuận cho đáp v́ lư do an toàn băi đáp, nên trên đường trở về, mới bốc được toán Dù trên.)
Tiểu đoàn 11 Dù c̣n lại rút được qua sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở Thôn Phú Qúy về được an toăn.
Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh với một ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên đường rút lui. Đại tá Lê Thương, Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 2 Bộ binh, trên đường rút về An Phước nơi có Trung đội Pháo binh đang trú đóng, cũng gặp địch đă đóng làm nút chận tại đây rồi,
Tại phi trường, khi đoàn quân của Trung tướng Nghi di chuyển khá xa, th́ Sư đoàn 325 VC phối họp với Sư đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và chiếm phi trường lúc 11,30 giờ trưa.
Thiệt hại của Sư đoăn 6 không quân rất đáng kể v́ mất toàn bộ kho bom đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại không bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A-37 rớt, 4 A-37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực thăng bị bắn nhưng về đáp được an toàn.
Hải quân ta chỉ có một số ít Giang thuyền bị ch́m và một chiến hạm bị pháo.
Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung tướng Nghi được toán truyền tin của Đại tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân vă thân nhân nên khó bóc hết được, vả lại khi trực thăng đến, khó ḷng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. V́ vậy Trung tướng Nghi quyết định v́ sự an toàn cho đồng đội, từng khổ cực chiến đấu với nhau mà không v́ an toàn cho bản thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đâp, và chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn về phía Nam.
Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa th́ bị phục kích. Trung tướng Nghi, Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, v́ làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4.1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975, Trung tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992.
IV. KẾT LUẬN
Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 16.3.1975 đến tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22.3.1975 được lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với sanh hoạt địa phương th́ phải đương đầu với nhiều nổi ưu lự kể từ lúc Nha Trang rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn thể quân nhân Sư doăn 6 Không quân đă khắc phục bao khó khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không quân bổng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như bộ binh.
Địa phương quđn và Nghĩa quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ Giáo xứ Hồ Diêm được an toàn là một thí dụ.
Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 Trung đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân hảy c̣n hoang mang, dao động v́ lo lắng cho thân nhân c̣n kẹt lại khi đơn vị vội vả rút lui, nhưng cũng đă cố gắng tham dự.
Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52, chứng minh được cái tinh thần của người chiến sĩ mũ nâu, mặc dầu sau những trận đánh ác liệt tại Chơn Thành được điều động thẳng ra Phan Rang, không có một ngày nghĩ dưỡng quân, cũng như không được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ.
Lữ đoăn 2 Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 và 11 cùng Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù đă chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin tưởng của nhiều người, quả xứng đáng là những đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Với những đơn vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho việc pḥng thủ, đáng lư Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được.
Chiếm được Phan Rang, địch mới có lư do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lư ra theo dự trù, chúng chỉ có thể tung ra vào năm 1976 thay v́ năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đê tuyên bố tại Cuba: ” Khi chiếm được Phan Rang th́ coi như chiếm được miền Nam.” Lời tuyên bố nầy chứng minh được việc chọn pḥng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quđn lực Việt Nam Cộng Ḥa. Việc mất Phan Rang quả đúng là một tổn thất quá lớn cho công cuộc bảo vệ Miền Nam vậy.
Đă hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể c̣n nhớ đầy đủ các diễn biến liên quan đến việc pḥng thủ Phan Rang. Tôi đă tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc một vài thân hữu. Cộng với kư ức, tôi đă cố gắng ghi lại trong bài viết nầy mọi hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều thiếu sót.
Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002
Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Từ cuộc đời của một chú Tiểu đến tuổi bút nghiên, sang đời binh nghiệp, đánh giặc, anh hùng mạt lộ bị bắt làm tù binh, rồi vượt ngục, vượt biên lưu vong làm bố sắp nhỏ… và sau cùng trở thành nhà sư Phật Giáo. Nhất định Thầy Huệ Quang có rất nhiều kinh nghiệm cuộc sống. Thầy sẽ hoan hỷ chia sẻ với mọi anh chị em cựu quân nhân chúng ta nói riêng và những ai thích thú nghe về những chia sẻ của thầy,… những kinh nghiệm mà thầy đă từng trải và sự hiểu biết về đạo Phật của thầy ...–BKT
*******
“Hai h́nh ảnh. Một đời người” của Biệt Cách 81 dù Ngô Nhựt Tân.
... Tôi sanh ra tại Phan Thiết. Năm 8 tuổi mẹ cho vào chùa tu học, “để tránh cho con khỏi đi lính sau này,” bà nói với tôi như thế. Cha tôi là một cán bộ tập kết lúc tôi vừa tṛn một tuổi, theo chân Hồ Chí Minh với một ước vọng điên rồ là đẩy đất nước vào thiên đường xă hội chủ nghĩa.
Trong đời tu hành, tôi may mắn gặp được một vi minh sư, Thầy Thích Châu Đức, giảng sư Tỉnh Hội Phật Học Phan Thiết. Thầy tôi thuộc ḍng Thiên Minh, Huế, đệ tử của Ḥa Thượng Thích Quảng Huệ, nên đặt pháp danh cho tôi là Quảng Hạnh. Tôi gọi Ḥa Thượng Thích Măn Giác, hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, là sư bác. Ông mất năm 2009. Thầy tôi có một lời nguyền là không bao giờ nhận đệ tử, nhưng v́ mẹ tôi có công với đạo pháp – bà giúp việc Phật sự cho chùa nhiều năm và chính thức vào sống hẳn trong chùa từ năm 1968 – thầy đă nhận tôi làm người đệ tử duy nhất. Tôi được đưa về làm điệu tại chùa Thiên Minh, ngoài Huế, nên tôi đọc kinh rất ư là Huế và rành rơi việc kinh kệ và tán tụng. Năm 1966, thầy gửi tôi vào tu học tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, tại đây tôi được cạo cái chỏm tóc mà tôi rất ư là ghét và đă thọ sa di giới trong một đại giới đàn do Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết chứng minh. Năm 1968, tôi rời viện vào Sài G̣n tiếp tục việc học.
Năm 1970, tôi chính thức bỏ áo tu và năm 1971 gia nhập khóa 4/71 Thủ Đức/Sĩ Quan Trừ Bị QLVNCH. Ngày 29 Tháng Bảy năm1972 tôi măn khóa, mang cấp bậc chuẩn úy và phục vụ tại Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Tháng Giêng năm 1975, tôi thuyên chuyển về Sư Đoàn Nhảy Dù, phục vụ tại Tiểu Đoàn 5, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cho đến ngày đơn vị tan hàng tại mặt trận Khánh Dương. Tôi chạy vào được gần Phan Rang th́ bị bắt và nhốt tại trại cải tạo Cà Tót. Năm 1978, tôi cùng một số lớn tù cải tạo được tạm thả và được đưa về Phan Thiết điều trị bệnh, v́ quá nhiều tù nhân đă chết v́ một chứng bệnh kỳ quái không tên khi ở trong khu rừng thiêng nước độc Cà Tót.
Khi được lệnh triệu tập của Việt Cộng để trở lại học tập cải tạo, tôi đă cướp ghe và cùng một số cựu quân nhân vượt biển, đến được bờ tự do sau bốn ngày lênh đên trên biển Thái B́nh Dương. Tháng Mười Hai năm 1978 tôi định cư tại Canada. Năm 1979, tôi lấy vợ và có hai con, một trai một gái.
Tôi trở lại sinh hoạt với chùa chiền năm 1980 v́ dân tỵ nạn tại Ottawa cùng góp công góp của xây chùa, nhưng không ai biết kinh kệ một cách chuyên nghiệp như tôi.
Đại Đội 4 Xung kích/LĐ81BCD, người đầu tiên trong ảnh này là MĐ Ngô Nhựt Tân, hiện nay là nhà sư Huệ Quang.
Tôi làm trong nghành computer sau khi học xong college. Tôi dốt về kỹ thuật lắm nhưng phải chịu đấm ăn xôi để đem pay cheques về cho vợ nuôi các con. Biết ḿnh sẽ không sống sót lâu trong lănh vực điện toán, tôi túc ta túc tắc lấy courses ban đêm, năm 2002 tôi hoàn tất được cử nhân tâm lư.
Vợ con lúc này cũng khá ổn định về nghề nghiệp và học vấn, tôi xin phép vợ đi tu. May thay, mặc dù là một người Công Giáo gốc, bà hỗ trợ cho việc trở lại con đường tu tập của tôi. Tôi phục vụ cộng đồng một thời gian, và nhờ t́m ṭi nghiên cứu, tôi thấy ḿnh thích hợp với truyền thống nguyên thủy hơn là đại thừa. Tôi khăn gói đi Miến Điện (Myanmar tức nước Burma cũ) thọ tỳ kheo giới bên đó, lưu lại tu học cho đến khi thầy cho phép trở lại quê nhà Canada để trao truyền lại pháp môn thiền định Vipassana theo truyền thống Miến Điện.
Năm 2014, tôi học xong cao học nghành Tôn Giáo và Chính Trị. Năm 2016, tôi nhận được học bổng để theo học PhD Khoa Chính Trị tại Đại Học Carleton. Hiện nay, tôi vừa học vừa dạy về chính trị cho sinh viên năm thứ nhất và năm thứ nh́ cũng tại Đại Học Carleton, Ottawa, Canadahttps://carleton.ca/polisci/people/tan-ngo/
Ngoài ra, tôi cũng đang dạy thiền và Phật pháp cho Phật tử tại chùa Tích Lan. Riêng ngôi chùa Từ Ân là nơi tôi đang sinh hoạt thường xuyên, ngoài việc lo cho phật tử việc kinh kệ và thiền định, tôi c̣n phụ trách việc giảng dạy cho sinh viên và học sinh trung học thường xuyên đến chùa để tham khảo và nghiên cứu về đạo Phật.
Theo Triết học về Tôn giáo (Philosophy of Religion, William L. Rowe, second edition, Wadsworth Publishing, 1993), từ khi có con người, v́ cảm thấy ḿnh quá nhỏ bé, và khiếp sợ thiên nhiên, nên ở đâu cứ thấy núi th́ thờ thần núi, sông th́ thờ thần sông, hễ thấy cái ǵ ngoài tầm hiểu biết th́ cứ thế mà thờ lạy. Tôn giáo v́ thế, không thể tồn tại ngoài con người v́ từ con người mà ra. This exists because that exists.
Trong Phật Giáo có câu “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác,” có nghĩa là ta phải t́m Phật pháp ngay trong cuộc sống của chúng ta, nếu bỏ thế gian này để đi t́m sự giác ngộ th́ chẳng thể nào t́m ra được. Nói đến đạo Phật chúng ta cần phải nghĩ đến cái gọi là Buddhism Engagement, có nghĩa là đạo Phật đi vào cuộc đời. Đạo Phật không thể tồn tại được nếu chúng ta cứ theo một khuôn ṃn lối cũ; đó là ê a tụng niệm kinh kệ bằng tiếng Hán. Đạo Phật cũng không thể phát huy bên Tây phương được nếu cứ nh́n đạo Phật qua một lăng kính mê tín dị đoan.
Đạo Phật rất đơn giản. Sự giác ngộ nằm trong tầm tay của người thực hành, và ngay trong cuộc sống hàng ngày. An lạc và hạnh phúc có mặt chung quanh chúng ta; hàng ngày, hàng giờ chúng ta nh́n nhưng không thấy được chúng. Một Phật tử hỏi tôi “tại sao con cứ khổ hoài trong khi con đi chùa thường xuyên và bố thí nhiều lắm, có phải điều Phật dạy khó thực hành lắm phải không thầy?” Tôi trả lời, chúng ta không làm được điều Phật dạy v́ điều ngài dạy đơn giản quá.
Chúng ta có khuynh hướng đi t́m những điều linh thiêng hay phép mầu từ chư Phật để cầu xin. Phật thua xa David Copperfield, một nhà ảo thuật lớn mà thế giới ai cũng biết tên, v́ ngài không làm được những điều của Copperfield. Ngài không thể ngồi một chỗ búng hay khảy móng tay, móng chân và làm cho chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới như chúng ta thường nghe mấy thầy giảng dạy, cho dù có nhiều vị cũng cố giảng nghĩa qua một lăng kính khác, để phật tử nghe dễ chấp nhận hơn. Ngài chỉ thở, nhưng thở từ ngày này qua ngày khác, tháng nọ sang tháng kia, với một sự tỉnh thức trong từng giây phút. Phật đă dạy một con đường đơn giản, nhưng chúng ta không chịu đi, chỉ v́ chúng ta c̣n nhiều ham muốn trong cuộc đời. Nếu có người chịu đi th́ họ lại thiếu kiên nhẫn hay thiếu nỗ lực bỏ dở nửa chừng. Tôi thường nhắc nhở phật tử “đạo Phật là đạo để nếm chứ không phải đạo để nói.”
Có nhiều người nói rất văn hoa, trôi chảy v́ đạo Phật cho họ những điều kiện tốt để họ nói, nào là kinh, luận này luận nọ, nào là duy thức tông, nào là hoa nghiêm tông, nào là thiền tông. Nhưng khi nói động đến họ th́ họ nổi cơn tự ái như một kẻ điên. Mớ lư thuyết của đạo Phật mà họ đọc được tự dưng biến mất, lúc ấy chẳng có ǵ ngoại trừ một cái ngă to tướng…
Tôi nói với những người Phật tử Tích Lan, “Có một cái thước để đo sự tu tập của quư vị. Nếu ai nói động đến quư vị mà quư vị nổi điên lên, hay chỉ một chút bực ḿnh nhỏ, quư vị nên nhận biết là quư vị đă tu sai rồi và phải bắt đầu trở lại từ con số không. Nếu nhận biết ḿnh không hờn giận khi người khác nói động đến ḿnh, đừng tự măn, phải tiếp tục con đường tu tập v́ đường tu tập giống như đi ngược ḍng nước, nhiều chông gai và nặng nề lắm. ”
Nếu các bạn muốn đi t́m một vị thầy để nương tựa tu tập, không cần phải đi t́m một cao tăng, nhưng hăy t́m một thanh tịnh tăng.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
EM BÉ GÁI TRÊN ĐẠI LỘ KINH HOÀNG CỦA MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972
Em bé ngày xưa, nay là Trung Tá Kimberly M. Mitchell
Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, một em bé 4 tháng tuổi nằm trên xác mẹ trên Đại Lộ Kinh Hoàng; em đang trườn người trên bụng mẹ t́m vú để bú nhưng mẹ đă chết từ bao giờ. Một người lính Quân Cụ chạy ngang, bồng em bé bỏ vào chiếc nón lá rồi chạy qua cầu Mỹ Chánh, trao lại cho một Thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân.
Bao năm trôi qua, em bé mồ côi mẹ nay trở thành Trung Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ c̣n người Thiếu úy TQLC sang Hoa Kỳ theo diện HO nay đang định cư tại tiểu bang New Mexico. Hai người vừa gặp nhau sau 41 năm bặt vô âm tín. Ngày Thứ Ba 2 tháng 4, 2013 vừa qua, nhân dịp sang California dự lễ cưới, người Thiếu Úy TQLC này đă kể cho phóng viên Viễn Đông câu chuyện cảm động và ly kỳ ngay tại khách sạn nơi ông đang tạm cư ngụ.
Người Thiếu Úy TQLC tên là Trần Khắc Báo. Vào thời điểm 1972 ông c̣n độc thân và phục vụ tại Đại Đội Vận Tải Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được biệt phái sang Pḥng 4 của Sư Đoàn làm sĩ quan phụ trách chuyển vận. Vào sáng 1 tháng 5 năm 1972, Thiếu Úy Báo được lệnh cấp trên, cùng một số đồng đội mở cuộc hành quân để giúp di chuyển Tiểu Đoàn 7 TQLC ra khỏi vùng vừa bị thất thủ thuộc tỉnh Quảng Trị v́ một số đông quân nhân bị thất lạc không t́m thấy vị chỉ huy của họ. Ngoài ra, ông cũng xin lệnh giúp di tản các Quân, Dân, Cán, Chính khác đang t́m đường chạy về phía nam sông Mỹ Chánh là nơi quân đội VNCH c̣n đang trấn giữ; ông được cấp trên chấp thuận.
Khi đơn vị ông đến cầu Mỹ Chánh (Quảng Trị) th́ nơi đây là pḥng tuyến cuối cùng của VNCH để ngăn chặn quân Bắc Việt tràn xuống phía Nam. Ông đă chỉ huy 20 quân xa GMC thực hiện cấp tốc cuộc di tản suốt ngày. Đến khoảng 4 hay 5 giờ chiều ông Trần Khắc Báo nh́n thấy thấp thoáng bên kia cầu c̣n một người đang ôm chiếc nón lá thất thểu đi qua với dáng điệu hết sức mỏi mệt. Ông định chạy qua giúp người này nhưng vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 TQLC đang trách nhiệm trấn giữ tại đó la lớn:
“Cây cầu tao đă gài ḿn, có thể nổ và sẵn sàng phá hủy khi thấy chiến xa Việt Cộng xuất hiện, đừng chạy qua, mày sẽ bị bỏ lại bên đó không về lại được đâu nghe!”
Ông cố nài nỉ:
“Đại Bàng chờ em một chút, cho em cứu người cuối cùng này.”
Và ông chạy đến đưa người này qua cầu. Thấy người này đi không nổi, thất tha thất thểu mà tay c̣n cố ôm ṿng chiếc nón lá, Thiếu Úy Báo nói đùa:
“Đi không nổi mà c̣n mang theo vàng bạc châu báu ǵ nữa đây cha nội?”
Người ôm ṿng chiếc nón lá nói:
“Em là lính Quân Cụ thuộc Tiểu Khu Quảng Trị, trên đường chạy về đây em thấy cảnh tượng hết sức thương tâm này, mẹ nó đă chết từ bao giờ không biết và nó đang trườn ḿnh trên bụng mẹ nó t́m vú để bú, em cầm ḷng không được nên bế nó bỏ vào chiếc nón lá mang đến đây trao cho Thiếu Úy, xin ông ráng cứu nó v́ em kiệt sức rồi, không thể đi xa được nữa và cũng không có cách ǵ giúp em bé này.”
Nói xong anh ta trao chiếc nón lá có em bé cho thiếu úy Báo.
Ngừng một chút, ông Báo nói với chúng tôi:
“Ḿnh là người lính VNCH, ḿnh đă được huấn luyện và thuộc nằm ḷng tinh thần ‘Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm’ nên lúc đó tôi nghĩ trách nhiệm của ḿnh là lo cho dân nên tôi nhận đứa bé và nói với người lính Quân Cụ: ‘Thôi được rồi, để tôi lo cho nó, c̣n anh, anh cũng lo cho sức khỏe của anh, lên GMC đi để chúng tôi đưa anh về vùng an toàn.’”
Sau đó, người sĩ quan TQLC ôm em bé leo lên chiếc xe Jeep chạy về Phong Điền, cách đó khoảng 20 cây số. Trên đường đi, ông Báo cảm thấy rất bối rối v́ em bé khóc không thành tiếng v́ đói, khát mà ông th́ c̣n là một thanh niên trẻ (lúc đó mới 24 tuổi) chưa có kinh nghiệm ǵ nên ông hỏi người tài xế, bây giờ phải làm sao? Người tài xế tên Tài trả lời:
“Ông thầy cho nó bú đi! Ông thầy không có sữa th́ lấy bi đông nước chấm đầu ngón tay vào nước để vào miệng nó cho nó bú.”
Ông Báo làm theo lời chỉ và em bé nín khóc rồi nằm im cho đến khi ông đưa em vào Pḥng Xă Hội của Lữ Đoàn TQLC. Tại đây, gặp Thiếu tá Nhiều, Trưởng Pḥng 4 TQLC, ông trao em bé cho Thiếu tá Nhiều và nói:
“Thiếu tá, tôi có lượm một em bé ngoài mặt trận, xin giao cho Thiếu tá.”
Ông này nh́n ông Báo cười và nói:
“Mày đi đánh giặc mà c̣n con rơi con rớt tùm lum!”
Ông Báo thanh minh:
“Không! Tôi lượm nó ngoài mặt trận; nó đang nằm trên xác mẹ nó.” Thiếu tá Nhiều bảo:
“Thôi, đem em bé giao cho Pḥng Xă Hội để họ làm thủ tục lo cho nó.” Sau đó, ông Báo đưa em bé cho một nữ quân nhân phụ trách xă hội. Cô này nói với ông:
“Thiếu úy giao th́ Thiếu úy phải có trách nhiệm, v́ em bé này ở ngoài mặt trận th́ Thiếu úy phải cho nó cái tên và tên họ Thiếu úy nữa để sau này nó biết cội nguồn của nó mà t́m.”
Lúc đó, ông c̣n độc thân nhưng trong thâm tâm ông vốn nghĩ rằng sau này khi ông cưới vợ, nếu có con gái ông sẽ đặt tên là Bích, nếu con trai ông sẽ đặt tên là Bảo, nên sau khi nghe người nữ quân nhân nói, ông Báo đặt ngay cho em bé cái tên là Trần Thị Ngọc Bích.
Sau đó ông trở về đơn vị và cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt cho tới tháng 3/1975, đơn vị ông bị thất thủ cùng Lữ Đoàn 2 TQLC ở Huế và ông Báo bị bắt làm tù binh. Măi đến năm 1981 ông được thả về. Tháng 9/1994 ông được sang định cư tại thành phố Albuqueque, tiểu bang New Mexico…
EM BÉ MỒ CÔI GẶP MAY MẮN
Em bé Trần Thị Ngọc Bích được Pḥng Xă Hội Sư Đoàn TQLC đem đến Cô Nhi Viện Thánh Tâm Đà Nẵng giao cho các D́ Phước chăm sóc. Số hồ sơ của em là 899.
Một hôm có ông Trung Sĩ Hoa Kỳ thuộc binh chủng Không Quân phục vụ tại phi trường Đà Nẵng tên là James Mitchell vô Cô Nhi Viện xin nhận một trong các em tại đây làm con nuôi. Em Trần Thị Ngọc Bích may mắn lọt vào mắt xanh của ông James Mitchell và trở thành thành viên của gia đ́nh này từ đó đến nay.
Sau khi rời khỏi binh chủng Không Quân, ông James Mitchell trở về Hoa Kỳ vào cuối năm 1972. Ông quyết định mang theo đứa con nuôi Trần Thị Ngọc Bích, lúc đó em mới được 6 tháng.
Hai ông bà Mitchell đặt tên Mỹ cho em là Kimberly Mitchell. Em ở tại trang trại của gia đ́nh tại Solon Springs, tiểu bang Wisconsin. Kimberly Mitchell lớn lên tại đây và được bố mẹ nuôi rất thương yêu, coi như con ruột. Em được đi học, tham gia thể thao và vào hội thanh niên. Lớn lên em vừa đi học vừa phụ giúp cha mẹ nuôi ḅ và làm phó mát. Cái tên Trần Thị Ngọc Bích đă bị quên lăng từ đó, và Kimberly Mitchell cho biết, mỗi khi nghe ai nói ǵ về Việt Nam, cô thường tự hỏi, Việt Nam là đâu nhỉ?
Khi đă có trí khôn, Kimberly Mitchell nhận thấy ḿnh không phải người Mỹ như bố mẹ, không phải con lai, không phải người Tàu. Cô không biết ḿnh là người nước nào và cứ mang cái thắc mắc đó măi mà không ai có thể trả lời cho cô.
Một hôm, Kimberly Mitchell đánh bạo hỏi bố:
“Con muốn biết con người ǵ, nguồn gốc con ở đâu? Tại sao con lại là con bố mẹ?”
Bố nuôi James giải thích cho cô:
“Con là người Việt Nam, bố mẹ xin con từ trong viện mồ côi ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nếu con muốn t́m nguồn cội của con, con có thể về Đà Nẵng, may ra t́m được tông tích của gia đ́nh con.”
Ngay từ khi Kimberly c̣n học lớp ba, bố nuôi em đă muốn sau này cho Kimberly gia nhập Không Quân nhân khi cô được chọn tham dự hội thảo về
nghệ thuật lănh đạo dành cho những học sinh xuất sắc. Nhưng rồi định mệnh xui khiến, cô lại theo Hải Quân. Trong thời gian theo học, Kimberly Mitchell phải bỏ học một năm v́ bố nuôi qua đời năm 1991 trong một tai nạn tại trang trại của gia đ́nh. Sau đó cô trở lại trường và tiếp tục học. Năm 1996 cô tốt nghiệp Cơ Khí Hàng Hải và phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ và hiện nay mang cấp bậc Trung Tá, Phó Giám Đốc Văn Pḥng Trợ Giúp Quân Nhân và Thân Nhân tại Ngũ Giác Đài.
Trung Tá Kimberly Mitchell
Năm 2011, Kimberly Mitchell trở về cố hương với tư cách một nữ Trung Tá Hải Quân, Quân Lực Hoa Kỳ, mong gặp lại người thân. Đến Viện Nuôi Trẻ Mồ Côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng, cô may mắn gặp được Sơ Mary, người tiếp nhận cô năm 1972 từ một nữ quân nhân Pḥng Xă Hội Sư Đoàn TQLC. Giây phút thật cảm động, nhưng Kimberly chỉ được Sơ Mary cho biết:
“Lúc người ta mang con tới đây, con mới có 4 tháng và họ đặt tên con là Trần Thị Ngọc Bích. Họ nói mẹ con đă chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng, con được một người lính VNCH cứu đem đến đây giao cho Cô Nhi Viện rồi đi mất, v́ lúc đó chiến tranh tàn khốc lắm.”
Kimberly không biết ǵ hơn và cô quay trở lại Mỹ. Sau khi đă biết ḿnh là người Việt Nam, thỉnh thoảng cô viết trên website câu chuyện của ḿnh.
GẶP LẠI CỐ NHÂN
ông Trần Khắc Báo trong ngày hội ngộ
Ông Trần Khắc Báo đưa cho chúng tôi xem một số h́nh ảnh, một số báo tiếng Việt và mấy tờ báo tiếng Anh đăng h́nh cuộc gặp gỡ giữa gia đ́nh ông và cô Trần Thị Ngọc Bích, và nói:
“Sau khi ra tù Việt Cộng, tôi cũng cố t́m hiểu xem em bé Trần Thị Ngọc Bích nay ra sao, kể cả người lính Quân Cụ năm xưa, nhưng tất cả đều bặt vô âm tín. Một hôm t́nh cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Trúc Giang trên tờ Việt Báo Hải Ngoại số 66 phát hành tại New Jersey, tác giả kể lại câu chuyện đi Mỹ của một em bé trong cô nhi viện Đà Nẵng mang tên Trần Thị Ngọc Bích. Đọc xong tôi rất xúc động pha lẫn vui mừng, v́ có thể 80, 90% cô Ngọc Bích đó là do ḿnh cứu và đặt tên cho cô.”
Sau đó, ông nhờ người bạn tên là Đào Thị Lệ làm việc trong New York Life, có chồng người Mỹ và có em cũng ở trong Hải Quân Hoa Kỳ, liên lạc t́m kiếm Mitchell. Và chính cô Đào Thị Lệ là người đầu tiên trực tiếp nói chuyện với Trần Thị Ngọc Bích đang làm việc tại Ngũ Giác Đài.
Theo ông nghĩ, có thể cô Mitchell bán tín bán nghi, không biết chuyện này có đúng không hay là chuyện “thấy người sang bắt quàng làm họ” như ông cha ḿnh thường nói. Nhưng sau khi nói chuyện với ông Trần Khắc Báo, Mitchell quyết định tổ chức một cuộc hội ngộ trước các cơ quan truyền thông. Cô xin phép đơn vị và mời được 7 đài truyền h́nh cùng một số phóng viên báo chí từ Washington, D.C cũng như nhiều nơi về tham dự.
Cuộc hội ngộ, theo ông Báo cho biết, hoàn toàn do cô Kimberly Mitchell quyết định, địa điểm là trụ sở Hội Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Mexico vào Thứ Sáu, ngày 29.8.2012. Cô đến phi trường vào tối Thứ Năm 28.8, gia đ́nh ông Báo ngỏ ư ra phi trường đón nhưng cô cho cô Đào Thị Lệ biết là cô không muốn gia đ́nh đón ở phi trường cũng như đưa vào khách sạn. Cô muốn dành giây phút thật cảm động và ư nghĩa này trước mặt mọi người, đặc biệt là trước mặt các cơ quan truyền thông, và cô muốn ông Báo mặc bộ quân phục TQLC như khi ông tiếp nhận cô đưa đến Pḥng Xă Hội Sư Đoàn TQLC cách nay 41 năm.
GIÂY PHÚT XÚC ĐỘNG
Gia đ́nh ông Trần Khắc Báo gồm vợ và con gái cùng có mặt. Khi ông Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hỏi cô Kimberly Mitchell:
“Cô đến đây t́m ai?”
Cô trả lời:
“Tôi muốn t́m ông Trần Khắc Báo.”
Vị Chủ Tịch quay sang ông Báo đang mặc quân phục và giới thiệu:
“Đây là ông Trần Khắc Báo.”
Lập tức, Kimberly Mitchell Trần Thị Ngọc Bích tiến lại ôm lấy ông Báo và cả hai cùng khóc nức nở.
Giây phút xúc động qua đi, cô Kimberly hỏi ông Trần Ngọc Báo:
“Ông là người đă cứu mạng tôi, tôi mới có ngày hôm nay; tôi xin cám ơn ông, và bây giờ ông muốn ǵ ở tôi?”
Ông Trần Khắc Báo nói :
“Thực sự bây giờ tôi chỉ muốn cô nói với tôi một lời bằng tiếng Việt, cô hăy kêu tôi là “Tía”. V́ tất cả các con tôi đều gọi tôi bằng Tía, tôi xem cô cũng như con tôi, tôi chỉ mong điều đó.”
Và Kimberly Mitchell đã gọi “Tía”.
Ông nói với chúng tôi:
“Bấy giờ tôi thực sự măn nguyện.”
Trả lời các câu hỏi của chúng tôi, ông Trần Khắc Báo cho biết, cô Kimberly chưa lập gia đ́nh và cô có hứa sẽ thường xuyên liên lạc với gia đ́nh ông. Ông có nhắc cô Kimberly điều này, rằng cô không phải là đứa trẻ bị bỏ rơi. Cô đă được những người lính VNCH có tinh thần trách nhiệm cứu sống trên bụng mẹ cô đă chết, và chính ông đă đặt tên cho cô là Trần Thị Ngọc Bích. Ông cũng mong rằng sau này, cô có thể trở lại Quảng Trị, may ra có thể t́m ra tung tích cha cô hoặc người thân của ḿnh. Ông Trần Khắc Báo cũng cho biết, ông mất liên lạc với người lính Quân Cụ từ lúc hai người giao nhận đứa bé đến nay.
Trong cuộc hội ngộ, trả lời câu hỏi của các phóng viên Hoa Kỳ, nữ Trung Tá Kimberly Mitchell cho biết, cô có hai cái may. Cái may thứ nhất là cô được t́m thấy và mang tới trại mồ côi. Cái may thứ hai là được ông bà James Mitchell bước vào trại mồ côi và nói với các Sơ rằng, ông muốn nhận em bé này làm con nuôi.”
Câu chuyện sau 41 năm kết thúc tốt đẹp, cô Trần Thị Ngọc Bích đúng là viên ngọc quư trên Đại Lộ Kinh Hoàng như ư nguyện của người đă cứu mạng em, v́ chính cô đă làm vẻ vang cho dân tộc Việt khi cố gắng học hành để trở nên người lănh đạo xuất sắc trong Quân Lực Hoa Kỳ, một quân lực hùng mạnh vào bậc nhất thế giới.
Người quân nhân binh chủng Quân Cụ và người sĩ quan TQLC Trần Khắc Báo đă thể hiện tinh thần của một quân nhân Quân Lực VNCH, luôn đặt Tổ Quốc – Danh Dự và Trách Nhiệm trên hết.
THANH PHONG
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 8 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tao bị thương hai chân,
Cưa ngang đầu gối !
Vết thương c̣n nhức nhối.
Da non kéo chưa kịp lành...
Ngày " Giải phóng Miền nam "
Vợ tao " Ẵm " tao như một đứa trẻ sơ sanh...!
Ngậm ngùi rời " Quân-Y-Viện "
Trong ḷng tao chết điếng,
Thấy người lính Miền bắc mang khẩu súng AK !
Súng " Trung cộng " hay súng của " Nga " ?
Lúc này tao đâu cần chi để biết.
Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do Miền nam
-Nước Việt,
Mang chữ " NGỤY " thương binh.
Nên " Người anh,em phía bên kia..."
Đối xử với tao không một chút thân t́nh...!
Mày biết không !
Tao t́m đường về quê nh́n không thấy ánh b́nh minh.
Vợ tao: Như " Thiên thần" từ trên trời rơi xuống...
Nh́n hai đứa con ngồi trong căn cḥi gió cuốn,
Bụi đất đỏ mù bay !
Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay,
Làm sao " Ôm " nổi bốn con người trong cơn gíó lốc.
Cái hay là: Vợ tao giấu đi đâu tiếng khóc.
C̣n an ủi cho tao, một thằng lính què !
Tao đóng hai cái ghế thấp, nhỏ bằng tre,
Làm "Đôi chân" ngày ngày đi lại
Tao quét nhà; nấu ăn; giặt quần; giặt áo...
Cho heo ăn thật là "Thoải mái" !
Lê lết ra vườn: Nhổ cỏ, bón phân
Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi
Bông trổ trắng ngần !
Lên liếp trồng rau, thân tàn tao làm nốt.
Phụ vợ đào ao sau vườn, rồi thả nuôi cá chốt.
Đời lính gian nan sá ǵ chuyện gíó sương...
Xưa, nơi chiến trường
Một thời ngang dọc.
Cụt hai chân. Vợ tao hay tin nhưng không "Buồn khóc"!
Vậy mà bây giờ...
Nh́n tao...nuớc mắt bả....rưng rưng !
Lâu lắm, tao nhớ mầy qúa chừng.
Kể từ ngày, mày "Được đi Cải tạo"!
Hàng thần lơ láo - Xa xót cảnh đời...
Có giúp được ǵ cho nhau đâu khi:
Tất cả đều tả tơi !
Rồi đến mùa "H.O"
Mầy đi tuốt tuột một hơi.
Hơn mười mấy năm trời...
Không thèm quay trở lại
Kỷ niệm đời Chiến binh
Một thời xa ngái.
Những buổi chiều ngồi hóng gió nhớ...buồn hiu !
Mai mốt mầy có về thăm lại Việt nam
Mầy sẽ là "Việt kiều"!
C̣n "Yêu nước" hay không - Mặc kệ mầy.
Tao đếch biết !
Về, ghé nhà tao.Tao vớt cá chốt lên chưng với tương...
C̣n rượu đế tự tay tao nấu
Cứ thế, hai thằng ḿnh uống cho đến...điếc !
Trang Y Hạ
The Following 7 Users Say Thank You to tbbt For This Useful Post:
Tao bị thương hai chân,
Cưa ngang đầu gối !
Vết thương c̣n nhức nhối.
Da non kéo chưa kịp lành...
Ngày " Giải phóng Miền nam "
Vợ tao " Ẵm " tao như một đứa trẻ sơ sanh...!
Ngậm ngùi rời " Quân-Y-Viện "
Trong ḷng tao chết điếng,
Thấy người lính Miền bắc mang khẩu súng AK !
Súng " Trung cộng " hay súng của " Nga " ?
Lúc này tao đâu cần chi để biết.
Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do Miền nam
-Nước Việt,
Mang chữ " NGỤY " thương binh.
Nên " Người anh,em phía bên kia..."
Đối xử với tao không một chút thân t́nh...!
Mày biết không !
Tao t́m đường về quê nh́n không thấy ánh b́nh minh.
Vợ tao: Như " Thiên thần" từ trên trời rơi xuống...
Nh́n hai đứa con ngồi trong căn cḥi gió cuốn,
Bụi đất đỏ mù bay !
Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay,
Làm sao " Ôm " nổi bốn con người trong cơn gíó lốc.
Cái hay là: Vợ tao giấu đi đâu tiếng khóc.
C̣n an ủi cho tao, một thằng lính què !
Tao đóng hai cái ghế thấp, nhỏ bằng tre,
Làm "Đôi chân" ngày ngày đi lại
Tao quét nhà; nấu ăn; giặt quần; giặt áo...
Cho heo ăn thật là "Thoải mái" !
Lê lết ra vườn: Nhổ cỏ, bón phân
Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi
Bông trổ trắng ngần !
Lên liếp trồng rau, thân tàn tao làm nốt.
Phụ vợ đào ao sau vườn, rồi thả nuôi cá chốt.
Đời lính gian nan sá ǵ chuyện gíó sương...
Xưa, nơi chiến trường
Một thời ngang dọc.
Cụt hai chân. Vợ tao hay tin nhưng không "Buồn khóc"!
Vậy mà bây giờ...
Nh́n tao...nuớc mắt bả....rưng rưng !
Lâu lắm, tao nhớ mầy qúa chừng.
Kể từ ngày, mày "Được đi Cải tạo"!
Hàng thần lơ láo - Xa xót cảnh đời...
Có giúp được ǵ cho nhau đâu khi:
Tất cả đều tả tơi !
Rồi đến mùa "H.O"
Mầy đi tuốt tuột một hơi.
Hơn mười mấy năm trời...
Không thèm quay trở lại
Kỷ niệm đời Chiến binh
Một thời xa ngái.
Những buổi chiều ngồi hóng gió nhớ...buồn hiu !
Mai mốt mầy có về thăm lại Việt nam
Mầy sẽ là "Việt kiều"!
C̣n "Yêu nước" hay không - Mặc kệ mầy.
Tao đếch biết !
Về, ghé nhà tao.Tao vớt cá chốt lên chưng với tương...
C̣n rượu đế tự tay tao nấu
Cứ thế, hai thằng ḿnh uống cho đến...điếc !
Trang Y Hạ
Đọc bài thơ Trang-Y-Hạ....như thấy tim ḿnh đang chảy máu....:11 2::thankyo u:
The Following 7 Users Say Thank You to trungthu For This Useful Post:
Công ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ tŕnh của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời có lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cơi đời, cho đến những chiếc phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.
Cái khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái xe chậm lại và không khỏi liếc nh́n vào đó dù tôi đă quá quen thuộc với những loại phi cơ đang nằm phơi trên băi đậu.
Từ những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934…đến những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề, chiếc UH1, Cobra …và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi c̣n phải nghe tiếng gầm rú của các loại phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên đầu đă thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất.
V́ đó là những tiếng động đă quá quen thuộc với tôi hầu như đă tiềm ẩn trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đă trôi qua kể từ khi tôi giă từ cái nghiệp lính.
Năm nay tôi đă bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, c̣n để ngăn ngừa sự thoái hóa của bộ óc càng ngày càng già nua …để rồi hủy hoại hết những điều cần phải nhớ. Tuổi già th́ thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ văng. Thật ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm v́ giờ đây tương lai của tôi, chỉ là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào đó.
Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật đến xà lim Chí Ḥa. Thử hỏi cuộc đời của tôi c̣n lại ǵ ?
Cái gia tài của người lính như tôi c̣n lại há không phải là quá khứ của 15 năm trong quân đội hay sao? 15 năm trong một đời người như chúng ta, những người lính đă sống qua cuộc chiến ác liệt, đầy máu và nước mắt, vinh có nhục có và đôi khi buồn nhiều hơn vui, dù muốn quên cũng khó quên.
Ngay từ những năm đầu ở Trung Học, tôi đă rất ngưỡng mộ Không Quân dù chỉ qua h́nh ảnh của các anh phi công Mỹ, Pháp và Anh trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh Việt Nam vào những năm 50. Sau này khi bước chân vào bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp tôi đă có ư định sau khi tốt nghiệp Trung Học tôi sẽ xin gia nhập vào Không Quân Việt Nam. Những mộng không thành v́ khi khám sức khỏe ở Bệnh Viện Cộng Ḥa tôi mới phát giác ra là thị lực của con mắt phải của tôi chỉ có 7/10. Thế là vỡ mộng, nh́n bạn bè rộn ràng lên đường gia nhập Quân Chủng Không Quân mà thấy tủi thân. Cuối cùng đành phải chấp nhận cái thân phận chui bờ chui bụi của cái lính đánh trộm là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. May cũng nhờ quen thuộc lối đánh trộm (đôi khi chúng tôi cũng ăn trộm được nhiều kho vũ khí và lương thực của địch) nên cũng có chút tiếng tăm và chiến công góp phần với các quân binh chủng bạn, đă làm cho kẻ địch suy yếu. Nhưng nếu nói đến cái đơn vị bé tí teo và những chiến tích mà chúng tôi đă lập được cũng nhờ những đôi cánh thép, như một thứ bùa hộ mạng, như cái ô dù che chở trên đầu chúng tôi. Những đôi cánh thép đă mang chúng tôi đi hầu hết các chiến trường (ngoại trừ vùng IV chiến thuật v́ lính BCD 81 không biết bơi).
Đă bao lần không quản ngại trước lưới lửa pḥng không của địch tua tủa như pháo bông để mang chúng tôi và xác đồng đội ra khỏi vùng vây địch. Qua hàng trăm cuộc hành quân, những đôi cánh thép đă mặc nhiên như gắn ngay sau lưng chúng tôi, đă chắp cho chúng tôi đôi cánh thép. Đơn vị của chúng tôi đă gắn liền với Quân Chủng Không Quân của các bạn.
Xin cho chúng tôi được hân hạnh nhận các chiến hữu Không Quân là bạn để dễ bể tâm sự và để nói hết những điều cần nói sau 37 năm dài. V́ không nói ra lúc này sẽ không có dịp nào để nói, giữa chúng ta từ lâu đă cư xử với nhau rất mực huynh đệ chi binh, nhưng cũng đầy hào khí giang hồ. Tôi sẽ không nhắc lại những chiến công oanh liệt của các bạn hay của chúng tôi. Tôi chỉ muốn nhắc lại những người đi vào chiến tranh với dáng vẻ hào hoa phong nhă, lúc nào quân phục cũng sạch bóng, trang bị nhẹ nhàng không giống như đám chúng tôi bao giờ cũng vậy hễ xuất quân là quần áo rằn ri, lôi thôi lếch thếch…nào là ba lô, súng ngắn, súng dài, giây nhợ quanh người, lựu đạn lủng lẳng đằng truớc, đằng sau. Mỗi lần được bốc ra khỏi vùng hành quân th́ ôi thôi khỏi nói, dù có yêu tôi cách mấy cũng chỉ đúng xa mà chào mừng chứ chưa ai dám ôm hôn tôi thắm thiết. Mười lăm ngày hay một tháng luồn lách qua bờ bụi, lên xuống đồi núi dưới cái nắng nóng ẩm, mồ hôi rơi xuống mờ cả mắt lau không kịp. Bộ đồ trận lúc nào cũng đẫm ướt mồ hôi nhiều khi chẩy theo hai bắp chân xuống đôi giày đi rừng.
Đêm nằm trên chiếc poncho gấp đôi, mồ hôi vẫn c̣n đọng ướt cả lưng. Cứ như thế ngày này sang ngày khác, bộ đồ trận ướt rồi khô, bao nhiêu mùi hôi đều thấm sâu vào vải áo quần. May mắn lắm mới qua được một con suối c̣n lại chút nước, vội vàng múc cho đầy 2 bị đông nước, xong cùng nhảy xuống hụp cho ngập đầu rồi lại tiếp tục đi.
Ấy là những ngày không chạm địch, c̣n có thời gian ngồi xuống để thay một đôi vớ đă bốc mùi khó chịu. Những lần chạm địch th́ coi như được phép quên đi những khó chịu hàng ngày, quên đi ḿnh đă chưa ăn ǵ suốt một ngày qua, đă chưa uống một ngụm nước. Tàn cuộc thằng hay thua, lúc ấy mới biết ḿnh c̣n đủ mồm miệng để ăn vội bọc cơm xấy. C̣n các bạn tôi thật khỏe, ngồi trong buồng lái tha hồ tung hoành ngang dọc, hết phi vụ quay về phi trường, đi thẳng vào Câu Lạc. Bộ làm một ly cà phê đá, khỏe re trong lúc chờ cho các chuyên viên “check” tàu, tái trang bị bom đạn, “rocket” để chờ phi vụ tiếp theo.
Chưa nói đến vài ngày chúng tôi được xả hơi sau mỗi cuộc hành quân, cởi được bộ đồ hôi hám, thay vào một bộ quân phục mới để cùng xuống phố phường uống vài chai “33”cho đă bù lại những ngày phải uống nước sông nước suối. Nhưng nếu có xuống phố hay buổi tối tạt vào một tiệm nhảy nào lại đụng mấy bạn, và bao giờ chúng tôi cũng lép vế, lép về về đủ mọi phương diện. Đôi khi có một tí t́nh c̣m để an ủi những hễ chấm được cô nào vừa ư là y như rằng đă có một ông Không Quân nào sắp sửa rước đi rồi !!!
Nói cho vui vậy thôi chớ vội cho rằng chúng tôi đả kích các bạn nhé, thua th́ thua rồi. Xưa c̣n trẻ đă không thắng các bạn, nay đầu đă bạc, chân mỏi gối ṃn, hơi sức đâu mà ganh với đua . Trước khi nhắc lại những kỷ niệm đă qua, xin cho tôi nhắc lại một câu chuyện sau.
Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hăm, các đơn vị địa phương hầu như đă tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các phi đoàn trực thăng đă hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn thất không đáng kể.
Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đă trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nh́n từ trên trực thăng xuống thị xă Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được v́ cả thị xă ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực pḥng không của địch tua tủa bắn lên đây trời với đủ loại từ đại liên 50,súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại pḥng không nổ ngang trời nhắm vào các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.
Tôi chỉ c̣n trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay v́ đáp ngay xuống thị xă, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đă đáp xuống cạnh các khe suối cạnh thị xă, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền sát viên địch. Địch đă bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn pḥng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đă bị địch chiếm mấy ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú pḥng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không c̣n bao nhiêu.
Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ c̣n không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ c̣n hơn 10 người đă dạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh c̣n Đại Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đă tan hàng, quân nhân c̣n lại cũng lẫn lộn trong hàng rào pḥng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn với đủ bộ xe pháo mă tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một hệ thống pḥng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đă rơi vào vị trí bạn …phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đă hạ được 4 chiến xa địch.
Vào lúc choạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 lư và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát giác kip thời nên đă bị tiêu diệt ngay sau đó.
Suốt trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa v́ 1/2 khu vực thị xă đă rơi vào tay địch trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi vụ oanh kịch không hiệu quả, không c̣n pháo binh yểm trợ, không tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần c̣n lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong t́nh thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đă phải để lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đă phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975.
Trong lúc đơn vị tôi c̣n đang t́m cách vượt qua ṿng vây của địch th́ ngày 7 tháng 1 năm 1975 đă có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như ṭa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Ḥa. Thật là vô cùng phi lư nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 … phi cơ L-19 c̣n đang bay t́m kiếm và bốc các toán đă vượt qua được ṿng vây địch th́ tại hậu phương họ đang bị kết tội.
Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đă tự quyết định rút khỏi Phước Long, cao hơn là v́ chỉ huy trực tiếp của tôi đă không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đă hoàn toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi c̣n sống sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rơ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đă ra lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đă thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.
Tôi đă ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài t́nh huynh để chi binh, chúng tôi c̣n có một cái nghĩa “giang hồ”. Trong buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đă dũng cảm tuyên bố trước mặt các tướng lănh:
“Mất Phước Long, lư do tại sao quư vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đă đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đă làm quá bổn phận của họ, đă chết lây với chúng tôi, thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra ṭa, tôi cho là vô lư, nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quư vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả, tôi xin phép ra về v́ c̣n nhiều việc phải làm”
Măi 2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được ṿng vây địch. Ban đêm di chuyển qua các băi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch đang bám giữ các băi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn (khoai ḿ), đă thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xă khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không c̣n máy để liên lạc với họ v́ chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đă bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đă tử trận hoặc bị bắt . C̣n đang kiểm điểm xem c̣n lại bao nhiêu người trong BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp v́ tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí c̣n ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1 đă ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai ḿ, trong lúc đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn vào vị trí quanh băi đáp. V́ số cây khoai ḿ c̣n nhiều nên trực thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai ḿ, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây ḿ chung quanh.
V́ đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái của chiếc trực thăng.
Khi anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra th́ tôi mới kéo anh lên được. Những Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên “Cho tàu đáp xuống” …khi chiếc trực thăng đă bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đă để vuột anh. Nh́n anh rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da ḅ x̣e ra như một cánh bướm mất hút với tiếng là thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn…Cả phi hành đoàn đều cúi xuống nh́n anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn pḥng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời băi .
Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn ) lái đă phải cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đă bị quá tải (overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa v́ nếu đáp sẽ không c̣n có thể cất cánh được nữa.
Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi c̣n là một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như thế, đă để rớt Đ/Úy Thành. H́nh ảnh của anh c̣n măi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.
Có rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đă chết lây theo chúng tôi. V́ là một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi c̣n phải chuyển tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu v́ thời gian bay của trực thăng không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn th́ dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đă làm thiệt hại rất nhiều phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam.
Tôi đă sống hết đời quân ngũ trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng, leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đă chứng kiến được nhiều điều đau xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi, Mành, Trắng, Hiếu …Những con người hào hoa đă đưa chúng tôi vào những mặt trận “thắt cổ họng c̣n sướng hơn” như B́nh Giả, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài …và đă đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dơng, Duyên và hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Ḥa, phi hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh ḿ, gói xôi đậu xanh mua vội ở Biên Ḥa. Những con người đă từng đối đầu với gian nguy cùng với chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ.
Chúng tôi đă không có đủ khả năng để đăi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đă tối. Thế mà các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đă đă cùng chiến đấu để không v́ miếng cơm manh áo của chính ḿnh mà v́ để bảo vệ miền Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản.
Mỗi lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nh́n lại các chiến hữu xưa, nay đầu đă bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận ḿnh. Nhớ tới tôi đă chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, v́ ḷng nhiệt thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ v́ để cứu một người lính 81 BCND trong ṿng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn, chúng tôi đă phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác kẻ thù, chúng ta quư nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính b́nh thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung khi vừa vào băi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để mang về những xác người đă cháy đen!!! C̣n ǵ buồn hơn khi thấy người phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió rồi rơi vào đất địch. Hăy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi, những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đă xỉ nhục hay căm thù đến nỗi lột hết quần áo của một người đă chết thân thế không c̣n nguyên vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đă đối xử với một người đă chết c̣n như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay địch c̣n phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ Không Quân đă hy sinh, bao nhiêu người đă rơi vào tay địch?
Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời c̣n âm u khói từ kho bom phi trường Biên Ḥa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nh́n hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ư như một lời vĩnh biệt…đó là lần cuối cùng tôi nh́n thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đă cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.
Bây giờ những cánh bay ấy có thể đă nằm mục ră ở một vài băi phế thải nào đó, hoặc năm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn c̣n nhiều, ḷng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn c̣n và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do.
Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi h́nh thức mà thôi …
“Old soldiers never die; they just fade away.”
General Douglas MacArthur
Vũ Xuân Thông
Liên Đoàn 81 BCND
PS : Tác giả sống ở San diego , CA . Trước kia ḿnh thường gặp gỡ vị niên trưởng này . Ông sống rất im lặng
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.