| 
			
			 R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư 
			
			
			
				
			
			
				 
				Join Date: Dec 2008 
				
				
				
					Posts: 44,699
				 
				 
	Thanks: 262 
	
		
			
				Thanked 591 Times in 456 Posts
			
		
	 
	Mentioned: 0 Post(s) 
	Tagged: 0 Thread(s) 
	Quoted: 1 Post(s) 
				
				
  
    Rep Power:  61
  
  
  
				
				     
			 
	 | 
	
	
	
		
		
		
		
			
			Bá quyền Trung Quốc, lỗi của Henry Kissinger 
   
  Đọc sách Kissinger “On China” 
   
T́nh cờ tôi đọc cuốn tiểu thuyết “The ridlle of the sands” (Bí mật của  cát) trước cuốn “On China” của Henry Kissinger. Năm 1903, Erskine  Childers viết cuốn tiểu thuyết gián điệp “The riddle of the sands”, cuốn  sách mới xuất bản đă bán chạy. Sau được liệt vào hàng 100 cuốn tiểu  thuyết hay nhất thế giới trong ṿng 300 năm. Cuốn truyện có nội dung kể  trước thế chiến thứ nhất khi nhân viên ngoại giao người Anh, anh chàng  Carruthers được ông bạn Davies gọi đến biển Baltic, cùng trôi nổi trên  chiếc thuyền đánh cá qua các đảo Frisians của Đức. Họ khám phá âm mưu  Đức đang đóng tàu chiến, tàu ngầm, tàu phóng thủy lôi để tấn công Anh.  Qua cuốn tiểu thuyết ông Childers đă cảnh giác về cuộc chiến giữa Đức và  Anh sẽ xảy ra ở Bắc Hải. Cuốn tiểu thuyết đánh thức chính quyền Anh.  Thủ tướng Winston Churchill sau này đă nói: “cuốn sách là lư do chính  khiến Anh quyết định thiết lập các căn cứ hải quân ở Đại Tây Dương”. Hơn  trăm năm sau, câu chuyện đang xảy ra ở Thái B́nh Dương giữa Trung cộng  và Hoa Kỳ gần giống như tiểu thuyết của Erskine Childers. 
   
  Bá quyền Trung Quốc 
   
Đúng vào lúc Bộ trưởng Quốc pḥng Hoa kỳ Robert Gates chuẩn bị dự hội  nghị An ninh Á Châu ở Singapore ngày 31/5/2011, Trung Cộng dằn mặt Hoa  Kỳ, dạy Việt Nam một bài học trên biển Đông, vùng biển đang tranh chấp  giữa Trung Cộng và các quốc gia láng giềng. Vụ tàu B́nh Minh 2 của công  ty nhà nước Petro Vietnam bị cắt dây cáp và các thuyền đánh cá Việt Nam  bị giữ cuối tháng 5 ở hải phận 120 dặm ngoài Phú Yên và quần đảo Hoàng  Sa-Trường Sa không phải là sự kiện mới. 
   
Tháng 3/2010, Trung cộng tuyên bố vùng Đông Á quan trọng cho quyền lợi  của họ giống như Tây Tạng và Đài Loan. Trung Cộng dành quyền các hải đảo  Hoàng Sa, Trường Sa, tranh giành vùng biển trong đó Việt Nam, Nam  Dương, Phi Luật Tân, Mă Lai và Brunei đều có chủ quyền. Hải quân Trung  Cộng đi tuần ngang nhiên bắt ngư dân và thuyền đánh cá Việt Nam. Tháng  09/2010, tàu Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng một tàu Trung Cộng gây ra  căng thẳng Hoa – Nhật. Gần hơn một thập niên, Hoa Kỳ tập trung quân đội ở  Iraq và A Phú Hăn để vùng biển Đông cho Trung Cộng thao túng, nay ông  Bộ trưởng Quốc pḥng Robert Gates, tái xác nhận ở buổi đối thoại  Shangri-la, quyền lực và vai tṛ của Hoa Kỳ ở Thái B́nh Dương. 
   
Tại sao gọi là đối thoại Shangri-la? Trong khi Shangri-la một huyền  thoại đă chết. Shangri-la là vùng đất tưởng tượng, huyền bí ở giữa các  rặng núi Tây Tạng, vùng đất xanh tươi, thiên đường hạ giới Eden tưởng  tượng trong truyện “Lost Horizon” của James Hilton năm 1933. Shangri-la  từ đó tượng trưng cho Tây Tạng nhưng từ đầu thập niên 1990 Tây Tạng đă  bị nhà cầm quyền Trung Cộng phá vỡ. Trong chính sách “Hán hóa” nhà cầm  quyền cộng sản cho người Hán đến lập nghiệp. Đền Potala bị vây bởi hộp  đêm, karaoke, nhà tắm hơi, đĩ điếm, 90% đền đài Lhasa bị phá; ḅ thiêng  bị giết để cung cấp cho kỹ nghệ “fast food” Bắc Kinh. Ngọn núi giả 36  mét được dựng lên thay cho ngọn núi Everest tượng trưng cho công trời  biển của Đảng Cộng Sản Trung Quốc ! Đức Đạt Lai Lạt Ma bị gọi là “con  sói đội áo thầy tu,” “ḷng người dạ thú.” 
   
Nhà cầm quyền Trung Cộng cấm kỵ 3 chữ T và một chữ F - Tibet, Taiwan,  Thiên An Môn và Fa Lun Gong (Pháp Luân Công) xem Đài Loan là phần đất  của Trung Hoa, họ đă hậm hực khi Hoa Kỳ bán thêm vũ khí cho Đài Loan  nhất là chiến đấu cơ F-16 C/D trong khi Bắc Kinh chĩa 1.400 hỏa tiễn về  phía Đài Loan và đang chế tạo tiềm thủy đ́nh, chiến đấu cơ, chiến thuyền  với sự trợ giúp của Nga. 
   
Trong đất liền, Nội Mông đă bị đồng hóa với số dân Hán cao hơn (80%) so  với dân Mông Cổ giống như ở Tây Tạng và Tân Cương. Từ năm 1991, Trung  Quốc xây đường rày xe lửa chở dầu từ Lashio, Mytkyina ở Miến Điện về Bắc  Kinh. Các hải cảng Sitwee ở vịnh Bengal nằm trong tay Trung Cộng, hải  cảng được sử dụng trong mục tiêu dân sự chuyên chở dầu cũng như mục tiêu  quân sự. Bị các chánh quyền Hoa Kỳ và Âu Châu cấm vận, chánh quyền quân  sự bị mua chuộc, Miến Điện chính thức trở thành chư hầu của Bắc Kinh. 
   
Sau khi kiểm soát được hải cảng Miến Điện, tránh đi qua con đường tắt  Malacca ở Tân Gia Ba, Trung Cộng muốn kiểm soát Việt Nam, biến Việt Nam  thành chư hầu. Ngoài hải sản và dầu hỏa, biển Đông là một hải lộ cần  thiết để chận đường Hoa Kỳ, Nhật và Nam Hàn và cũng như trong truyện  “the Riddle of the Sands” Trung Quốc không muốn các thuyền đánh cá các  nước ḍm ngó vào những bí mật quân sự, đóng tàu ngầm, tàu chiến, tiềm  thủy đ́nh ở vùng đảo Hải Nam, Trường Sa, Hoàng Sa. 
   
Lúc gần đây người Miêu, người Mán ở Thái Nguyên đ̣i tự trị có thể có bàn  tay Trung Cộng bởi v́ vùng Vân Nam, Thái Nguyên và bắc Miến Điện là  vùng có nhiều “đất hiếm” (rare earths). “Đất hiếm” là khoáng sản oxy  hóa, được khám phá từ thế kỷ thứ 18. Các chất này thật ra không hiếm  nhưng nằm rải rác không thành mỏ. Các chất này nhiều hơn vàng gấp 200  lần. Vào thập niên 1980, Hoa Kỳ xuất cảng “đất hiếm” đứng đầu thế giới  nay Trung Quốc qua mặt. 80% “đất hiếm” ở Bautou (Mông Cổ) nơi được xem  là thủ đô “đất hiếm.” Hiện nay Trung Cộng sản xuất 48% “đất hiếm,” Hoa  Kỳ 13%, phần c̣n lại là Úc, Gia Nă Đại và Nga. Hồi mùa thu năm 2010,  Trung Quốc cắt đứt cung cấp “đất hiếm” cho Nhật, chất cần cho máy điện  tính, điện thoại di động, vũ khí, hỏa tiễn, b́nh điện xe hơi v.v… đă gây  chấn động cho thế giới. Sau bauxite ở Tây Nguyên thất lợi cho Việt Nam  nay Trung Cộng đang nhắm vùng đất Thái Nguyên v́ mức cầu của “đất hiếm”  đang tăng so với mức cung. 
   
  Lỗi tại Henry Kissinger 
   
Trung Cộng càng ngày càng lộ vẻ bá quyền phần lớn là v́ lỗi từ chánh  sách của Henry Kissinger. Ông cố vấn của tổng thống Richard Nixon, người  chia giải Nobel Ḥa B́nh với ông Lê Đức Thọ qua Hiệp định Paris 1973,  viết cuốn “On China” nhân dịp kỷ niệm 40 năm chuyến đi bí mật đến Bắc  Kinh ngày 9 tháng 7 năm 1971. 
   
Cuốn sách không phải là hồi kư, viết lung tung, gồm 6 phần từ lịch sử  Trung Hoa đến những thay đổi của Trung Hoa, qua Mao Trạch Đông mở cửa ra  ngoài thế giới sau 1972 rồi đến thời Đặng Tiểu B́nh và cuối cùng là sự  hợp tác Mỹ - Hoa. Chánh sách của Nixon-Kissinger đă là hướng dẫn cơ bản  cho tám tổng thống Hoa Kỳ và bốn thế hệ lănh đạo Trung Cộng . Chánh sách  ấy được tiếp tục sau khi Xô Viết sụp đổ và vẫn tiếp tục sau cuộc thảm  sát ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Cuốn sách viết ra như để biện  hộ cho sự thất bại của ông qua Hiệp định Paris bán Việt Nam Cộng Ḥa cho  Cộng Sản. 
   
Cuốn sách cho độc giả thấy những nhận định sai lầm của ông về các nhà  lănh đạo Bắc Kinh từ “cái thưở ban đầu lưu luyến ấy.” Nhờ Kissinger,  Trung Cộng sáng trên bàn cờ thế giới sau khi Xô Viết sụp đổ và cũng v́  chánh sách ấy Hoa Kỳ đang phải t́m cách đối phó với “bá quyền” Trung  Quốc. 
   
Kissinger xem thế giới là một bàn cờ trong đó cách đánh cờ của Tây  Phương và Trung Hoa khác nhau. Người Tây Phương chơi cờ chess, bàn cờ  đ̣i hỏi chiến thắng hoàn toàn, đạt mục tiêu với những trận đánh quyết  liệt c̣n người Hoa chơi cờ tướng, cờ nhằm mục đích “chiếu bí”. Cờ tướng  phản ánh qua binh thư Tôn Tử “biết người biết ta trăm trận trăm thắng”  và “bất chiến tự nhiên thành.” Từ quan niệm cuộc chơi cờ này mà  Kissinger quan niệm rằng “người Mỹ cảm thấy phải phát triển giá trị Mỹ  Quốc đến các phần đất của thế giới” c̣n “người Hoa không xâm lăng bành  trướng, họ chỉ muốn phát huy văn hóa!” 
   
Tháng 8 năm 1969, Xô Viết sửa soạn “tiên hạ thủ” Trung Cộng bằng cuộc  tấn công bằng bom nguyên tử, tổng thống Richard Nixon quyết định phải  bảo vệ Trung Cộng v́ quyền lợi Hoa Kỳ lập trục chống lại Xô Viết. 
   
Với định kiến như vậy, Kissinger đă có cảm t́nh với tất cả các nhà lănh  đạo Trung Cộng từ Mao Trạch Đông qua Chu Ân Lai, Hoa Quốc Phong đến Đặng  Tiểu B́nh và Giang Trạch Dân. Với Mao Trạch Đông, Kissinger xem kẻ sát  nhân 20 triệu người Hoa (các sách mới cho con số gấp đôi 40 triệu) là  “triết gia vĩ đại” chỉ muốn thay đổi Trung Hoa làm lịch sử nhanh hơn c̣n  Chu Ân Lai là người thông minh, chánh trị gia xuất chúng, nhà ngoại  giao đại tài, nhà hành chánh và là người thương thuyết giỏi biết lợi  dụng những biến chuyển lịch sử. Kissinger đă nh́n thấy “Mao và Chu ngạc  nhiên thành thật khi được đón tiếp Nixon, mở cửa ra ngoài thế giới”  trong khi các nhà b́nh luận hiểu rơ Mao và Chu đều biết các ông ấy đóng  kịch. 
   
Chính sự cảm t́nh của ông về họ Mao và Chu mà ông đă có sẵn thành kiến  với đồng minh Việt Nam Cộng Ḥa. Những người đă đối đầu với ông từ tổng  thống Nguyễn Văn Thiệu đến ông Hoàng Đức Nhă, cựu đại sứ Bùi Diễm, ông  Nguyễn Xuân Phong đều đă thấy cái thái độ thiếu thiện cảm, thái độ ấy  bắt đầu ngay sau khi gặp Mao và Chu. Cuốn sách ít đề cập đến chiến tranh  Việt Nam, Kissinger đă làm người đọc thất vọng khi mô tả cuộc gặp gỡ  giữa Nixon và Mao. Ông đă có cảm tưởng: khi Mỹ bắt đầu đóng quân ở Việt  Nam, Bắc Kinh đă nh́n qua cặp mắt đánh “cờ tướng,” các căn cứ quân sự  được thiết lập để bao vây Trung Hoa từ Đại Hàn đến vịnh Đài Loan nay đến  Đông Dương. Hà Nội thuộc binh thư Tôn Tử ứng dụng nguyên tắc vào chiến  tranh chống Pháp, chống Mỹ. 
   
Trước khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, trước hết là người Pháp muốn  dành lại thuộc địa Việt Nam, sau đó đối với Hoa Kỳ, Bắc Kinh và Hà Nội  từ 1963 đến 1975 nhận ra thử thách sắp tới, giữa chính họ, sẽ quyết định  dành ảnh hưởng ở Đông Dương và Đông Nam Á.” Trong 40 năm, Kissinger đến  thăm Trung Cộng hơn 50 lần, đọc diễn văn cổ vơ cho quan hệ kinh tế Mỹ  Hoa, lănh nhiều tiền nên lúc nào cũng vui vẻ với Trung Cộng. Ông cho  rằng Nga nguy hiểm hơn Trung Cộng v́ Nga gây hấn, bành trướng. Kissinger  có nhắc đến Trung Cộng đă gởi 100.000 quân qua Việt Nam trong thời kỳ  chiến tranh trong khi đó qua các sách và hồ sơ của chính Trung Cộng, họ  đă gởi đến 500.000 quân qua Việt Nam cũng như đă gởi quân qua Bắc Hàn,  Miến Điện, Kampuchia và tạo phong trào kháng chiến du kích kiểu Mao hơn  12 quốc gia kể cả Phi Châu và Nam Mỹ. 
   
Sau khi Mao chết năm 1976 đến Đặng Tiểu B́nh và Giang Trạch Dân, ông  Kissinger khen các ông này “có cái nh́n xa, cẩn trọng và chỉ làm vài lỗi  nhỏ!” Năm 1979, Đặng Tiểu B́nh viếng thăm Hoa Kỳ. Kissinger có ấn tượng  tốt ngay, ngưỡng mộ họ Đặng, xem ông này như là các nhà chiến lược  trong lịch sử Trung Hoa xưa. Trong khi đó họ Đặng vừa lấy ḷng Hoa Thịnh  Đốn vừa dạy cho Việt Nam một bài học bằng cách đánh qua biên giới và  cùng năm đàn áp các nhà yêu nước đối kháng “bức tường dân chủ ” . 
   
Trong trận chiến với Việt Nam năm 1979, Trung Cộng đă bị thiệt hại nặng,  thế giới xem Trung Cộng là kẻ bại trận trong khi đó Kissinger lại xem  cuộc xâm lăng Việt Nam năm 1979 là “Chiến lược tốt của Trung Cộng để cho  thấy Xô Viết chỉ ủng hộ nhà cầm quyền Hà Nội giới hạn về mặt quân sự.”  Tờ New York Times tám năm trước cho thấy chiến binh Trung Cộng cay đắng  về chiến tranh với Việt Nam năm 1979, họ nghĩ Đặng Tiểu B́nh đă gây  chiến với Việt Nam để chứng tỏ là Trung Cộng cần phải tân trang vũ khí  để đương đầu với những cuộc chiến tranh có thể xảy ra với Hoa Kỳ và Nga. 
   
Trong 10 năm từ 1979 đến 1989, Đặng Tiểu B́nh giữ quyền hành tuyệt đối ở  Trung Cộng đưa đến thảm sát ở quảng trường Thiên An Môn ngày 4 tháng 6  năm 1989. Đảng Cộng sản Trung Quốc đàn áp đối lập và phản kháng. Ông  Kissinger đă viết như binh vực cho nhà cầm quyền Trung Cộng “biểu t́nh  chiếm quảng trường chánh ở thủ đô ngay cả khi biểu t́nh ḥa b́nh bất bạo  động th́ nó cũng là một chiến thuật chứng tỏ là nhà cầm quyền bất lực…”  và ông viết là “sự đàn áp mạnh đă được chiếu trên các đài truyền h́nh”  trong khi đó trên thực tế chính quyền Cộng sản Trung Quốc đă tắt các đài  truyền h́nh, thảm sát xảy ra trong bóng tối, không ai biết bao nhiêu  người bị giết bao nhiêu người bị tù và số phận của các sinh viên ra sao. 
   
Năm nay 4/6/2011, chính quyền Cộng sản đă bắt đối lập như Bảo Tống (bí  thư của thủ tướng Triệu Tử Dương) cùng hàng ngàn đối lập trước ngày 4/6  và chánh quyền không hề công nhận có cuộc thảm sát Thiên An Môn. 
   
Ngày 21/6/1989, tổng thống George H Bush (bố) gởi thơ cho Đặng Tiểu B́nh  lời lẽ nhă nhặn, nhắc đến các biện pháp phong toả kinh tế có thể có  nhưng vẫn xem họ Đặng là bạn. Ngày 1/7/1989, ông cố vấn an ninh Brent  Scowcroft và Lawrence Eagleburger (vừa mới mất) phụ tá bộ trưởng ngoại  giao qua Trung Quốc bằng phi cơ quân sự gặp Đặng Tiểu B́nh và thủ tướng  Lư Bằng để đối thoại. Tháng 11/1989 ông Kissinger đến Bắc Kinh hoàn toàn  không tiếp xúc với giới đối lập như giáo sư Fang Lizhi phó chủ tịch  Viện Khoa học Kỹ thuật Bắc Kinh. Ông để Hoa Kỳ áp dụng chánh sách của họ  Đặng “không tiền chuộc, không thả” gởi ông Fang qua Anh rồi từ đó qua  Mỹ. 
   
Từ Giang Trạch Dân cho đến Hồ Cẩm Đào, ông Kissinger không nhận thấy  được chánh sách của Trung Cộng gần giống như chánh sách Bismack của Đức  thời thế chiến thứ nhất. Năm 2008 trong buổi họp thảo cùng với Zbigniew  Brzezinski và Brent Scowcroft ông tiếp tục chủ trương “mậu dịch và đầu  tư” để Trung Cộng tránh đường “chủ nghĩa quốc gia” như Đức Quốc Xă nhưng  kết quả của sự xây dựng kinh tế thiếu dân chủ của Trung Cộng đă dẫn đến  sự phát triển chủ nghĩa quốc gia hiện nay của bá quyền Trung Quốc. 
   
Ông Henry Kissinger đă chọn chánh sách ngoại giao Anh trước thế chiến  thứ nhất khi hai đối thủ Mỹ Hoa đối đầu ở Thái B́nh Dương và chỉ có một  địch thủ sẽ thắng. Chánh sách ấy được gọi là “quân b́nh quyền lực” dựa  trên “tường tŕnh Crowe,” ông Eye Crowe là nhân viên ngoại giao Anh viết  23 trang tường tŕnh lên ngoại trưởng Earl Grey năm 1907. Bản tường  tŕnh kết luận, Đức có thể chọn lựa bằng cách bành trướng quân sự hay  văn hóa và áp lực lên Anh. Nước Anh sẽ thấy Đức t́m mọi cách làm suy yếu  kẻ thù để phá vỡ đế quốc Anh v́ vậy Anh phải cộng tác với Đức về mọi  mặt. 
   
Từ 2008, Kissinger đă chọn giải pháp này, ông đă không biết bản phê b́nh  của Thomas Henry Sanderson gởi đến ngoại trưởng Grey chỉ trích Crowe  “Đức khó thương thuyết, nhạy cảm, khó chơi, không dễ cộng tác,” hoặc là  phải ngăn chặn Đức hoặc là Anh sẽ mất vai tṛ lănh đạo. Trung Cộng đang  đóng vai tṛ Đức thời thế chiến thứ nhất. Giống như truyện “the Riddle  of the sands,” bảy năm rưỡi sau bản tường tŕnh Crowe thế chiến thứ nhất  bùng nổ. 
   
Sử gia John Lukacs người Hung Gia Lợi năm 1968 đă viết về quốc gia của  ông: “mỗi quốc gia có một cá tính”, tôi nhận ra ngay cá tính của nước  Việt người Việt là tinh thần chống ngoại xâm với bốn câu thơ của Lư  Thường Kiệt thuộc ḷng từ nhỏ: 
   
“Nam quốc sơn hà nam đế cư 
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư 
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm 
Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư” 
   
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, chúng bay sẽ bị đánh tan tành. Sông núi  nước Nam, huống ǵ c̣n luật biển năm 1982. Đă có hàng triệu người Việt  trong nước lên tiếng, Việt Nam không thiếu anh hùng! 
   
 Việt Nguyên 
  DĐTK 
 
		 
		
	
		
		
		
		
		
	 |