"Tiếng lành đồn xa mà. Có đợt một cậu bị chết đuối đến hơn bảy tiếng đồng hồ, da tái xanh rồi, thế mà người ta vẫn đánh ô tô thẳng từ sân bay Nội Bài về đây nhờ ông ấy chữa. Như thế thì có mà ông giời chữa được.
Đó là làng chài Nguyệt Đức, Việt Yên, Bắc Giang, nơi con sông Cầu thay mặt đất làm điểm tựa cho hơn 160 hộ gia đình.
Gọi Nguyệt Đức là làng chài e cũng không chuẩn xác lắm, bởi hiện nay chẳng mấy ai trong làng đi mò tôm bắt cá để bán. Những người dân vạn đò bây giờ chủ yếu sống bằng nghề vận tải đường sông, chuyên chở vật liệu xây dựng khắp một vùng sông Cầu.
Vì miếng cơm manh áo, người Nguyệt Đức còn đi xuôi về ngược lên cả thành phố Bắc Giang hay các khu vực sông Hồng, sông Đuống, hay thậm chí ra tận những con sông xa xôi như sông Thái Bình, sông Kinh Thầy, để làm ăn. "Đi khắp mấy vùng sông nước ở miền Bắc này, chỗ nào chả có người Nguyệt Đức," Bà Nguyễn Thị An, người bán hàng nước cạnh bờ sông Cầu, nói với đám phóng viên chúng tôi.
Vậy nên trong ngôi làng nổi này, hiếm khi tụ tập được cho thật đông đủ thanh niên trai tráng. Chỉ những dịp cuối tuần, khi tiếng chuông nhà thờ giáo xứ Nguyệt Đức vang lên gọi con chiên đi cầu nguyện, hay khi làng có buổi họp định kỳ, thì mới thấy những chiếc thuyền trở về neo lại bên bờ sông.

Làng nổi Nguyệt Đức bên sông Cầu, Ảnh Khắc Giang
Mỗi hộ của làng thường có hai con thuyền: một chiếc để đi làm ăn và cái còn lại thì để ở. Thời kì chín năm kháng chiến chống Pháp và cả một giai đoạn dài sau đó, cuộc sống của dân Nguyệt Đức còn rất khó khăn, bấp bênh trên những con thuyền gỗ chẳng bao giờ đứng yên bởi nhà nào cũng đông con cái. Lăn lộn quanh năm cũng không đủ miếng ăn.
"Cuộc sống lúc đó khốn khó hơn bây giờ cả nghìn lần," bác Trần Văn An, trưởng thôn Nguyệt Đức, người cả đời sống trên dòng sông Cầu, hồi tưởng lại.
Giờ đây, 100% các "ngôi nhà nổi" của làng đều được bê-tông hóa, với đầy đủ vật chất sinh hoạt không thua kém gì những ngôi nhà ở trên bờ. Từ 10 năm trở lại đây cũng không có gia đình nào sinh con thứ ba nữa, nên cái tiếng "làng đẻ" của Nguyệt Đức cũng dần trôi vào quá vãng. Không giàu bằng những ngôi nhà hai tầng dọc hai bên sông Cầu, nhưng đời sống người Nguyệt Đức ngày nay nói chung là chấp nhận được.
Tất nhiên, sự khấm khá đó phải đi kèm với một số đánh đổi nhất định. Cái giá đắt nhất phải trả có lẽ là nỗi cô đơn của những người già làng chài, luôn thui thủi một mình trên sông nước, do con cái thường đi làm ăn xa để mưu sinh. Một cán bộ của làng cho biết, phải đến 90% các cụ già của làng thường xuyên sống trong tình cảnh "ở nhà một mình."
Nhiều người già thậm chí còn có hoàn cảnh rất khó khăn, như bà cụ Xuất ngụ ở một chiếc thuyền nho nhỏ cạnh nhà thờ xứ đạo.
Bà có tám người con, tất cả đều đi tha phương kiếm sống, chỉ có bà là ở nhà và kiêm luôn trách nhiệm trông nom đứa con bị tật nguyền từ bé. Công việc sông nước vất vả mà thu nhập chẳng là bao, nên tiền của con cái gửi về cho bà không đủ sống. Vì thế, dẫu năm nay đã 72 tuổi, hàng ngày bà cụ vẫn phải chèo đò, nhặt nhạnh từng mớ rau, con cá để nuôi con và nuôi mình.

Cụ Xuất và chiếc nhà nổi của mình, Ảnh Khắc Giang
Nỗi khát khao "lên bờ"
Cái tên Nguyệt Đức có nghĩa là "đẹp như ánh trăng." Đây cũng là một tên khác của dòng sông Cầu, hay sông Như Nguyệt với chiến thắng quân xâm lược nhà Tống từ thời Lý Thường Kiệt. Tuy đẹp đẽ, lãng mạn là vậy, nhưng người dân ở làng vạn đò này không ai là không muốn có được một mảnh đất ở trên bờ, để chấm dứt cuộc đời lênh đênh sông nước, hay chí ít là có chốn dung thân khi về già, khi không còn đủ sức để quần nhau với thủy thần nữa.
Nhưng kiếm được mảnh đất trên bờ bây giờ quả thực là khó. Bên làng Thổ Hà thì đã kín chỗ, còn bên Vạn An (TP. Bắc Ninh), giá đất vẫn đang trong cơn sốt xình xịch của một vùng đô thị mới. Người vạn đò chật vật mới đủ ăn, nên kiếm được vài trăm triệu để mua nhà là điều không hề đơn giản. Theo bác trưởng thôn, hiện mới chỉ có hơn 40 trên tổng số 162 hộ có nhà, và nhờ đó đã được chuyển khẩu sang Bắc Ninh.
Khao khát lên bờ khiến cho các gia đình ở đây cố gắng tạo mọi điều kiện cho con cái được học hành đến nơi đến chốn, mở ra con đường cho chúng được "thoát ly" và đổi đời. Như năm vừa rồi (2011), cả thôn đã có năm em đỗ đại học-cao đẳng, và 30 em vượt qua được kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông. Con số này tuy còn khiêm tốn, thế nhưng nếu so với những ngày trước, khi con em vạn đò thường chỉ theo bố mẹ làm ăn mà không được đi học, thì đây là một kết quả rất đáng tự hào.
"Bây giờ quan trọng nhất là phải đi học, nên dân làng cũng chăm chút việc này lắm," bác trưởng thôn An vừa nói vừa chỉ tay về những chiếc thuyền bê tông neo bên bờ sông Cầu.
"Gia đình nào có con cái đi học trên bờ thì thuyền ở coi như đỗ cố định ở đó luôn,"
Làng Nguyệt Đức cũng có một thân phận đặc biệt, có lẽ là có một không hai trong số những làng vạn đò đang tồn tại trên khắp nước Việt Nam. Bởi con sông Cầu chia cắt hai tỉnh Bắc Giang-Bắc Ninh, nên ngôi làng này cũng chênh vênh ở giữa mà không nghiêng hẳn về bên nào.
Về mặt hành chính, làng trực thuộc xã Vân Hà, huyện Việt Yên, Bắc Giang, tuy nhiên, các "ngôi nhà nổi" thì lại đỗ ở bên bờ của tỉnh Bắc Ninh. Việc học hành của con cái, làm lễ của xứ đạo, và cả việc mai táng người đã khuất, cũng đều thực hiện ở bờ bên Bắc Ninh.
"Như vậy cũng may, bởi làng Nguyệt Đức nhận được sự quan tâm của chính quyền cả hai nơi," Bác An cười.

Những người già thường phải chịu cảnh cô độc do con cái phần nhiều là đi làm ăn xa, Ảnh Khắc Giang
Ông già "cải lão hoàn sinh" và câu chuyện làm báo
Đến Nguyệt Đức lần này, có một nhân vật mà chúng tôi rất muốn được tiếp xúc là ông Nguyễn Văn Chừng, người nổi tiếng với nghề vớt xác và cứu người chết đuối trên sông. Mải mê với làng Thổ Hà bên mạn Bắc Giang, chúng tôi đến nơi neo thuyền của ông Chừng thì trời đã tối mịt. Tuy thế, biết ông đã xuất hiện trên một số bài phóng sự, nên tôi chắc mẩm ông Chừng sẽ chẳng nề hà gì mà cho chúng tôi vài chục phút nói chuyện trong một "đêm sông Cầu" không trăng sao nhưng cũng rất sâu lắng.
Nhưng tôi đã lầm. Khi biết những người đến tìm ông là phóng viên, ông chối biệt và nhất định không lên bờ, mặc cho chúng tôi dùng mọi "nghiệp vụ báo chí" để van nài. Bất lực, chúng tôi đành phải đi ngược lên đường đê tìm chỗ nghỉ qua đêm, trong lòng vẫn băn khoăn không biết tại sao ông lại tránh mặt một cách cương quyết như thế.
Bí ẩn được sáng tỏ vào sáng mai, khi chúng tôi gặp được con gái của ông Chừng, cô Quý. Cô cho biết, một đợt cũng có anh nhà báo đến đây viết bài, tuy thế, bài viết có nói quá lên về khả năng "cứu người chết đuối" của bố cô, nên nhiều khi cũng gây những phiền toái không đáng có.
"Tiếng lành đồn xa mà. Có đợt một cậu bị chết đuối đến hơn bảy tiếng đồng hồ, da tái xanh rồi, thế mà người ta vẫn đánh ô tô thẳng từ sân bay Nội Bài về đây nhờ ông ấy chữa. Như thế thì có mà ông giời chữa được," Cô Quý nói.
Cô kể, từ dạo đó bố cô không thích gặp mặt cánh phóng viên nữa, bởi ông cụ chỉ thích "có sao nói vậy," chứ "tâng bốc cụ lên quá thì cụ ngại với hàng xóm, láng giềng lắm."
Nghe xong câu chuyện, tôi và anh bạn phóng viên báo Hải Quan chỉ biết nhìn nhau mà cười mếu. Thế mới biết cái câu "Nhà văn nói láo, nhà báo nói phét" nhiều khi cũng rất linh nghiệm. Chỉ khổ nhất là đám phóng viên hậu bối đi sau lãnh đủ sao quả tạ, do những cú "pốt" của các bậc tiền bối để lại.
"Các chú nhìn đó mà về viết lách cho cẩn thận đấy," Bà An bán nước còn căn dặn như vậy trước khi chúng tôi từ biệt làng chài Nguyệt Đức để trở về Hà Nội.