Nhắc tới thảm họa hạt nhân Chenorbyl, người dân châu u sẽ không khỏi cảm thấy “lạnh gáy” bởi mức độ tồi tệ của nó để lại. Tuy nhiên, nhờ có những anh hùng dũng cảm như dưới đây mà châu u đă tránh được thảm họa nặng hơn so với những ǵ mà họ đă phải trải qua.
Đă 30 năm kể từ vụ nổ ở Chenorbyl, một ḷ phản ứng hạt nhân bị ṛ rỉ do thiết kế và lỗi vận hành của con người. Khi thảm hoạ xảy ra, nó lập tức giết chết hơn 50 người, gây ảnh hưởng xấu đến hàng chục ngàn người khác trong suốt vài thập kỷ về sau.
Ngày 26 tháng 4 năm 1986, một cuộc thử nghiệm tại nhà máy hạt nhân Chernobyl bị mất kiểm soát, gây ra hai vụ nổ tại ḷ phản ứng số 4, khiến hai công nhân thiệt mạng ngay lập tức và thêm 29 người khác trong 4 tháng sau vụ nổ. Con số chính xác có bao nhiêu người đă chết trong thảm hoạ Chnorbyl vẫn là vấn đề tranh căi giữa các nhà khoa học, chính phủ cũng như các cơ quan quốc tế.
Hai vụ nổ này, tạo ra lượng phóng xạ lớn hơn 400 lần so với quả bom Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima năm 1945.
6 giờ sau vụ nổ, hầu hết các đám cháy đă được kiểm soát hoàn toàn, nhưng lúc đó ít ai ngờ rằng thảm họa thứ hai thậm chí c̣n lớn hơn, sắp xảy ra.
Đầu tháng 5 năm 1986, lơi hạt nhân của ḷ phản ứng số 4 vẫn đang tan chảy. Nằm ngay bên dưới ḷ phản ứng là một hồ nước khổng lồ - dùng để làm mát cho các ḷ. Lơi ḷ vẫn tiếp tục chuỗi phản ứng khiến nhiên liệu nóng chảy nhiễm xạ âm ỉ thoát ra, dần dần tiếp cận mặt nước của hồ.
“Nếu như nó đến được mặt nước, điều này sẽ gây ra một vụ nổ thứ hai, lớn đến mức không thể tưởng tượng được và đe doạ phá huỷ toàn bộ nhà máy điện gồm 3 ḷ phản ứng c̣n lại,” tác giả Andrew Leatherbarrow viết trong một email được gửi đến trang công nghệ nổi tiếng, Tech Insider.
Ông Andrew vừa phát hành một cuốn sách mang tên “1:23:40. Câu chuyện bất khả thi về thảm hoạ hạt nhân Chenorbyl,” cuốn sách kể lại những ǵ đă diễn ra trong những ngày đen tối 30 năm trước.
Theo hầu hết các ước tính của các chuyên gia, một vụ nổ như vậy có thể xoá sổ một nửa châu u, khiến cả vùng đất không thể tồn tại sự sống trong 500.000 năm.
'Đội cảm tử' Chenorbyl
Trong hoàn cảnh phải ngăn vụ nổ thứ hai có thể diễn ra, cần phải tháo nước hồ ở dưới ḷ phản ứng. Nhưng tầng hầm bị ngập và các van nằm dưới mặt nước.
Sự việc tiếp theo có thể diễn tả một cách như sau: một người lính và hai nhân viên của nhà máy điện mặc vào người bộ đồ bơi, dũng cảm đi vào vùng nước đầy phóng xạ. Mặc dù đèn bị tắt, họ phải ṃ mẫm trong bóng tối, nhưng họ đă thành công.
Họ biết rằng tầng hầm có mức phóng xạ rất cao, và, các quan chức hứa rằng, nếu họ thiệt mạng, gia đ́nh của họ sẽ được chu cấp đầy đủ mọi thứ. Đó thực sự là một sứ mệnh cảm tử.
Khi họ rời khỏi hồ làm lạnh, những ǵ tiếp theo chắc hẳn ai cũng biết, họ phải chịu hội chứng nhiễm xạ cấp tính (ARS). Ba người được cho là đă chết chỉ sau đó vài tuần.
Những ǵ thực sự đă xảy ra
Leatherbarrow đă dành ra 5 năm để nghiên cứu thảm họa. Sách của ông có thể hơn khác một chút so với câu chuyện nêu trên, nhưng không kém phần chân thực, hào hùng.
“Lối vào tầng hầm, mặc dù rất nguy hiểm, nhưng không đến mức như những ǵ các thuyết âm mưu nêu ra và khiến bạn tưởng tượng theo đó,” ông nói.
Những người lính cứu hoả đă nhiều lần sử dụng ṿi bơm để cố gắng tháo nước từ trong hồ. Và ba người anh hùng - theo Leatherbarrow - đều là những kỹ sư của nhà máy điện Chenorbyl, không hề có bất cứ người lính nào cả. Ca làm việc của họ t́nh cờ vào đúng lúc bên cứu hỏa hút xong nước trong hầm.
3 người họ không phải là những người đầu tiên bước vào tầng ngầm. Trước đó, đă có những người khác bước vào để đo mức phóng xạ, tuy nhiên, ông Leatherbarrow không bao giờ có thể t́m ra họ là ai, có bao nhiêu người và đưa ra những kết quả ǵ.
“Tuy vẫn c̣n một lượng nước ở trong hồ làm mát sau khi các lính cứu hỏa hút nước ra. Mức nước cao đến khoảng đầu gối, nhưng con đường đi vào đă dễ hơn,” ông viết.
“Ba người bước vào tầng hầm, mặc bộ đồ chống thấm, nước nhiễm xạ ngập tới đầu gối họ, trong một hành lang đầy những đường ống và van bí hiểm. Cảnh tượng giống như t́m kim đáy bể”.
Ba kỹ sư e rằng họ không thể t́m đúng cái van cần thiết.
Khi ánh đèn pin chiếu sáng một cái ống, chúng tôi nhẹ cả người”, kỹ sư máy Alexei Ananenko kể trong một cuộc phỏng vấn của báo chí Liên Xô thời đó. “Cái ống sẽ dẫn đến các van”.
Trong bóng tối của căn hầm, lần theo đường ống, họ cảm nhận được đường tới chỗ chiếc van quan trọng. “Chúng tôi có thể nghe thấy nước chảy ào ạt khỏi bể làm mát, và rồi vài phút sau đó chúng tôi đă ở trong ṿng tay hoan hô của đồng nghiệp”.
Thực ra, ông Leatherbarrow cho biết, không một ai trong số ba người đó chết v́ ARS. Trưởng ca trực qua đời năm 2005 v́ đau tim.
Giờ họ đang ở đâu
Ông Leatherbarrow nói rằng một người trong nhóm bộ ba anh hùng đó vẫn c̣n sống và làm việc trong ngành điện hạt nhân, tuy nhiên ông từ chối đưa ra thông tin cụ thể v́ sợ xâm phạm vào quyền riêng tư. Ông Leatherbarrow mất liên lạc với người thứ ba trong nhóm, nhưng chắc chắn rằng ông ấy vẫn c̣n sống ít nhất cho đến năm 2015.
Có những điểm khác biệt trong báo cáo của các phương tiện truyền thông phương tây và chính phủ Liên Xô, cho rằng phía Liên Xô đă cố gắng bưng bít thông tin về thiệt hại. Tuy nhiên Leatherbarrow cho biết những nguồn tin đáng tin cậy nhất vẫn là các văn bản tiếng Nga, chưa được dịch. Chúng bao gồm lời khai của các quản lư cấp cao của nhà máy, các báo cáo của cơ quan chính phủ và một cuốn sổ của viên kỹ sư bị coi là đă gây ra thảm hoạ. Người này luôn khẳng định rằng ḿnh chỉ là một con tốt thí trong thảm họa.
Mặc dù vậy, ông Leatherbarrow thêm, ba người kỹ sư kia đă liều mạng sống để cứu hàng triệu người khác trong một thảm hoạ nghiêm trọng chưa từng có.
"Họ quyết định đi vào tầng hầm bên dưới lơi ḷ phản ứng đang nóng chảy, tăm tối, hư hỏng và trút vật liêu phóng xạ xuống đường đi của họ," ông nói.
Những giây phút, những ngày tháng sau vụ nổ, sự dũng cảm của rất nhiều người như ba kỹ sư kia đă đưa họ vào những t́nh huống mà b́nh thường không ai có thể tưởng tượng được.
vietbf @ sưu tầm