R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Xây, Giữ, và Dọn – Chiến lược của Mỹ đối với châu Á
National Review
Xây, Giữ, và Dọn – Chiến lược của Mỹ đối với châu Á
Michael Auslin
15-8-2011
Bài báo sau đây sẽ đăng trên tạp chí National Review số ra ngày 29-8.
Kỷ nguyên toàn cầu tiếp theo của nước Mỹ đang ló rạng. Khi chúng ta (tức là Mỹ – ND) giảm quy mô hoạt động quân sự cả ở Afghanistan và Iraq, th́ sự thịnh vượng, ảnh hưởng, và an ninh tương lai của chúng ta sẽ được quyết định bởi những ǵ diễn ra trong khu vực Ấn Độ-Thái B́nh Dương đang nổi lên. Nếu chúng ta đóng vai tṛ dẫn đầu trong khu vực mênh mông trải suốt từ Ấn Độ tới Nhật Bản này, th́ những thập kỷ tới đây sẽ chứng kiến sự lớn mạnh không chỉ của siêu cường Mỹ, mà c̣n của các đồng minh tự do, dân chủ của chúng ta. Ngược lại, nhường vị thế cao ở châu Á cho Trung Quốc chắc chắn sẽ đẩy đến sự suy thoái của hệ thống quốc tế tự do hóa sau chiến tranh và sự h́nh thành một tôn giáo, một thế giới kém an toàn hơn và bất ổn hơn. Có hai câu hỏi đặt ra trước một Washington chỉ tập trung vào cắt giảm ngân sách, lại bị stress nặng sau một thập kỷ giao tranh ở Trung Đông. Câu hỏi thứ nhất là, liệu chúng ta có quyết tâm thành công ở khu vực Ấn Độ-Thái B́nh Dương không? Câu hỏi thứ hai, liệu chúng ta có phương cách nào để tiếp tục làm người đi đầu không?
Câu trả lời có thể được rút ra từ những xung đột gần đây. Ḥn đá tảng trong công cuộc chống chiến tranh du kích ở Iraq và Afghanistan là chiến lược “dọn, giữ, và xây” – tức là, dọn sạch các cuộc nổi loạn, giữ lấy khu vực, và sau đó xây dựng nên những thể chế kinh tế và chính trị để duy tŕ ổn định. Mặc dù nhiều nhà quan sát lo ngại rằng Bộ Quốc pḥng dưới thời cựu Bộ trưởng Robert Gates đă chuyển sang tập trung một cách quá cứng nhắc vào chống nổi loạn, nhưng học thuyết chống nổi loạn hiện hành thực ra có thể chỉ ra một chiến lược cho chính sách của Mỹ ở khu vực Ấn Độ-Thái B́nh Dương trong vài thập niên tới – nhưng chỉ nếu nó đảo ngược lại, thành một chiến lược “Xây, Giữ và Dọn”.
Ấn Độ-Thái B́nh Dương đang và sẽ tiếp tục là khu vực năng động nhất thế giới. Quả thật, các khuynh hướng toàn cầu đang lôi kéo trọng tâm chú ư của Mỹ về phía đông theo một cách không thể cưỡng lại. Sau Thế chiến II, chúng ta – quốc gia có tư duy truyền thống là hướng về châu Âu – một cách tự nhiên đă đặt châu Âu vào cao điểm của những mối quan tâm về an ninh quốc gia, mặc dù chúng ta cũng có tham gia vào các cuộc chiến tranh ủy nhiệm trên toàn cầu. Khi Liên Xô tan ră (trong ḥa b́nh) vào năm 1991, chúng ta chuyển sự chú ư sang Trung Đông, do bị thôi thúc bởi việc Saddam Hussein đem quân xâm chiếm Kuwait. Thập kỷ sau đấy chứng kiến sự tham gia dần dần, ngày một sâu thêm, của Mỹ vào khu vực, trong khi đó chủ nghĩa khủng bố Al-Qaeda nói riêng và Hồi giáo nói chung đụng độ ngày càng mạnh với các lợi ích của Mỹ, lên đến đỉnh điểm trong cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố, từ năm 2001 trở đi. Giờ đây, với việc chấm dứt tham gia giao tranh quân sự ở Trung Đông, Mỹ đang rút dần về phía đông, sang khu vực Ấn Độ-Thái B́nh Dương.
Rơ ràng, trong mỗi thời kỳ như thế, Washington đều duy tŕ sự tham dự của ḿnh trên khắp thế giới, dính dáng cả tới hàng loạt cuộc khủng hoảng ở Trung Đông suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, đương đầu với sự ngạo mạn của Trung Quốc trong thập niên 1990 và những tháng trước biến cố 11-9. Nhưng trong mỗi giai đoạn của thời hậu Thế chiến II này, đều có một sự đồng thuận rộng răi trên tầm quốc gia về những mối đe dọa chính yếu đối với sự an toàn của Mỹ và các cơ hội lớn cho sự thịnh vượng của nó, và châu Âu cùng với Trung Đông là hai khu vực chiếm ưu thế vượt trội trong tư duy về an ninh quốc gia. Trong kỷ nguyên Ấn Độ-Thái B́nh Dương sắp tới, Mỹ sẽ không từ bỏ cam kết của ḿnh đối với Trung Đông, và sẽ phải đương đầu với một nước Iran tiềm ẩn khả năng hạt nhân, nguy cơ sụp đổ kinh tế của châu Âu, và nguy cơ khủng bố. Nhưng sự đồng thuận mới của chúng ta chắc chắn sẽ tập trung vào những cơ hội và rủi ro mà châu Á đặt ra cho tương lai của nước Mỹ.
Khu vực Ấn Độ-Thái B́nh Dương trải dài từ Ấn Độ Dương tới tây Thái B́nh Dương. Nó chiếm hơn nửa dân số thế giới, gồm cả dân cư Ấn Độ và Trung Quốc – hai quốc gia đông dân nhất thế giới. Nó có nền dân chủ lớn nhất thế giới ở Ấn Độ; có hai nền kinh tế lớn nhất, của Trung Quốc và Nhật Bản; và ít nhất ba siêu cường có khả năng hạt nhân. Cuộc đấu tranh v́ dân chủ và tự do đă đạt những bước tiến phi thường ở Ấn Độ-Thái B́nh Dương trong vài thập niên qua. Khu vực có ba đầu tàu là Nhật Bản, Australia và Ấn Độ, c̣n các xứ sở trải suốt từ Hàn Quốc tới Đài Loan, Mông Cổ, Indonesia th́ hoặc là đă có dân chủ đầy đủ, hoặc vẫn đang tiếp tục công cuộc thúc đẩy tự do chính trị. Những nước khác như Thái Lan và Philippines th́ phải đấu tranh để có được sự ổn định dân chủ.
Ấn Độ-Thái B́nh Dương là đầu tàu kinh tế và làm ra cả kho hàng hóa tiêu dùng cho thế giới. Tầng lớp trung lưu của họ ngày càng tăng theo mức trăm triệu, suốt từ Ấn Độ qua Trung Quốc tới Nhật Bản và Hàn Quốc. Đây cũng là các thị trường chủ chốt để các nhà xuất khẩu trên thế giới tăng trưởng. Khu vực đă đạt gần 2 ngh́n tỷ USD trao đổi hàng hóa và dịch vụ với Mỹ. Pḥng Thương mại Hoa Kỳ ước tính rằng khoảng 11 triệu công việc ở Mỹ phụ thuộc theo một cách nào đó vào thương mại với khu vực châu Á rộng lớn.
Sự phát triển của Ấn Độ-Thái B́nh Dương, tuy có lợi cho người tiêu dùng, nhưng lại đặt ra những thách thức đáng kể cho ổn định kinh tế trong tương lai. Mức tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc đă tăng gấp đôi kể từ năm 2000, và trong thập niên qua, họ chiếm tới 78% mức tăng toàn cầu về sử dụng than. Nhật Bản là nước tiêu dùng năng lượng nhiều thứ ba thế giới, sau Trung Quốc và Mỹ; trong khi Hàn Quốc đứng thứ 8. Tất cả những quốc gia này đều phụ thuộc vào hàng nhập khẩu. Về lâu dài, sự mở rộng của nền kinh tế châu Á sẽ không chỉ gây áp lực ngày càng tăng lên giá năng lượng toàn cầu ở những thập niên tới, mà c̣n có ảnh hưởng đối với an ninh giao thông hàng hải, an ninh cảng biển, chủ nghĩa khủng bố, và xung đột khu vực, xuất phát từ những nguồn năng lượng tiềm tàng. Những cuộc xung đột như thế tăng vọt trong vài năm qua, với những yêu sách đối kháng về chủ quyền trên Đông Hải và biển Hoa Nam, nơi có nhiều mỏ dầu và khí tự nhiên.
Khu vực Ấn Độ-Thái B́nh Dương cũng làm cho những lực lượng quân sự lớn nhất thế giới ph́nh to thêm. Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia đă có hải quân và không quân hiện đại, tinh vi, trong khi những nước đang phát triển như Ấn Độ, Indonesia, và Việt Nam th́ đang mua tàu ngầm mới (trong trường hợp Ấn Độ th́ họ c̣n mua thêm cả tàu biển và phản lực chiến đấu mới nữa). Bắc Triều Tiên duy tŕ quân đội triệu lính, cùng một chương tŕnh tên lửa đạn đạo và hạt nhân ở thế chủ động. Hơn 40.000 quân Mỹ hiện diện vĩnh viễn trên Ấn Độ-Thái B́nh Dương, và đa số tàu sân bay, khu trục hạm và tàu ngầm của chúng ta đều đang đóng hoặc ở Ấn Độ-Thái B́nh Dương, hoặc ở Biển Tây nước Mỹ. Trong những năm tới, Mỹ chắc chắn sẽ đặt hạm đội máy bay ném bom và máy bay chiến đấu ở Thái B́nh Dương, với một số lượng máy bay cao hơn nhiều. Đặc biệt đáng quan tâm là việc Trung Quốc xây dựng quân đội. Bắc Kinh đang chủ động phát triển năng lực quân sự để giảm ưu thế định tính của Mỹ và để nhằm vào các căn cứ cũng như lực lượng của Mỹ một cách hiệu quả, hy vọng tạo ra được một môi trường trong đó quân Mỹ sẽ khó bước chân vào khu vực và khó có thể hoạt động thoải mái nếu vào được. Trong những chương tŕnh đặc biệt gây lo ngại cho các nhà hoạch định chính sách quân sự của Mỹ, có chương tŕnh tên lửa đạn đạo chống tàu biển DF-21, được thiết kế để theo dơi tàu lớn của Mỹ trên biển; máy bay tàng h́nh J-20, có khả năng hạn chế sức mạnh của máy bay tàng h́nh F-22s và F-35s của Mỹ; hạm đội tàu ngầm đang gia tăng về số lượng, hiện đă có trên 70 tàu ngầm; cùng các chương tŕnh chiến tranh trên mạng, được thiết kế để tấn công cơ sở hạ tầng Internet trong bộ máy quốc pḥng Mỹ.
Các nhà làm chính sách cần bắt đầu lên kế hoạch và thực hiện một chiến lược cho kỷ nguyên Hoa Kỳ sắp tới, trước khi chúng ta mất thêm nhiều cơ sở kinh tế, hoặc trước khi t́nh trạng mất an ninh dẫn tới bất ổn và khả năng xung đột quân sự. Cũng như công việc chống bạo loạn truyền thống, việc này đ̣i hỏi thời gian, toàn tâm toàn ư, và nguồn lực. Con đường trước mặt là Xây, Giữ và Dọn.
Cái cốt lơi của chiến lược Mỹ ở châu Á trong sáu thập kỷ tới, cho đến nay vẫn là một hệ thống đồng minh song phương về quốc pḥng, gọi là chiến lược “trục bánh xe và nan hoa” (“hub and spoke”). Những hiệp ước đồng minh kư với Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Thái Lan và Philippines, không chỉ ràng buộc Mỹ vào công việc bảo vệ những quốc gia này trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, mà c̣n tạo điều kiện cho Mỹ hiện diện trong khu vực, đặc biệt là nhờ quan hệ đồng minh với Nhật Bản – cơ sở chính cho sự có mặt của quân đội Mỹ ở châu Á.
Mặc dù các đồng minh song phương đó cũng giúp ích cho chúng ta, và sẽ tiếp tục là cốt lơi của quan hệ an ninh của Mỹ ở châu Á, nhưng cũng đă đến lúc phải xây dựng một cộng đồng lớn hơn tại khu vực Ấn Độ-Thái B́nh Dương, bao gồm các đối tác cả cũ lẫn mới. Qua việc xây dựng một cấu trúc (an ninh) mới, Mỹ có thể ra mặt thúc đẩy xây dựng một khu vực dân chủ, thịnh vượng và ổn định hơn. Cộng đồng mới này sẽ bao gồm các quốc gia lớn nhỏ, tự do hoặc đang trên đường tự do hóa, hợp tác với nhau và với Washington để củng cố ổn định khu vực và tăng cường an ninh. Họ có thể được xem như một tập hợp những “tam giác đồng tâm”, nối kết các siêu cường khu vực với những nước đang phát triển nhỏ yếu hơn. Đây không phải là một hệ thống đồng minh, mà là một cộng đồng lợi ích; cộng đồng ấy sẽ tạo ra những cấp độ lợi ích chung khác nhau và đều cần thiết cho sự phát triển của khu vực Ấn Độ-Thái B́nh Dương trong tương lai.
Tam giác bên ngoài sẽ bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, tất cả đều là đồng minh của Mỹ, cùng với Ấn Độ – siêu cường tiếp theo, đang nổi lên trong khu vực. Các giá trị chính trị – xă hội căn bản mà ba quốc gia này chia sẻ, cùng với cam kết thực hiện tự do thương mại toàn cầu của họ, tạo ra nền tảng chung cho việc thúc đẩy dân chủ, xă hội dân sự, pháp trị trên toàn khu vực. Mỗi nước đều có liên quan đến vô số quốc gia khác; họ viện trợ, kư hiệp định mậu dịch tự do, và đôi khi c̣n tiến hành tập trận chung. Quan trọng nhất là, mỗi nước đều rất có ảnh hưởng đối với các láng giềng, do vậy, cả bốn quốc gia kể trên đều có thể đóng vai tṛ lănh đạo trong khu vực sát cận với họ, phối hợp với lực lượng quân sự Mỹ. Washington nên hướng tới lập một diễn đàn cấp cao, lâu dài, với bốn quốc gia tự do này, để thảo luận các vấn đề an ninh toàn khu vực, xác định những nguy cơ và thách thức chung, và theo đuổi một tiếng nói chung bất cứ khi nào có thể tại các định chế khu vực và quốc tế.
Mặc dù ban đầu th́ hợp tác với ba nước đồng minh hiện tại của Mỹ có thể dễ hơn, nhưng không thể có sáng kiến ngoại giao và an ninh có giá trị thực tiễn nào nếu thiếu sự tham gia của Ấn Độ. Chính sách của Mỹ nên khuyến khích cả bốn quốc gia cùng tham dự vào việc h́nh thành các thể chế chính trị khu vực trong một hệ thống tự do, và cùng đóng góp nguồn lực để bảo vệ an ninh khu vực nói chung và nói riêng tại các vùng lân cận với họ. Khi hợp tác với Mỹ, mỗi nước đều cần mở rộng dần dần diện tuần tra hàng hải, tiến hành tập trận quân sự thường xuyên hơn với quy mô lớn hơn, phát triển và chia sẻ thông tin t́nh báo, hợp tác với các nước nhỏ yếu hơn để thúc đẩy tự do.
Tam giác ngoài tập trung vào chiến lược tổng thể cho vùng Ấn Độ-Thái B́nh Dương. Ngoài ra, Mỹ cũng nên xây dựng một tam giác trong, tập trung vào Indonesia, Singapore, Malaysia và Việt nam. Tam giác đó có tâm là vùng phía nam biển Hoa Nam (tức Biển Đông – ND), và đặc biệt là những tuyến đường biển sống c̣n, trong đó có eo biển Malacca, nơi mà thông qua đó, hơn 50.000 tàu biển và một phần tư hàng hóa mậu dịch toàn cầu lưu thông mỗi năm, đấy là chưa kể tới một nửa lượng dầu chuyên chở trên toàn thế giới cũng phải đi qua đó. Khu vực này là cái bản lề giữa Ấn Độ Dương và tây Thái B́nh Dương, nối kết hai nửa Ấn Độ-Thái B́nh Dương. Các nước ở đây đều có vị trí chiến lược, đều tham gia sâu vào Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đều bị sức ép trước những yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền trên biển, đều có vai tṛ kinh tế rất quan trọng, và (ngoại trừ Việt Nam) đều đang tự do hóa theo những mức độ khác nhau.
Tăng trưởng kinh tế ở tất cả các quốc gia này đang tạo ra một tầng lớp trung lưu mới, dồi dào, và chính quyền mỗi nước nên được khuyến khích tự do hóa hơn nữa thể chế chính trị và kinh tế của họ. Hiện tại Malaysia, Singapore và Indonesia đều đă tham gia tuần tra chung chống cướp biển, và hợp tác với Mỹ, Australia trong chính sách chống khủng bố. Mỗi nước đều thúc giục ASEAN tỏ lập trường vững vàng hơn trước sự hung hăng của Trung Quốc trên biển Hoa Nam, và họ cũng đă tham gia xây dựng Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á mới. Lợi ích và vị trí địa lư của họ khiến cho họ trở thành đối tác lư tưởng (của Mỹ) để góp phần củng cố an ninh trên những tuyến đường hàng hải quan trọng, cung cấp các vị trí t́nh báo quan trọng cũng như mở đường vào cho không quân và hải quân của Mỹ và các đồng minh, ngoài việc Singapore mở Căn cứ Hải quân Changi. Indonesia, Malaysia và Việt Nam nói riêng th́ đang t́m cách tăng cường năng lực hải quân và không quân để tuần tra trên các bờ biển trải dài và vùng biển rộng lớn của họ.
|