Giữa thập kỷ 30 thế kỷ trước, người dân Thủ đô thường nhắc  đến “tứ mỹ Hà thành”, gồm: cô Phượng Hàng Ngang, cô Síu Cột Cờ, cô Nga  Hàng Gai và cô Bính Hàng Đẫy.         
     
                   Đó là những thiếu nữ có nhan  sắc và nổi tiếng; từng làm mê đắm biết bao trái tim của các quư ông học  hàm học vị cao, công tử hào hoa, văn nhân - kư giả đa t́nh...
Hồng nhan bạc mệnh
Hà  Nội xưa từng xôn xao về vụ “cô Phượng Hàng Ngang”. Không chỉ báo chí,  người ta c̣n viết sách, dựng kịch, làm thơ về vụ thảm t́nh này. Kẻ chê  cô Phượng là dâm loạn, nhẫn tâm bỏ lại chồng con, bỏ cuộc sống vinh hoa  phú quư để đi theo trai. Người th́ khen cô dám đạp lên lề thói đạo đức  phong kiến, đi theo tiếng gọi thổn thức của con tim. Vậy cô Phượng Hàng  Ngang là ai?
 Người  dân Thủ đô xưa thường nhắc đến “tứ mỹ Hà thành”, gồm: cô Phượng Hàng  Ngang, cô Síu Cột Cờ, cô Nga Hàng Gai và cô Bính Hàng Đẫy.
Người  dân Thủ đô xưa thường nhắc đến “tứ mỹ Hà thành”, gồm: cô Phượng Hàng  Ngang, cô Síu Cột Cờ, cô Nga Hàng Gai và cô Bính Hàng Đẫy.
Vương  Thị Phượng là thiếu nữ Hàng Đào, được liệt vào nhóm Hà Thành tứ mỹ.  Người Hoa kiều ở Hàng Ngang nói rằng, cặp lông mày của cô “yên my“ (lông  mày như mây khói), cặp mắt là “bán thụy phượng hoàng“ (con phượng hoàng  nửa thức nửa ngủ, nghĩa là mắt mơ màng say đắm. Đối tượng nh́n vào đôi  mắt ấy tự thấy ḿnh như một chiếc lá vàng rơi…
Cô Phượng ăn mặc  rất nền, khi th́ chít khăn nhiễu tam giang, khi th́ chít khăn nhung đen,  đuôi gà vắt qua mái tóc. Cô hay mặc yếm hoa hiên, quần lĩnh tía cạp  điều thắt lưng quan lục. Tất cả những màu sắc ấy ánh lên qua chiếc áo  dài vải phin trắng may sát vào thân h́nh nở nang. Và đă có không ít văn  nhân - kư giả đương thời khi được diện kiến cô Phượng đă phải thốt lên:  “Tây Thi khiếp vía, Hằng Nga giật ḿnh”.
Nhiều thanh niên, nhà  ngay sát chỗ làm, nhưng hàng ngày vẫn bốn lần đi về theo đường ṿng để  qua phố Hàng Ngang, để được ngắm cô Phượng từ xa. Nếu hôm nào không một  lần được thấy cô, họ thấy bồn chồn, bứt rứt, đứng ngồi không yên.
Khi  tàu điện chạy qua phố Hàng Ngang, không ai bảo ai, tất cả hành khách  đều hướng mắt về phía dăy nhà mang số chẵn, nơi có một mỹ nhân góp phần  làm cho vẻ đẹp Hà Nội thêm rực rỡ.
Nhiều người "thèm" muốn như  vậy, nhưng Thị Phượng lại lấy chồng - hạng công tử “tốt mă giẻ cùi” ở  Hàng Ngang. Chồng cô suốt ngày rong chơi, chỉ coi vợ như một thứ đồ đắt  tiền, xinh xinh, chỉ để ngắm nghía, canh chừng, chứ không phải để tâm  t́nh, cùng nhau vươn tới những khát vọng xa xôi.
Thậm chí, v́  nghiện cờ bạc rượu chè và có tính ghen tuông, chồng thường đánh cô và  đ̣i ly dị. Cô sớm hiểu ra thân phận người phụ nữ lúc đó nên đă phản  kháng bằng cách bỏ chồng đi theo tiếng gọi của một anh chàng nhà báo trẻ  đầy tài hoa, tên là Hoàng Hồ, bút danh Hoàng Tích Chu, con trai một ông  Huyện ở Bắc Ninh. Hai người yêu nhau say đắm, thực là một đôi trai tài  gái sắc!
Vào khoảng cuối năm 1927, cả Hà Nội chấn động trước tin  cô Phượng mất tích. Măi sau này, mọi người mới biết cô Phượng đă theo  Hoàng Tích Chu vào Sài G̣n. Cô đâu có biết rằng đó là một chuyến đi định  mệnh.
Hoàng Tích Chu đă quyết chí sang Pháp học nghề làm báo và  hoàn cảnh không cho phép Chu đem theo người t́nh. Lúc đó, Chu bảo với  Phượng về Bắc gặp cha, đem theo một bức thư cầu khẩn rất cảm động để ông  nhận Phượng làm con dâu trong khi đợi Chu du học về.
Vốn là  người có quan niệm cổ về lễ giáo, ông Huyện cho là gia đ́nh Phượng không  môn đăng hộ đối với gia đ́nh ông, nên sai người đưa Phượng về xin lỗi  chồng để trở lại, nhưng bị từ chối. Thế là cô Phượng đành phải làm nghề  buôn bán nuôi thân.
Sau nhiều lần vào Nam ra Bắc, đôi khi cô phải  nương tựa vào người khác để tồn tại. Có người bạn giới thiệu Phượng cho  một người tên Lưu - cũng là người phong nhă lịch thiệp. Nhưng Lưu đă có  vợ nên phải thuê một căn nhà nhỏ bên Gia Lâm cho Phượng ở. Lưu đă vạch  kế hoạch để hai người trốn sang Hồng Kông nhưng kế hoạch không thành.  Phượng phải về nương náu tại một ngôi chùa ở Hưng Yên ư muốn đi tu,  nhưng v́ nghiệp trần vẫn nặng, cô vẫn phải chịu đựng kiếp hồng nhan.
Một  hôm, có người đàn ông tên Bách làm Tham tán ở ṭa Sứ đến văn cảnh chùa  gặp Phượng. Bách mê mẩn vẻ đẹp mặt hoa da phấn của Phượng bèn mượn người  đến đánh tiếng với Phượng và xin với sư bà cho Phượng về làm vợ lẽ.
Vợ  cả của Bách đến đón Phượng về làm chị làm em rất quư hóa ngọt ngào. Ít  lâu sau, Tham tán Bách được chuyển đi Lai Châu; vợ cả lại cho Bách và  Phượng đi trước, c̣n ḿnh sẽ lên sau. Ai ngờ bà cả đă ngầm sai người đầu  độc Phượng bằng một loại thuốc ǵ đó làm cho cô hóa điên lúc tỉnh lúc  mê, lúc cười lúc khóc, gầy rộc đi. Tham tán Bách đành sai người đưa cô  về Chợ Bờ (Ḥa B́nh), nhưng sau đó Phượng về lại Gia Lâm t́m đến bà hàng  xóm cũ, trong người chỉ c̣n có 15 đồng bạc. Bà hàng xóm tốt bụng nhưng  nhà quá nghèo trông nom cô như con đẻ. Bệnh ngày một nặng, bà đành phải  đưa cô vào nhà thương làm phúc. Một tuần sau, cô Phượng qua đời.
Đám  tang Phượng chỉ có một người t́nh cũ rủ ḷng thương, khắc cho cô một  tấm bia đề: "Mộ người bạc mệnh Vương Thị Phượng". Mộ của cô đối diện với  cổng chính Bệnh viện Bạch Mai. Đường thẳng từ ngôi mộ đến cổng Bệnh  viện chừng 150 m.
Bông hồng may mắn trong "tứ mỹ"
Giai  nhân Hà thành Đỗ Thị Bính (sinh năm 1915) là người may mắn hơn cả trong  "tứ mỹ". Cô sống ở ngôi nhà số 37 Hàng Đẫy, bây giờ đổi tên thành số  nhà 67, phố Nguyễn Thái Học.
 Giai nhân Hà thành Đỗ Thị Bính (sinh năm 1915) là người may mắn hơn cả trong "tứ mỹ".
Giai nhân Hà thành Đỗ Thị Bính (sinh năm 1915) là người may mắn hơn cả trong "tứ mỹ".
Đỗ  Thị Bính là một trong 19 người con của nhà tư sản Đỗ Lợi, nhà thầu  khoán thuộc hàng lớn nhất Hà Nội trước những năm 1930 và là một trong  những thành viên của ḍng họ Đỗ "Bá Già" (thôn Tiên Lữ, huyện Lập Thạch,  tỉnh Vĩnh Phúc).
V́ có thói quen mặc đồ đen, giai nhân được nhà  thơ đa tài Nguyễn Nhược Pháp thầm yêu trộm nhớ và đặt tên là “người đàn  bà áo đen”. Thế nhưng, tuyệt nhiên hai người chưa một lần gặp mặt, dẫu  rằng t́nh trong như đă… Và những vần thơ tuyệt vời trong tập “Ngày xưa”  đă ra đời từ đó.
Các bài thơ như “Sơn Tinh, Thủy Tinh”, “Tay  ngà”, “Chùa Hương”… đều phảng phất bóng dáng giai nhan Đỗ Thị Bính.  Người đẹp cũng hiểu được t́nh cảm của công tử Pháp, nhưng t́nh th́ có,  nhưng duyên th́ không; Nguyễn Nhược Pháp đă sớm ra đi ở tuổi 24 v́ bệnh  lao vào năm 1939.
Sau khi Pháp mất được một năm, gia đ́nh thuyết  phục cô Bính lấy một chàng kỹ sư phong lưu mă thượng học ở Pháp về, tên  Bùi Tường Viên - em trai út của Luật sư nổi tiếng Bùi Tường Chiểu thời  bấy giờ. 16 tuổi, Bùi Tường Viên sang Pháp du học về ngành silicat và là  một kỹ sư của Việt Nam. Sau đó, Bùi Tường Viên giữ vai tṛ Hiệu trưởng  trường Mỹ nghệ Đông Dương (tiền thân của Đại học Mỹ thuật công nghiệp Hà  Nội).
Năm 1992, người đẹp Đỗ Thị Bính qua đời, hưởng thọ 77  tuổi. Bà Bùi Thị Mai, con gái ruột của giai nhân Đỗ Thị Bính, kể lại:  Mặc dù là người có vẻ đẹp nhất nh́ Hà thành khi đó, thế nhưng người đẹp  không hề có tính kiêu sa của những tiểu thư khuê các. Trái lại, Đỗ Thị  Bính nhất mực hoà đồng, giản dị và gần gũi với mọi người. Thuở ấy, người  đẹp cũng ư thức được nhan sắc của ḿnh, cũng hiểu được vẻ đẹp ấy đă làm  mê đắm biết bao nhiêu trái tim đắm đuối.
Thế nhưng, ư thức của  một người có học vấn, lại được sống trong một gia đ́nh khoa bảng nền  nếp, được dạy dỗ tam ṭng tứ đức, công dung ngôn hạnh ngay từ nhỏ...,  cách ứng xử của người đẹp cũng rất mực ư tứ. Giai nhân Bính không coi vẻ  đẹp của ḿnh như là một thứ "vũ khí"... Đấy cũng là một trong những  điều làm nên nét thanh lịch của người Tràng An văn vật.
Ngoài hai  người đẹp trên, cô Nga Hàng Gai cũng sắc nước hương trời. Riêng cô Síu -  con gái nhà văn Lư Ngọc Hưng, sau năm 1954 th́ biệt tăm biệt tích.
Theo Đất Việt