TAND  TP Hà Nội lấy đất công của UBND xã chia cho các đương sự trong một vụ  tranh chấp dân sự về nhà đất xảy ra tại xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm.
  
  
  
     |  | 
  | Hình minh họa | 
 
  Tòa cấp dưới chưa đúng
  Theo  nội dung vụ kiện, do không có đất ở nên năm 1988 bà Nguyễn Thị Chung  được UBND xã Ninh Hiệp, cho mượn đất để làm nhà ở. Năm 1992, vợ chồng  anh Nguyễn Ngọc Thắng, con trai thứ 2 của bà Chung xây trên thửa đất này  căn nhà cấp 4 để ở. Năm 1999, vợ chồng anh Thắng chuyển đi, bà Chung  cùng gia đình con cả Nguyễn Ngọc Định về ở căn nhà trên cho đến năm 2002  thì xây thêm một căn nhà 2 tầng trên thửa đất mượn.
 
  
  Tháng  2/2007, bà Chung lập một giấy phân chia nhà đất cho các cháu nội. Theo  đó, cháu Nguyễn Ngọc Phong (con anh Định) là “đích tôn” nên được bà cho  căn nhà 2 tầng trên diện tích hơn 34m2; Cháu Nguyễn Ngọc Cường, con anh  Thắng được cho căn nhà cấp 4 trên diện tích khoảng 30m2. Do bà Chung  không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên việc tặng cho này không  thể công chứng hợp pháp mà chỉ lập văn bản có sự làm chứng của luật sư  Phạm Thị Hương và ông Khuất Văn Tú.
 
  
  Sau  đó, bà Chung đột ngột qua đời và hai căn nhà trên thửa đất do chị Nhài  (mẹ cháu Phong) quản lý, nên chị Thạch Thị Thảo (mẹ cháu Cường) đem tờ  giấy chia nhà của bà Chung đến đòi nhà. Tuy nhiên, chị Nhài không chịu  nên chị Thảo khởi kiện ra tòa.
 
  
  TAND  huyện Gia lâm xác định đây là vụ kiện tranh chấp hợp đồng tặng cho tài  sản; diện tích đất mà bà Chung sử dụng có hai căn nhà được bà chia cho  hai cháu là đất công, do UBND xã Ninh Hiệp cho mượn sử dụng từ năm 1988.  Đối với bản phân chia tài sản cho hai cháu của bà Chung, TAND huyện Gia  Lâm cho rằng đây là văn bản thể hiện ý chí, nguyện vọng của bà Chung  nên dù văn bản này không đúng về hình thức, Tòa vẫn công nhận nội dung  để chia cho cháu Phong căn nhà 2 tầng và cháu Cường căn nhà cấp 4. 
 
  
  Tuy  nhiên, Tòa cấp sơ thẩm đã không giao nhà cho cháu Cường mà giao nhà cho  cháu Phong, đồng thời buộc chị Nhài trả cho cháu Cường hơn 9 triệu đồng  giá trị căn nhà cấp 4; Diện tích đất được Tòa “giao trả” cho xã để giải  quyết theo thẩm quyền.
 
  
  
Sửa sai ít thành… sai nhiều 
  Việc  Tòa án huyện Gia Lâm công nhận “nguyện vọng” của người đã khuất để biến  một hợp đồng tặng cho vô hiệu về hình thức thành có hiệu lực lẽ ra cần  phải được xem xét và sửa sai tại cấp phúc thẩm. Thế nhưng, cấp phúc thẩm  lại… sai nghiêm trọng hơn.
 
  
  Theo  TAND TP Hà Nội, văn bản phân chia tài sản do bà Chung lập ngày 9/2/2007  không phải là hợp đồng tặng cho tài sản mà là.. di chúc. Do đó, Tòa  cũng đổi luôn “tên” vụ kiện thành vụ án “yêu cầu phân chia tài sản theo  di chúc” với lý giải văn bản này thể hiện nguyện vọng của bà Chung là  cho các cháu tài sản khi còn sống, nhưng bà đột ngột qua đời thì coi đó  là di chúc cũng được. Do văn bản phân chia tài sản tài sản của bà Chung  được tòa “biến” thành di chúc nên từ chỗ vô hiệu về hình thức, văn bản  này đã trở nên hợp pháp.
 
  
  Tham  gia phiên tòa, VKSND TP Hà Nội còn “đi xa” hơn Tòa khi đề nghị Tòa chia  cả đất cho hai cháu của bà Chung cho dù nguồn gốc diện tích đất này là  đi mượn của UBND xã Ninh Hiệp.
 
  
  Với  cách nhận định như trên, TAND TP Hà Nội đã chấp nhận yêu cầu của “đòi  nhà” của cháu Cường, do chị Thảo đại diện và chia cho cháu căn nhà cấp 4  trên diện tích đất gần 30m2 theo đúng “di chúc” của bà Chung. Bản án  cũng cho phép các đương sự đăng ký quyền sử dụng đất mà bà Chung mượn,  biến của công thành của.. công  dân.                                                                         
  
   
 
    | Chúng tôi đã cuộc trao đổi với Luật sư Nguyễn Chí Đại để thấy rõ hơn cách vận dụng pháp luật rất “sáng tạo” của Tòa án. 
 
 Thưa Luật sư, Tòa phúc thẩm nhận định giấy phân chia nhà là “di chúc”, liệu có căn cứ pháp luật không?
 
 Về  cơ bản, hợp đồng tặng cho nhà và di chúc là hai giao dịch khác hẳn nhau  về bản chất và các thủ tục pháp lý liên quan. Do vậy, kết luận giao  dịch tặng cho là di chúc là điều thực sự khó làm.
 
 
 
 Tặng  cho tài sản là việc chuyển quyền sở hữu (kể cả quyền sử dụng đất) ngay  tại thời điểm ký kết, sẽ chấm dứt quyền sở hữu của người tặng cho ngay  tại thời điểm tặng cho. Di chúc là việc định đoạt tài sản khi người có  tài sản đã chết, chỉ phát sinh quyền cho người thừa kế khi người để lại  di sản qua đời.
 
 
 Về  hình thức và thủ tục thực hiện giao dịch và nội dung của hợp đồng tặng  cho và di chúc cũng khác nhau nhiều. Trong đó, tặng cho nhà đất thì bắt  buộc phải công chứng, nhưng lập di chúc thì không bắt buộc.
 
 
 Việc Tòa coi hợp đồng tặng cho là di chúc liệu có gây hậu quả gì không, thưa ông?
 
 
 
 Với  cách xử lý như thế này, Tòa có thể “biến cái không thể thành có thể”.  Nếu là hợp đồng tặng cho thì toàn bộ văn bản này là vô hiệu. Tài sản sẽ  là di sản của bà Chung chia cho những người thừa kế theo quy định của  pháp luật. Nếu là di chúc thì chỉ chia cho cháu Cường và cháu Phong theo  đúng nội dung văn bản. Việc xác định quan hệ pháp luật kiểu “tráo đổi”  của Tòa đã xâm phạm đến quyền lợi của công dân, thậm chí là cả UBND  xã.
 Xin cảm ơn ông!
 
 | 
 
  
 Bình Minh