Mời các bạn theo dơi bài viết của Brahma Chellaney - Giáo sư phân tích chiến lược của Trung tâm Nghiên cứu chính trị được tài trợ từ các nguồn tư nhân ở Delhi, tác giả của các cuốn sách Asian Juggernaut do Nhà xuất bản Harper ấn hành năm 2010 và Water: Asia’s New Battlefield do Nhà xuất bản Georgetown University Press ấn hành năm 2011.
Theo đó, sáu nguyên tắc căn bản mà quân đội Trung Quốc đă áp dụng trong cuộc xâm lược Ấn Độ năm 1962 cũng chính là những nguyên tắc mà họ sẽ vận dụng trong tương lai.
Năm 1962, Trung Quốc đă dạy cho Ấn Độ “một bài học” mà đến nay vẫn cần phải nghiên cứu.
Ngày 20/10/1962, ngay trước b́nh minh, quân đội Trung Quốc bất ngờ xâm nhập lănh thổ Ấn Độ. Các đơn vị quân đội Trung Quốc giống như một sức mạnh không thể cưỡng lại đă triển khai tiến công và sau khi vượt qua các khu vực phía đông và phía tây của dăy núi Hymalaya, đă tiến sâu vào vùng phía đông bắc Ấn Độ.
Vào ngày thứ 32 của cuộc chiến, Bắc Kinh bất ngờ tuyên bố ngừng bắn đơn phương, và chiến tranh kết thúc cũng bất ngờ như như nó đă bắt đầu.
Mười ngày sau đó, Trung Quốc bắt đầu rút quân khỏi miền đông Ấn Độ nằm giữa Bhutan và Myanmar, nhưng họ vẫn chiếm giữ các vùng đất giành được ở phía tây, khu vực trước đây vốn là một phần của công quốc Jammu và Kashmir.
Ấn Độ phải chịu một thất bại hoàn toàn và rất nhục nhă, c̣n uy tín quốc tế của Trung Quốc tăng mạnh.
Hôm nay, một nửa thế kỷ sau cuộc chiến Trung-Ấn, sự đối đầu địa-chính trị giữa hai gă khổng lồ về dân số lại trở nên gay gắt, bởi v́ lại có những bất đồng mới nảy sinh thêm vào những mâu thuẫn hiện đă có. Sự phát triển bùng nổ của thương mại song phương cũng đă không thể dập tắt tinh thần đối đầu và căng thẳng trong lĩnh vực quân sự, bên cạnh đó, Trung Quốc đă tiêu phí phần lớn những thành quả chính trị giành được của chiến thắng cách đây 50 năm.
Tuy nhiên, những hoàn cảnh của cuộc chiến tranh xưa cũ đến nay vẫn không mất đi ư nghĩa của ḿnh, bởi v́ chúng đang vượt ra ngoài khuôn khổ quan hệ song phương giữa hai nước. Cuộc xung đột này đă làm bộc lộ những yếu tố then chốt của học thuyết chiến lược của Bắc Kinh, do đó, không chỉ các quốc gia lăng giềng của Trung Quốc mà cả Bộ Quốc pḥng Mỹ cũng cần rút ra những bài học từ cuộc chiến tranh này.
Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét 6 nguyên tắc cơ bản mà quân đội Trung Quốc đă áp dụng trong cuộc xâm lược Ấn Độ, và sẽ không có nghi ngờ nữa, chúng được vận dụng cả trong tương lai.
1. Bất ngờ.
Trung Quốc đặc biệt coi trọng yếu tố bất ngờ cho phép làm cho kẻ địch bị bất ngờ. Ư tưởng là ở chỗ làm cho kẻ thù bị bất ngờ về chính trị và tâm lư để giành những chiến thắng nhanh chóng trên chiến trường. Chiến thuật nhấn mạnh tính bất ngờ của cuộc tấn công này bắt nguồn từ quá khứ xa xưa.
Hơn 2.000 năm trước, nhà lư luận quân sự Trung Quốc Tôn Tử đă nêu ra chiến thuật này khi ông khẳng định rằng “sự lừa dối là cơ sở cho mọi phép dùng binh”. C̣n đây là những lời khuyên mà ông sẽ đưa ra cho các chiến lược gia: “Tấn công vào nơi kẻ thù không pḥng bị, khai chiến lúc kẻ thù không ngờ tới. Đây là những yếu tố then chốt để giành thắng lợi”.
Thật vậy, người Trung Quốc đă bắt đầu và kết thúc cuộc chiến tranh năm 1962, khi Ấn Độ ít ngờ tới nhất.
2. Tập trung toàn lực.
Các tướng lĩnh Trung Quốc cho rằng, cần thực hiện các đ̣n tấn công càng nhanh, càng mạnh càng tốt. Chính chiến thuật tác chiến này đă được họ thể hiện khi tiến hành cuộc chiến tranh chớp nhoáng chống Ấn Độ vào năm 1962. Mục đích là áp đặt cho kẻ thù “những trận đánh có kết cục nhanh chóng”.
Sự tập trung như thế vào mục tiêu là điểm đặc trưng cho tất cả các chiến dịch quân sự do nước Trung Hoa tiến hành từ năm 1949.
3. Tấn công trước tiên.
Bắc Kinh chưa bao giờ lưỡng lự sử dụng vũ lực để giải quyết các nhiệm vụ chính trị. Ngược lại, Trung Quốc đă nhiều lần thể hiện là họ luôn sẵn sàng để “dạy một bài học” cho đối phương để đối phương không dám thách thức Bắc Kinh trong tương lai.
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đă giải thích rằng, cuộc chiến năm 1962 có mục đích “dạy Ấn Độ một bài học”. Đặng Tiểu B́nh, người đầu tiên trong các nhà lănh đạo cộng sản Trung Quốc đă đến thăm Mỹ, cũng đă sử dụng từ ngữ tương tự vào năm 1979, khi ông ta tuyên bố với Tổng thống Mỹ Jimmy Carter trong chuyến thăm Washington rằng, “cần dạy Việt Nam một bài học như Ấn Độ”. Chỉ vài ngày sau, quân Trung Quốc đă xâm lăng lănh thổ của nước láng giềng.
Điều trớ trêu là chính vào lúc đó, ngoại trưởng Ấn Độ lại đang có mặt ở Bắc Kinh để cố gắng khôi phục quan hệ song phương bị đóng băng từ năm 1962. Cuộc chiến kéo dài 29 ngày, sau đó Trung Quốc đă ngừng chiến và rút quân khỏi Việt Nam.
4. Chờ đợi thời cơ.
Người Trung Quốc cho rằng, cần phải chờ đến thời điểm thích hợp. Chiến tranh năm 1962 là một ví dụ điển h́nh của chiến thuật này. Cuộc tấn công của Trung Quốc diễn ra trùng về thời gian với cuộc khủng hoảng Caribe vốn đă đặt thế giới bên bờ vực của ngày tận thế hạt nhân.
Bối cảnh đó đă thu hút sự chú ư của những nước có thể hỗ trợ Ấn Độ. Ngay khi Hoa Kỳ tỏ ư cuộc đối đầu với Moskva đă kết thúc, Trung Quốc ngay lập tức tuyên bố ngừng bắn đơn phương.
Trong thời gian diễn ra chiến tranh Trung-Ấn, sự chú ư quốc tế đổ dồn vào cuộc xung đột Xô-Mỹ, chứ không phải vào cuộc xâm lược Ấn Độ của Trung Quốc đi kèm với sự đổ máu, mặc dù Delhi đă có quan hệ tốt đẹp với cả Mỹ và Liên Xô.
Thủ đoạn hành động tương tự đă được Trung Quốc vận dụng cả về sau này. Sau khi Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, Trung Quốc đă chiếm giữ trái phép quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1995, việc Philippines lâm vào t́nh trạng không được bảo vệ sau khi họ buộc người Mỹ đóng cửa các căn cứ quân sự ở vịnh Subic và các khu vực khác của quần đảo Philippines, đă cho phép Trung Quốc giành lấy quyền kiểm soát đá Vành khăn (rạn san hô Mischief).
5. Biện minh cho các hành động của ḿnh.
Bắc Kinh thích ngụy trang che đậy các hành động xâm lược của họ bằng cái gọi là mục đích tự vệ.
“Trong lịch sử các cuộc chiến tranh của Trung Quốc đương đại có thể t́m thấy nhiều trường hợp, khi mà các nhà lănh đạo Trung Quốc đă gọi các cuộc tiến công phủ đầu là các chiến dịch pḥng vệ (tự vệ) chiến lược”, một báo cáo của Lầu Năm góc đệ tŕnh lên Quốc hội Mỹ năm 2010 viết.
Trong tài liệu này có nhiều ví dụ về cách làm như vậy, trong đó có cuộc chiến tranh năm 1962, cuộc xung đột năm 1969 (khi Trung Quốc khiêu khích các cuộc đụng độ biên giới với Liên Xô), cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979, và thậm chí cả biến cố năm 1950, khi Trung Quốc can thiệp vào cuộc chiến tranh Triều Tiên.
Cuộc tấn công Ấn Độ năm 1962 Bắc Kinh chính thức được gọi là “phản kích tự vệ” và thuật ngữ này cũng được sử dụng để biện minh cho cuộc xâm lược Việt Nam, cũng như việc chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa, đá Gạc Ma và đá Vành khăn.
6. Sẵn sàng mạo hiểm.
Các hành động mạo hiểm từ lâu đă là yếu tố không tách rời của chiến lược quân sự Trung Quốc. Sự sẵn sàng cho những chiến dịch quân sự như vậy của giới lănh đạo Trung Quốc là rơ ràng đối với tất cả. Không chỉ ở thời Mao Trạch Đông cầm quyền vốn đầy rẫy những đảo lộn phức tạp trong chính trị mà cả khi một kẻ đầy thực dụng như Đặng Tiểu B́nh quyết định xâm lược Việt Nam bất chấp khả năng Liên Xô can thiệp.
Hơn nữa, lần nào th́ những hành động mạo hiểm cũng xác đáng và mang lại các kết quả cần thiết. Những thắng lợi đạt được trong quá khứ có thể tạo sự tự tin cho Bắc Kinh, thúc đẩy họ một lần nữa thử thách cơ hội của ḿnh, nhất là hiện nay, khi mà Trung Quốc có khả năng đánh trả hạt nhân và có sức mạnh kinh tế và tiềm lực quân sự chưa từng có.
Cuộc chiến tranh năm 1962 diễn ra vào thời kỳ CHND Trung Hoa c̣n là một quốc gia nghèo đói, chưa có vũ khí hạt nhân và bị đè nặng bởi những vấn đề nội bộ.
Tuy nhiên, họ đă cho thế giới thấy các tướng lĩnh Trung Quốc tư duy theo những tiêu chí nào và giúp ta hiểu tại sao việc Trung Quốc hiện nay đang tăng cường tiềm lực quân sự của ḿnh với tiến độ nhanh lại không thể không gây ra những lo ngại lớn.