Giữa lúc các chính phủ loay hoay với câu hỏi làm cách nào để nuôi sống dân số toàn cầu đang "ph́nh ra" từng ngày, các nhà nghiên cứu khẳng định họ đă t́m ra một giải pháp: ḿ gói.
Một khách hàng chọn mua ḿ gói tại một siêu thị ở Trung Quốc - Ảnh: Reuters |
Ḿ gói đóng “vai tṛ quan trọng trong việc thỏa măn cơn đói và duy tŕ cuộc sống cho nhiều người trên toàn thế giới, gồm cả những người lây lất trong các t́nh huống khó khăn”, theo giáo sư nhân chủng học Deborah Gewertz thuộc Đại học Amherst ở Mỹ và hai đồng nghiệp.
Trong cuốn sách mới có tựa
The Noodle Narratives: The Global Rise of an Industrial Food into the Twenty-First Century (tạm dịch:
Câu chuyện ḿ: Sự trỗi dậy toàn cầu của một thực phẩm công nghiệp trong thế kỷ 21), giáo sư Gewertz cùng các đồng nghiệp Frederick Errington ở Đại học Trinity và Tatsuro Fujikura ở Đại học Kyoto đă mô tả về sự phụ thuộc của thế giới với ḿ gói.
Như các nhà nghiên cứu chỉ ra, ḿ gói phổ biến đến mức kinh ngạc trên toàn thế giới. Vào năm ngoái, khoảng 100 tỉ gói ḿ đă được bán, theo Hiệp hội Ḿ ăn liền Thế giới. Trung b́nh mỗi người sử dụng 14 gói ḿ trong năm ngoái.
Trong cuộc khảo sát do một ngân hàng thực hiện với các cư dân ở Tokyo, ḿ gói đă vượt qua máy tính, karaoke, và máy Walkman để trở thành phát minh có ảnh hưởng nhất của Nhật trong thế kỷ 20.
Quả thật, theo khám phá của các nhà nhân chủng học, ḿ gói có vai tṛ phức tạp hơn nhiều so với mục đích ban đầu. Theo tờ
Boston Globe, con trai của Koki Ando, người phát minh ra ḿ gói có thể đă đúng khi tuyên bố sản phẩm này có thể cứu rỗi thế giới.
Để t́m hiểu về vai tṛ của loại thực phẩm có mặt mọi lúc mọi nơi, tờ
Boston Globe mới đây đă có cuộc phỏng vấn với tác giả Deborah Gewertz.
Hỏi:
Trong ư nghĩa nào th́ ḿ gói được gọi là một “phát minh”?
Gewertz: Người Nhật có truyền thống ăn ḿ ramen từ lâu. Chúng ta đang nói đến ḿ ramen thực sự, với những thành phần công phu và các loại nước súp mất nhiều thời gian để nấu cùng mọi loại gia vị tinh tế trong đó. Vào năm 1958, có nhiều người đói sau chiến tranh… Đây là một phần của câu chuyện lưu truyền, là những ǵ được kể trong các viện bảo tàng: Một người đàn ông tên Momofuku Ando đă nh́n thấy các đồng hương của ḿnh chịu cảnh đói, và ông ta mong muốn giúp họ bằng cách chế ra một thực phẩm rẻ tiền, bảo quản được lâu và thơm ngon mà không cần mất thời gian để chuẩn bị. Ông Ando đă thử nghiệm không mệt mỏi tại một túp lều ở sau vườn, và cuối cùng ông ta trở thành một nhà kinh doanh.
Ông ta nhớ lại nguyên tắc làm món tempura, cách chuẩn bị và chiên nhanh, và ông ta quyết định sử dụng nguyên tắc làm món tempura để chế ḿ gói. Mục đích là khử nước sợi ḿ và biến chúng trở nên sốp bằng cách nhúng nó vào dầu. Chúng có thể tích nước trở lại rất nhanh.
Hỏi:
Tại sao bà quyết định nghiên cứu ḿ gói?
Gewertz: Ḿ gói dường như là một mảng của nhân chủng học, bởi ở Papua New Guinea, nơi chúng tôi làm việc - tôi làm từ thập niên 1970 c̣n Fred (Frederick Errington) từ thập niên 1960 - có rất nhiều người ăn ḿ và nói về chúng. Từng có người nói: “Nếu không có ḿ gói, sẽ không có hy vọng”.
Hỏi:
Điều ǵ khiến ḿ gói khác biệt so với các thực phẩm sản xuất hàng loạt khác?
Gewertz: Điều thú vị với chúng tôi là gần như tất cả mọi người trên thế giới từng ăn chúng, song v́ các lư do và số lượng khác nhau. Thế nên, ở những mặt nhất định, ḿ gói trở thành cách thức để kể câu chuyện toàn cầu về cách chúng ta gắn kết và tách biệt với nhau.
Hỏi:
Ḿ gói có ư nghĩa như thế nào tại những khu vực khác nhau trên thế giới mà bà nghiên cứu?
Gewertz: Thị trường Nhật là thị trường băo ḥa. Người Nhật có thể ăn ḿ ramen thật, song có 600 loại ḿ gói được giới thiệu ở thị trường Nhật mỗi năm. Những gói ḿ rất rực rỡ.
Thị trường Mỹ là thị trường hàng hóa cơ bản. Người ta mua ḿ gói bởi chúng rẻ. Có ba phân khúc, phân khúc lớn bao gồm những người sử dụng thường xuyên, thường là những người nghèo. Họ làm việc tại các cửa hàng bán thức ăn nhanh và lănh lương theo giờ. Một người đàn ông được trợ lư của chúng tôi phỏng vấn nói rằng ông ta ăn ḿ gói trong bữa sáng và bữa trưa, song chưa bao giờ ăn trong bữa tối, v́ nếu vậy nữa th́ thật đáng buồn.
Phân khúc thứ hai là các tù nhân… Họ mua ḿ gói tại kho lương thực và trộn chúng với mọi thứ một cách ấn tượng, trộn chúng với mọi thành phần khác để tạo ra các món pha chế phức tạp… Chủ yếu chúng tôi nghĩ chúng mang lại cho họ mùi vị tự do. Họ được tự ư mua chúng, được tạo ra những ǵ ḿnh muốn.
Phân khúc thứ ba, dĩ nhiên là các sinh viên đại học. Đài NPR từng làm một loạt các chương tŕnh và đề nghị bạn nghe đài, những người là cha mẹ của sinh viên, kể lại câu chuyện ḿ gói của họ, và các bậc cha mẹ tỏ ra rất hoài cổ về ḿ gói. “Hồi xưa, bạn trai tôi đến thăm pḥng tôi. Hồi đó, chúng tôi không được phép nổi lửa trong pḥng, nên chúng tôi làm ḿ gói và ngồi đó ngắm hoàng hôn”. Với những sinh viên và phụ huynh thuộc tầng lớp trung lưu, chúng trở thành thước đo trong quỹ đạo của đời sống trung lưu: “Ngày xưa, tôi sống nhờ ḿ gói”.
Cuối cùng là Papua New Guinea, nơi ḿ gói "đổ bộ" vào thập niên 1980, với nhiều người dân di cư từ các ngôi làng đến những trung tâm đô thị, chúng trở thành "sát thủ" diệt đói của người vô sản. Tiết kiệm là quốc sách, người ta không chỉ trở nên phụ thuộc vào chúng mà thật sự bắt đầu thích chúng v́ lư do khác. Người ta có thể đi đến cửa hàng mua chúng, và họ thật sự thích cảm giác được chọn lựa giữa nhiều loại. Một lập luận của chúng tôi là chúng giúp chuyển đổi người Papua New Guine thành người tiêu dùng, dù tốt hay xấu.
Hỏi:
Tương lai của ḿ gói là ǵ?
Gewertz: Tôi nghĩ không ǵ cản nổi chúng… Chúng tôi thấy những người hết sức nghèo cần có nguồn calo. Chúng tôi không nghĩ ḿ gói sẽ cứu rỗi thế giới với bất kỳ cách thức nào song chúng tôi rút ra kết luận rằng chúng có lợi nhiều hơn hại trong việc giữ cho người nghèo không phải được no đủ, song dứt khoát là c̣n sống.
Công Chính
Thanhnien