| R8 Vơ Lâm Chí Tôn 
				 
				Join Date: Jun 2009 Location: US 
					Posts: 17,796
				 Thanks: 0 
		
			
				Thanked 0 Times in 0 Posts
			
		
	 Mentioned: 0 Post(s) Tagged: 0 Thread(s) Quoted: 0 Post(s) 
				
				
  
    Rep Power: 34      | 
			
			Những sự kiện gần đây tại Biển Đông đang làm cho dư  luận đặt câu hỏi: phải chăng Bắc Kinh đang áp dụng binh pháp Tôn Tử cố  t́nh biến cái không thể thành có thể, biến các khu vực không tranh chấp  thành các khu vực tranh chấp để đ̣i hỏi được chia phần tài nguyên trên  thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng yếu thế thông  qua công thức "gác tranh chấp cùng khai thác".
 
 
  Hiện trường nơi xảy ra vụ tàu cá Trung Quốc lao vào phá cáp tàu Viking2Bắc Kinh đang dụng chiêu biến không thành có
 
 Tôn Tử, chiến lược gia đại tài trong lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng với  thuật dùng binh, biến hư thành thực, thực thành hư, làm đối phương nghi  kỵ, chia rẽ lẫn nhau, rơi vào thế bị động, qua đó đạt được mục tiêu  khống chế của ḿnh. Những người mê chuyện Tam Quốc, hẳn c̣n thán phục  Khổng Minh trong thành rỗng dùng tiếng đàn đuổi hàng vạn hùng binh của  Tư Mă Ư, hay Tào Tháo cố t́nh tẩy xóa thư gửi Hàn Toại, lấp lửng nửa kín  nửa hở, gây nghi ngờ, chia rẽ chú cháu Hàn Toại, Mă Siêu để hai bên tự  đánh nhau đi đến chỗ tan ră.
 
 Những sự kiện gần đây tại Biển Đông đang làm cho dư luận đặt câu hỏi:  phải chăng Bắc Kinh đang áp dụng binh pháp Tôn Tử cố t́nh biến cái không  thể thành có thể, biến các khu vực không tranh chấp thành các khu vực  tranh chấp để đ̣i hỏi được chia phần tài nguyên trên thềm lục địa và đặc  quyền kinh tế của các nước láng giềng yếu thế thông qua công thức "gác  tranh chấp cùng khai thác".
 
 Sự kiện tàu B́nh Minh 02 bị cắt cáp địa chấn trên thềm lục địa cách bờ  biển Việt Nam 120 hải lư được dư luận đánh giá là nghiệm trong v́ 1) vụ  việc xảy ra nằm sâu trong thềm lục địa và đặc quyền kinh tế mà quốc gia  ven biển như Việt Nam được hưởng một cách hợp pháp theo Công ước Luật  biển của Liên hợp quốc năm 1982; 2) do một lực lượng chấp pháp của một  nước tiến hành có chủ ư; 3) xâm phạm tài sản công của một quốc gia độc  lập có chủ quyền. Song dưới con mắt của các phát ngôn viên Trung Quốc  th́ đó là việc làm "b́nh thường và hợp lư ở khu vực biển thuộc thẩm  quyển và quyền tài phán của Trung Quốc". Thậm chí, người phát ngôn Bộ  Ngoại giao Trung Quốc c̣n yêu cầu Việt Nam "tránh tạo ra những sự cố  mới".
 
 Tại Đối thoại Shangri-La ngày 3-5/6/2011, khi bị chất vấn, Bộ trưởng  Quốc pḥng Trung Quốc đă dùng tới 27 lần từ ḥa b́nh trong phát biểu của  ḿnh và khẳng định "Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc không có hành  động can dự nào vào sự việc vừa diễn ra". Trung Quốc đang thực hiện  chiến thuật vừa đấm vừa xoa. Họ nhiều lần khẳng định yêu chuộng ḥa  b́nh, sẵn sàng cùng các bên đàm phán. Trong khi Việt Nam đang chân thành  mong muốn Trung Quốc thể hiện đúng như những ǵ mà Trung Quốc đă nói và  cam kết th́ các hoạt động trên biển lại càng trở nên phức tạp. Liên tục  các tàu cá của Việt Nam và Philippines bị tấn công. Ngày 9/6/2011, tàu  khảo sát địa chấn Viking 02 của Việt Nam lại tiếp tục bị tàu cá và tàu  ngư chính của Trung Quốc quấy rối cắt cáp, phá chân vịt tại lô 136 thềm  lục địa phía Nam. Vị trí lần này cũng chỉ cách đường cơ sở Việt Nam gần  100 hải lư.
 
 Trước đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi lớn tiếng đổ  lỗi cho Việt Nam: "Trung Quốc có chủ quyền không tranh căi với quần đảo  Trường Sa và lănh hải gần đó. Trung Quốc và Việt Nam nhiều lần đă đạt  được sự đồng thuận quan trọng về cách xử lư phù hợp các vấn đề hàng hải  và duy tŕ ổn định ở Biển Đông. Chúng tôi hy vọng phía Việt Nam sẽ có  các nỗ lực nghiêm túc để thực hiện những đồng thuận liên quan". Một  tuyên bố lấp lửng làm dư luận có thể hiểu nhầm Trung Quốc và Việt Nam đă  có những đồng thuận và chính Việt Nam là bên không thực hiện. Rơ ràng  Trung Quốc và Việt Nam đang tiến hành đàm phán thỏa thuận nguyên tắc về  giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Điều này thể hiện thiện chí của  Việt Nam, tuân thủ các nguyên tắc của luật quốc tế giải quyết ḥa b́nh  các tranh chấp, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan  hệ quốc tế.
 
 Lập trường của Việt Nam gồm 4 điểm:
 
 1) Việt Nam được quyền có thềm lục địa và đặc quyền kinh tế riêng từ đất  liền Việt Nam không có tranh chấp, tách biệt với các vùng biển hai quần  đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
 
 2) Hai quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam,
 
 3) vùng biển của các đảo trong hai quần đảo được xác định theo Công ước  luật biển năm 1982, cụ thể theo điều 121.3. Các đảo thuộc hai quần đảo  này nếu có thềm lục địa và đặc quyền kinh tế th́ cũng là những vùng biển  hạn chế không thể có đầy đủ hiệu lực trong phân định như từ lănh thổ  đất liền, phù hợp nguyên tắc "đất thống trị biển",
 
 4) trong khi t́m kiếm một giải pháp cơ bản lâu dài, các bên tranh chấp ở  Biển Đông cần kiềm chế, không mở rộng chiếm đóng mới, không có những  hành động làm phức tạp thêm t́nh h́nh, hợp tác trong những lĩnh vực ít  nhạy cảm như bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học biển, pḥng chống  cướp biển theo đúng tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở  Biển Đông DOC 2002.
 
 Như vậy, đúng như người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đă trả lời :  "Không có nhận thức chung nào nói rằng Trung Quốc có quyền cản trở các  hoạt động của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của  Việt Nam. Chính hành động này của Trung Quốc đă đi ngược lại nhận thức  chung của lănh đạo cấp cao hai nước".
 
 Đường lưỡi ḅ và lập luận lạ lùng
 
 Vậy thực chất đằng sau những lời nói và việc làm trái ngược của Trung  Quốc là ǵ? Tờ Trung Quốc nhật báo (China Daily) ngày 8/6/2011 đă không  ngại ngùng bộc lộ. Tranh chấp Biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Nam  Trung Hoa) có ư nghĩa chiến lược quan trọng với Trung Quốc bởi hai lư  do: Thứ nhất, Trung Quốc là nước lớn nhưng chưa phải là một siêu cường  biển. Mặc dù có thềm lục địa và đặc quyền kinh tế rộng, bờ biển đất liền  và đảo dài nhưng phần đóng góp của biển với GDP c̣n nhỏ. Chỉ với một số  ít các đảo đang tranh chấp nằm dưới sự kiểm soát của ḿnh, Trung Quốc  không có đường để nối biển với đại dương. Thứ hai, không có một lực  lương hải quân mạnh và sự chú trọng các quyền lợi biển, Trung Quốc vẫn ở  vị thế không thuận lợi. Muốn trở thành một siêu cường có ảnh hưởng,  Trung Quốc buộc phải chuyển từ "cường quốc đất liền" sang "siêu cường  biển". Và tranh chấp Biển Đông là phép thử thực tế cho việc đạt được mục  tiêu đó. Để thực hiện ư đồ độc chiếm Biển Đông, không ǵ tốt hơn phương  thức biến cái của người khác thành của ḿnh, biến vùng biển không tranh  chấp thành vùng biển có tranh chấp, đ̣i chia sẻ tài nguyên và quyền  kiểm soát biển trên vùng biển của nước khác dưới chiêu thức 'gác tranh  chấp cùng khai thác".
 
 Tháng 5/2009 Trung Quốc lần đầu tiên đưa yêu sách đường lưỡi ḅ ra trước  công chúng, trước Liên hợp quốc nhưng lại lớn tiếng cho rằng con đường  này là đường lịch sử đă được cộng đồng quốc tế công nhận rộng răi và  toàn bộ các đảo, đá, băi cạn nửa nổi nửa ch́m, thậm chí đến cả các băi  chưa từng nổi lên cũng như các vùng nước liên quan, đáy biển và ḷng đất  dưới đáy biển trong phạm vi con đường này thuộc quyền quản hạt của  Trung Quốc. Có nhẽ chỉ những học giả Trung Quốc quen xem ḿnh là trung  tâm của thế giới mới có lập luận lạ lùng như vậy.
 
 Tại Hội nghị luật biển lần thứ nhất năm 1958 trong danh sách các vùng  nước, vịnh lịch sử của thế giới, đốt đuốc lên cũng chẳng thấy có văn bản  nào ghi nhận cái đường lưỡi ḅ. Một con đường đứt đoạn, vẽ tùy ư, không  tọa độ sao có thể là một ranh giới biển được cộng đồng quốc tế thừa  nhận. Khái niệm "vùng nước liên quan" cũng chỉ là sản phẩm riêng của  Trung Quốc, không có trong Công ước Luật biển của Liên hợp quốc. Ngay  sau khi Trung Quốc lưu chiểu tấm bản đồ này lên Liên hợp quốc, Việt Nam,  Malaysia và muộn hơn là Philippines đă lên tiếng phản đối. Các nước  không liên quan như Indonesia, Mỹ cũng đều phê phán tính vô lư của con  đường.
 
 Ngày 14/4/2011, Trung Quốc lại đưa ra lập luận mới, quần đảo Nam Sa  (Trường Sa) có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Lần đầu  tiên Trung Quốc đưa ra yêu sách theo ngôn ngữ của luật biển quốc tế.  Điều đó không có nghĩa là Trung Quốc từ bỏ đường lưỡi ḅ. Họ vẫn tiếp  tục dùng cả đường lưỡi ḅ và luật biển khi cần thiết và để bổ trợ cho  nhau. Lấy sự không rơ ràng làm cơ sở bào chữa cho các hành động vi phạm  luật quốc tế của ḿnh. Thực chất đường lưỡi ḅ giống như một đường chủ  trương yêu sách lớn của Trung Quốc làm thế mặc cả cho những đàm phán  giải quyết sau này. Càng mở rộng vùng tranh chấp vào sâu lănh thổ hay  vùng biển đối phương càng có lợi thế để mặc cả. Các nước có tranh chấp  lănh thổ với Trung Quốc chẳng lấy ǵ làm lạ với chiến thuật biến không  thành có này của Bắc Kinh.
 
 Cạm bẫy "gác tranh chấp, cùng khai thác"
 
 Bước thứ hai của chiến lược "biến cái không thể thành có thể" là tạo cớ,  gây sức ép với các nước lân cận để khẳng định trên thực tế "đường lưỡi  ḅ" của Trung Quốc. Đây là lư do vi sao gần đây Trung Quốc đẩy mạnh các  hoạt động quấy rối. Từ việc đơn phương thiết lập lệnh cấm đánh bắt cá ở  Biển Đông hàng năm từ 15/5 đến 31/8 tới các hoạt động cản trở tàu thuyền  Việt Nam và Philippines trong tháng 3-tháng 6/2011, hay hoạt động dùng  tàu ngầm đặt quốc huy dưới đáy biển Băi cạn Tăng Mẫu gần Malaysia đầu  năm 2011, các hoạt động này đều có một điểm chung là nằm trên ranh giới  của "đường lưỡi ḅ".
 
 Bắc Kinh mong muốn dưới sức ép của cây gậy, các bên hữu quan sẽ phải  chấp nhận củ cà rốt họ đưa. Đó là chủ trương "chủ quyền tại ngă, gác  tranh chấp cùng khai thác". Chủ trương này theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc  gồm 4 yếu tố : 1) Chủ quyền đối với các vùng lănh thổ liên quan thuộc  về Trung Quốc; 2) Khi điều kiện chưa chín muồi để có giải pháp cho tranh  chấp chủ quyền, đàm phán về chủ quyền có thể hoăn lại để có thể gác  tranh chấp sang một bên. Gác tranh chấp không có nghĩa từ bỏ chủ quyền.  Nó chỉ là gác tranh chấp lại chờ thời gian thích hợp; 3) Khai thác chung  các vùng lănh thổ liên quan; 4. Mục đích của khai thác chung là nâng  cao sự hiểu biết lẫn nhau và tạo điều kiện cho giải pháp cuối cùng về  chủ quyền lănh thổ.
 
 Như vậy "gác tranh chấp cùng khai thác" của Trung Quốc thực chất chỉ để  phục vụ cho điều kiện thứ nhất "Chủ quyền đối với các vùng lănh thổ liên  quan thuộc về Trung Quốc". Chấp nhận "gác tranh chấp cùng khai thác",  tức chấp nhận đường yêu sách lưỡi ḅ của Bắc Kinh. Điều kiện chín muồi ở  đây là thời điểm Bắc Kinh đủ sức để kiểm soát toàn bộ các vùng biển và  lănh thổ này trong phạm vi đường lưỡi ḅ. Trong khi chờ đợi điều kiện  chín muồi này th́ các bên cùng khai thác, tức Bắc Kinh có quyền ngang  hàng với nước chủ nhà trong thăm ḍ, khai thác và quản lư các tài nguyên  của họ. Khu vực gác tranh chấp cùng khai thác chỉ được đề xuất trên  thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của nước khác mà Bắc Kinh chưa thể và  không thể kiểm soát. Khu vực gác tranh chấp cùng khai thác không được  Bắc Kinh chấp nhận ở những nơi họ đă giành được quyền kiểm soát một cách  phi pháp như Hoàng Sa và một số khu vực ở Trường Sa.
 
 Đă đến lúc đưa vấn đề ra LHQ
 
 Đường lưỡi ḅ và gác tranh chấp cùng khai thác là hai yếu tố cấu thành  của một chủ trương lớn độc chiếm Biển Đông. Các hành động mạnh bạo vừa  qua là thể hiện ư chí của Trung Quốc áp đặt cho các nước xung quanh Biển  Đông chấp nhận công thức đó. Phép thử của Trung Quốc ngày 26/5/2011  muốn nắn gân Việt Nam, Philippin, Hiệp hội các nước ASEAN, Mỹ và các  nước khác có lợi ích ở Biển Đông. Phản ứng của Việt Nam, Philippin,  Malaysia, Indonesia và Mỹ là tích cực. Các bên đều mong muốn Trung Quốc  tôn trọng những ǵ đă cam kết, cần phải có một lộ tŕnh rơ ràng nếu  không sẽ có đụng độ.
 
 Tuy nhiên những phản ứng đó có lẽ c̣n chưa đủ để ngăn cản những bước đi  liều lĩnh của Bắc Kinh, tiếp tục xây dựng các công tŕnh trên các băi đá  ngầm gần Philippin và cắt cáp của tàu Viking 02 trên thềm lục địa Việt  Nam. Đă đến lúc Việt Nam và Philippin đưa vấn đề ra trước Liên hợp quốc  hoặc cả hai nước cùng gửi Công hàm lên Liên hợp quốc. ASEAN dưới sự chủ  tọa của Indonesia cần sớm có một Tuyên bố về t́nh h́nh Biển Đông như  Tuyên bố năm 1992 mở đầu cho quá tŕnh xây dựng Tuyên bố DOC.
 
 Các nước có quyền lợi ở Biển Đông và ASEAN cần sớm đưa vấn đề giải thích  và áp dụng điều 121.3 của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm  1982 về quy chế các đảo đá ra trước Hội nghị các nước thành viên Công  ước Luật biển. Một trong những nguồn gốc làm phức tạp vấn đề Biển Đông  chính là sự không rơ ràng của điều khoản này. Và tất cả những nước có  thềm lục địa và đặc quyền kinh tế hợp pháp bị vi phạm cần kiên quyết  thực hiện quyền tự vệ chính đáng của ḿnh trước những hành động quá  khích, đe dọa tính mạng và tài sản công. Có như thế điều không thể vẫn  chỉ là không thể và công lư không bị xói ṃn.
 
 
 Việt Long (ĐHQG Hà Nội)TVN
 
 |