Chân Thành
Có một câu nói rất hay mà tôi rất tâm đắc:
“Tôi chỉ sợ những người sống tốt với mình thôi, vì mình không biết phải trả cái tình nghĩa cho người ta thế nào cho phải. Còn với những người tệ với mình thì dễ mà, họ như thế nào thì cũng không có gì đáng để mình bận tâm!”
1. Không thích ai, đừng quan tâm đến họ.
2. Ghét ai, tránh xa ra.
3. Không cùng quan điểm, không tranh cãi, tôn trọng ý kiến đối phương, đỡ tốn thời gian.
4. Gặp loại thảo mai nịnh bợ, kệ. Cứ để người ta diễn tuồng, ưu điểm duy nhất của họ mà
5. Gặp loại đâm chọt sau lưng, nhếch mép một cái. Vị trí kẻ đó mãi đi sau mình mà thôi
6. Gặp loại thích ăn sẵn, tối ngày chỉ nhờ vả người khác. Từ chối dứt khoát, không cả nể
7. Ai tốt với mình, mình tốt lại
8. Ai chân thành với mình, mình chân thành lại
9. Ai thương mình thì mình thương
10. Không phụ lòng người tin tưởng mình
11. Không bỏ rơi người đã giúp đỡ mình khi gặp hoạn nạn
12. Đi khắp muôn nơi không quên chốn về là gia đình
13. Trân trọng những gì mình có, yêu thương bản thân thật nhiều
14. Luôn giữ cho mình nụ cười rạng rỡ trên môi, tâm thái an bình.
Hãy nhớ “Vạn người quen có mấy người là bạn? Trăm loại bạn có mấy người là thân? Chục người thân có mấy người là tốt? Vài người tốt liệu có được bền lâu? Một người là đủ nếu có chữ “Chân Thành”.
The Following 2 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
Tên tôi là Nguyễn thị Di Tản. Cái họ Nguyễn của tôi đã chứng tỏ tôi là người Việt Nam chính hiệu con nai vàng. Song có điều tôi là đứa bé Việt Nam chào đời ở một miền đất lạ xa – đảo Guam – một nơi chốn thật lạ lẫm với quê hương tôi. Theo lời mẹ tôi kể tôi chào đời vào những tháng ngày buồn thảm nhất của miền Nam Việt Nam. Tôi đã nằm trong bụng mẹ, theo mẹ trên con đường di tản của dân tộc tôi.
Tôi đã là một chứng nhân của lịch sử. Tiếng khóc chào đời của tôi ở một quần đảo nơi quê người đã giúp mẹ tôi nhiều can đảm vượt qua những thử thách, gian truân của cuộc đời. Tôi đã là Nguyễn Thị Di Tản từ ngày ấy. Thế mà đã hơn một phần tư thế kỷ kể từ 30 tháng 4 năm ấy. Thế mà đã 35 năm qua…
Đã 35 năm qua. Tôi đã lớn. Đã trưởng thành nơi miền đất tạm dung của một tỉnh lỵ miền Tây Canada. Thành phố Winnipeg buồn hắt hiu như tâm sự “Người di tản buồn” của mẹ. Mẹ rất yêu bản nhạc “Người di tản buồn” của Nam Lộc. Ngày còn bé, bằng bài hát ấy mẹ đã ru tôi ngủ. Riết rồi tôi quen với từng lời ca tiếng nhạc. Mẹ bảo đêm nào không nghe bài hát ấy tôi không ngủ. Đến lúc tôi bập bẹ biết nói mẹ dạy tôi hát. Tôi vừa quấn quít bên mẹ vừa đỏ đẻ hát:
Chiều nay có một người đôi mắt buồn
Nhìn xa xăm về quê hương rất xa
Chợt nghe tên Việt Nam ôi thiết tha
Và rưng rưng lệ vương mắt nhạt nhòa
Bạn ơi đó là người di tản buồn
Ngày ra đi lặng câm trong đớn đau.
Rồi đêm đêm hằn lên đôi mắt sâu
Thời gian đâu còn những phút nhiệm mầu
Cho tôi xin lại một ngày, ở nơi nơi thành phố cũ
Cho tôi xin lại một đời, một đời sống với quê hương
Cho tôi đi lại đoạn đường, hàng cây vươn dài bóng mát
Cho tôi yêu lại từ đầu, bên người yêu dấu ngày xưa
Chiều nay có một người di tản buồn
Nhìn quê hương còn ai, hay mất ai?
Còn bao nhiêu thằng xông pha chiến khu?
Và bao nhiêu nằm trong những lao tù?
Ở đây có những chiều mưa rất nhiều!
Nhiều hơn khi hành quân trong tháng mưa
Buồn hơn khi rừng khuya vang tiếng bom
Ngày vui ơi giờ đâu nước không còn
Cho tôi xin lại một lần, ở nơi tôi dừng quân cũ
Cho tôi xin lại bìa rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
Cho tôi xin một lời chào, chào bao nhiêungười đã khuất
Cho tôi xin một mộ phần, bên ngàn chiến hữu của tôi!
Tôi hát như sáo. Mẹ hát sao tôi hát theo vậy. Mẹ bằng lòng lắm. Dần dà tôi có thể hát được cả bài. Bạn bè của mẹ đến nhà chơi mẹ, đem con sáo của mẹ ra khoe. Mẹ bắt tôi hát. Mỗi lần hát xong các bác các cô, bạn của mẹ ai cũng đều rươm rướm nước mắt. Có lần tôi thỏ thẻ hỏi mẹ “Sao con hát hay mà mẹ với các bác lại khóc”.
Mẹ ôm tôi vào lòng và nói “Bao giờ con lớn con sẽ hiểu tại sao”. Cái trí óc non nớt ngày ấy của tôi mơ hồ cảm nhận có một điều gì khác thường ở mẹ, một cái gì mất mát lớn lao trong đời mẹ. Những lúc rảnh rỗi, sau giờ cơm chiều mẹ dạy tôi nói, tôi đọc:
– Con là người gì? – Dạ thưa con là người Việt nam
– Con tên gì?
– Con tên là Di Tản
– Con có yêu nước Việt Nam không?
– Con yêu Việt Nam lắm!
Tôi đã thuộc nằm lòng những câu mẹ dạy. Tôi đã quen thuộc với cái tên Di Tản. Tôi thấy tên tôi nó ngồ ngộ, dễ thương làm sao. Đến lúc tôi lên năm, mẹ dắt tôi đến một ngôi trường tiểu học ở gần nhà để ghi tên đi học. Từ ngày còn bé tôi chỉ loanh quanh ở cái apartment mẹ ở mà thôi. Chung cư nầy đa số là người Việt nam. Lần đầu tiên đến trường, một khung cảnh mới, người mới. Các học sinh cùng lớp với tôi hoàn toàn là những khuôn mặt lạ xa.
Cô giáo cũng thế. Không giống mẹ. Không giống các bác, các cô đến chơi nhà mẹ. Lúc mẹ chào cô giáo ra về. Tôi ở lại trường với tâm trạng thật lạc lõng, bơ vơ. Tôi muốn khóc. Tôi muốn theo mẹ ra về làm sao. Tôi ngồi cô đơn một góc lớp. Cô giáo rất trẻ, đến bên tôi nhỏ nhẹ hỏi
– “What is your name?”.
Tôi cúi mặt, bặm môi chừng như rướm máu, lí nhí đáp bằng cái giọng Việt Nam đặc sệt “Dạ .. Di Tản”. Cô giáo chừng như không hiểu, cô xem lại quyển sổ và hỏi lại tôi “your name is Đaithen”. Tôi lắc đầu và lập lại “Di Tản”. Cả lớp rộ lên cười. Tôi bật khóc. Tôi khóc ngon lành như bị ai ức hiếp.
Sau buổi học, mẹ đến đón tôi về. Trên suốt quãng đường từ trường về nhà Tôi lặng thinh, không nói một điều gì cả với mẹ. Mẹ âu yếm hỏi tôi “Con đi học có vui không”. Chừng như tôi chỉ chờ mẹ hỏi, Tôi òa lên khóc và bảo:
– Sao mẹ không đặt cho con một cái tên nào dễ kêu như Helen, như Cindy hay Linda như tụi nó mà mẹ đặt tên con là Di Tản. Cô giáo đọc không được tên con, mấy đứa cùng lớp tụi nó chọc ghẹo con.
Mẹ tôi dịu dàng, từ tốn bảo:
– Con có biết cả nước Canada nầy có biết bao nhiêu là Helen, là Cindy không con. Còn tên Di Tản chỉ có mỗi một mình con. Con không thấy con đặc biệt sao con. Con phải hãnh diện vì cái tên rất là Việt Nam của con mới phải.
– Tại cô giáo không biết cách phát âm của ngươì Việt Nam mình đó thôi. Con phải đọc lại cho cô biết rồi từ từ cô sẽ đọc đúng.
Giọng mẹ thiết tha hơn, chùng xuống, sũng đầy nước mắt.
– Mẹ đã mất tất cả rồi con ơi. Mẹ chỉ còn cái tên Việtnam mẹ gửi cho con. Con có biết như thế không?
Đầu óc của một đứa bé lên năm làm sao tôi hiểu đuợc hết những gì mẹ nói, song tôi biết mẹ buồn lắm. Có một cái gì làm cho mẹ khổ tâm lắm. Tôi cảm thấy ân hận. Tôi ôm mẹ, hôn me, và bảo:
– Con xin lỗi mẹ. Con làm mẹ buồn lắm phải không mẹ.
Tôi thấy mắt mẹ long lanh ngấn lệ.
– Không phải đâu con, con của mẹ ngoan lắm.
Đó là câu chuyện ngày lên năm của tôi. Mãi cho đến những năm sau nầy tên tôi vẫn là một đề tài cho lũ bạn chọc ghẹo. Cái chọc ghẹo cho vui chứ không có một ác ý nào cả. Lúc tôi vào Highschool tôi đã lớn lắm rồi. Tôi đã hiểu những u uất của đời me. Tôi thương mẹ hơn bao giờ hết.
Thấm thoát mà tôi đã là cô gái 18. Soi gương tôi cũng biết mình đẹp lắm. Mẹ không cho tôi cắt tóc ngắn. Cả trường con gái mái tóc dài chấm lưng với khuôn mặt Á Đông của tôi vẫn là một đề tài nổi bật nhất.
Lại thêm cái tên Di Tản nữa. Lúc nầy tôi không còn buồn mỗi lần bị giáo sư đọc trật tên. Bạn bè tôi, những đứa quen nhau từ lớp mẫu giáo đến giờ được tôi huấn luyện cách phát âm nên đọc tên tôi đúng lắm. Tụi nó bỏ dấu còn lơ lớ nhưng tạm được. Nhưng mỗi lần bắt đầu một niên học mới, tên tôi lại là một tràng cười cho lũ bạn cùng lớp mỗi khi các giáo sư mới gọi tên tôi. Giáo sư nào cũng thế. Ngập ngừng một hồi lâu rồi mới đọc.
Tôi cũng không nín cười được cái giọng như ngọng nghịu của một giáo sư người Canada đọc một cái tên lạ quơ lạ huắc chưa bao giờ thấy và gặp trong lịch sử dân tộc. Trên tay cầm bài Test của tôi, ngập ngừng rồi vị thầy gọi “Đai then”. Cả lớp ồ lên một loạt “Oh, my god”. Vị giáo sư lúng túng, đảo mắt nhìn quanh lớp. Cả lớp nhao nhao lên như bầy ong vỡ tổ. Chừng như tụi nó thích những dịp như thế để câu giờ, “nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học trò” mà. Con Linhda ngồi cạnh, hích nhẹ cùi chỏ vào tôi và khẽ bảo:
– Ditan, ổng đọc sai tên mầy rồi kìa, mầy sửa cho ổng đi.
Tôi đỏ mặt. Tôi chưa kịp nói gì cả thì tụi con trai ngồi sau lưng tôi ào ào lên như chợ nhóm “Ditản, Ditản not Đai then”. Vị giáo sư lúc đó mới vỡ lẽ ra, mới biết là mình phát âm sai, ông gục gặt đầu nói lời xin lỗi và lập lại “Ditản Ditản”.
Lúc nầy tôi không còn nhút nhát như ngày xưa nữa. Bạn bè tôi Tây Tàu, Canadian nữa đều “cứu bồ” tôi mỗi lần có tình trạng như trên vừa xảy ra. Dần dà mọi người gọi tên tôi rất ư là dễ thương. Đến bây giờ nhớ lại những lời mẹ nói với tôi ngày nào, tôi hãnh diện vô cùng về cái tên mẹ đã cho tôi. Tôi thương mẹ vô cùng.
Cái đất nước Việt Nam khổ đau muôn chiều đã gắn liền với mẹ tôi như hình với bóng trong cuộc đời lưu lạc xứ người hơn một phần tư thế kỷ. Một điều mà tôi có thể khẳng định rằng “dù hoàn cảnh có thể tách rời mẹ ra khỏi quê hương, nhưng không có một hoàn cảnh nào tách rời quê hương ra khỏi tâm hồn mẹ được”.
Mẹ sống như chờ đợi, như mong mỏi một điều gì sẽ đến. Có lần tôi bắt gặp mẹ ngồi một mình trong đêm, tay mân mê, vuốt ve bức ảnh bán thân của bố tôi. Mẹ vẫn nuôi hy vọng Bố còn sống và sẽ có lần gia đình tôi laị đoàn tụ như xưa. Nhưng định mệnh đã an bài. Sau khi nhờ một người bạn làm ở Usaid đưa mẹ con tôi di tản. Bố hứa Bố sẽ gặp lại mẹ sau.
Trong lúc dầu sôi lửa bỏng Bố bảo sao, mẹ nghe vậy. Một mình mẹ bụng mang dạ chửa mẹ đã lên phi cơ, theo đoàn người di tản và mong có ngày gặp lại Bố.
Nhưng niềm hy vọng đó đã vơi dần theo năm tháng cho đến một ngày mẹ được tin Bố đã nằm xuống nơi trại cải tạo.
Mẹ như điên loạn.
Rồi mẹ tỉnh lại.
Mẹ biếng cười, biếng nói.
Cuộc sống của Mẹ đã thầm lặng bây giờ càng thầm lặng hơn xưa.
Ngoài giờ ở sở. Về nhà cơm nước xong, trò chuyện với tôi đôi lát rồi Mẹ vào phòng. Cái khoảng đời quá khứ ngày xưa. Những kỷ niệm ngọc ngà ngày nào của Bố và Mẹ như chút dấu yêu còn sót lại. Thời gian không làm nhạt nhòa mà ở Mẹ không một hình ảnh nào mà Mẹ không nhớ. Mỗi lần nhắc tới Bố, Mẹ như trẻ lại. Mắt Mẹ long lanh ngời sáng. Mẹ kể cho tôi nghe chuyện tình của cô sinh viên Văn khoa với chàng thủy thủ Hải Quân.
Tôi thuộc nhiều bài hát Việt Nam lắm nên tôi ghẹo Mẹ “Mẹ và Bố giống em hậu phương còn anh nơi tiền tuyến quá”. Ngoài tình mẹ con ra, tôi như một người bạn nhỏ để Mẹ tâm sự, để Mẹ trang trải nỗi niềm nào là “con biết không Bố hào hoa và đẹp trai lắm… v.v… và v.v…
Tôi nịnh Mẹ:
– Bố không đẹp trai làm sao cua được Mẹ.
Mẹ cười thật dễ thương.
Một điều mà tôi biết chắc chắn rằng không ai có thể thay thế hình bóng Bố tôi trong tim Mẹ.
Tôi không ích kỷ. Song điều đó làm tôi yên tâm hơn. Tôi muốn cùng Mẹ nâng niu, giữ gìn những kỷ niệm dấu yêu, ngọc ngà của Mẹ và Bố cho đến suốt cuộc đời.
Hôm nay nhân ngày giỗ lần thứ 35 của Bố. Con muốn thưa với Bố một điều. Con cám ơn Bố Mẹ đã tạo cho con nên hình, nên vóc. Dù chưa một lần gặp mặt Bố. Dù bây giờ Bố đã nằm xuống. Bố đã đi thật xa, không có lần trở lại với Mẹ, với con. Song với con Bố vẫn là một hiện hữu bên con từng giờ, từng phút.
Con nghĩ Bố đã che chở Mẹ con con hơn một phần tư thế kỷ nay. Xin Bố hãy giữ gìn, che chở Mẹ, con trong suốt quãng đời còn lại. Con mong làm sao ngày nào đất nước thật sự thanh bình Mẹ sẽ đưa con trở về thăm lại quê hương. Con sông xưa sẽ trở về bờ bến cũ. Ngày ấy ở một phía trời nào đó của quê hương con thấy bố mỉm cười và Bố nói với con… Bố sung sướng lắm, con biết không? Con yêu dấu!
HOÀNG THỊ TỐ LAN
The Following 2 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
Mặc cho mẹ quỳ lạy, van xin bố ở lại với mẹ con tôi. Bố cầm tay mẹ giật mạnh, mẹ ngã ngửa ra đằng sau. Bố quay lại liếc nhìn tôi một cái rồi xách vali đi một mạch ra ngõ...!
Cuối cùng mọi cố gắng của hai mẹ con đều vô vọng, bố vẫn quyết định đi theo người đàn bà mà bố đã qua lại mấy tháng qua...!
Mấy tháng sau mẹ nhận được giấy gọi của tòa án đến giải quyết việc ly hôn do bố gửi đơn. Trời mùa đông lạnh giá, trước hôm mẹ và bố ra tòa mẹ cả đêm không ngủ. Dù đã biết trước sẽ không níu giữ được bố vậy mà mẹ vẫn khóc rất nhiều. Nằm bên cạnh giả vờ nhắm mắt nghe tiếng nấc nghẹn ngào của mẹ lòng tôi đau như thắt. Lúc đó tôi rất muốn vùng dậy tìm đến người đàn ông mà tôi gọi bằng bố để níu kéo về với mẹ nhưng tôi lại không thể làm vậy vì mẹ. Mẹ đã dặn bố đã không còn yêu mẹ thì có sống với mẹ bố mẹ cũng sẽ không hạnh phúc, mẹ đã dặn dù bố có như thế nào thì cũng là người sinh ra con... Đèo tôi đến tòa án trên con đường đá gập ghềnh, ngược gió trong cái rét đầu đông. Mẹ gật đầu khi tòa hỏi mẹ lần cuối có đồng ý để bố mẹ ly hôn, mẹ không cần khoản trợ cấp nào của bố dành cho tôi, không nhận một tài sản chung nào của bố mẹ mà mấy năm qua mẹ vun đắp. Bước ra khỏi cánh cửa kia bố và mẹ sẽ là hai người xa lạ không còn ràng buộc nhau. Nhớ lại lúc bước qua tôi trong tòa án. Tôi đã nắm lấy tay bố kéo lại, bố quay lại nhìn tôi một lúc, rút tay ra và đi thẳng theo hướng người đàn bà đang chờ bên ngoài...
Mẹ về xin một mảnh đất nhỏ của ông bà ngoại dựng tạm mái nhà tranh để ở.... Tôi dần lớn lên cần bao khoản chi phí cho học hành. Một mình mẹ làm công nhân lương không đủ cho tôi ăn học. Mẹ xin làm thêm buổi tối việc quét dọn đường phố. Hàng ngày sáng dậy sớm lo cho tôi ăn, chở tôi đi học rồi đến công ty đi làm. Tối về mẹ lo cơm nước dặn dò tôi ở nhà cẩn thận rồi lại vội vàng trên chiếc xe đạp cũ kỹ đi đến để kịp giao ca công việc lao công. Nhìn người mẹ càng ngày càng héo hắt lòng tôi như ngàn vạn lưỡi dao đâm. Tôi xin mẹ cho đi phụ mẹ vào cuối tuần được nghỉ học, ban đầu mẹ không đồng ý nhưng tôi cứ nì nèo nên mẹ đồng ý cho tôi đẩy xe phụ mẹ vào thứ 7 hàng tuần.
Đẩy xe rác đi đằng sau mẹ tôi mới ngộ ra nhiều điều đằng sau công việc của mẹ mà tôi chưa biết...
Mọi người đi đường có vẻ khinh thường những người quét rác như mẹ. Khi đang lúi húi mấy anh thanh niên rú còi trêu mẹ làm mẹ giật thót mình, có khi chỗ mẹ vừa dọn xong mấy người ngồi trong nhà quăng vù bịch rác ra. Nhiều lúc những người trên xe ô tô cầm những túi bẩn ném vào người mẹ... Mẹ vẫn bỏ qua tất cả để cố gắng kiếm tiền vì tôi...!
Chiếc xe dần nặng bánh như chính gánh nặng cuộc đời mẹ con tôi đang chầm chầm trôi qua mỗi ngày. Cứ cuối tuần tôi lại được nhìn hình bóng mẹ trong đêm với tiếng chổi nghe nặng nề trên đường phố. Ánh đèn điện hắt xuống khiến mẹ càng hiện rõ trong đêm. Cái rét mùa đông hay cái nắng nóng mùa hè cũng không làm mẹ nản chí. Cuộc sống hai mẹ con đỡ cơ cực hơn, nhưng bù lại mẹ nhìn gầy gò, xanh xao hơn trước.
Đợt này được nghỉ hè nên ngày nào tôi cũng được đẩy xe cùng mẹ. Đi qua công viên chợt thấy mẹ đứng khựng lại nhìn gì đó từ phía bên kia đường. Chạy lại gần mẹ tôi thấy bố cùng người đàn bà ấy đang cầm tay cho bé trai tập đi. Nhìn thấy nước mắt mẹ rơi còn sống mũi tôi cay cay. Không hiểu tại sao lúc đó tôi đã chạy sang bên đường, đứng trước mặt bố. Hai bố con tôi nhìn nhau như người xa lạ. Cúi xuống nhìn bé trai đang cầm tay bố lôi đi. Nhìn nó rồi nhìn tôi như hai người ở hai thế giới khác nhau. Nó được ăn mặc đẹp còn tôi đang khoác trên mình bộ quần áo lao động cũ kỹ, bẩn thỉu. Tôi chợt nhận ra vì sao bố bỏ mẹ con tôi đi theo người phụ nữ đó. Không nói câu nào tôi lùi dần, lùi dần và chạy sang nơi mẹ đang đợi. Mẹ ôm lấy tôi vuốt mái tóc dài rối bù của tôi trong bóng tối. Mẹ tiếp tục quét còn tôi quay lại đẩy chiếc xe đi. Tôi không biết bên kia đường bố có nhìn thấy mẹ con tôi không nhưng tôi nhận ta tiếng chổi của mẹ nghe không còn nhanh nhẹn như ban đầu mà nằng nặng. Nhận ra nỗi đau mà mẹ đang kìm nén để ngăn không cho dòng nước mắt chảy ra.
Hôm sau bố tìm đến mẹ con tôi...
Bố đưa cho mẹ một chiếc phong bì không biết đựng bao nhiêu tiền trong đó nhưng tôi nghe bố nói với mẹ "cầm lấy mà lo cho con bé, đừng đi làm việc quét dọn nữa người khác nhìn thấy sẽ không hay...". Mẹ nói lại: "Làm sao mà không hay, công việc đó có gì bất chính à. Hay anh xấu hổ khi biết mẹ con tôi làm nghề này...!"
Bố hung dữ ném phong bì xuống bàn định đi. Tôi chạy lại cầm chiếc phong bì chạy theo bố "ông cầm lấy đi, mấy năm qua không có ông mẹ con tôi vẫn sống tốt. Nếu ông cảm thấy xấu hổ vì có đứa con quét rác như tôi thì không cần nhận tôi là con. Từ bây giờ tôi cũng không nhận ông là bố là được rồi đúng không?". Bố tát tôi một cái rất mạnh cùng câu nói "con mất nết". Mẹ chạy ra ôm tôi vào lòng và đuổi bố về. Tay tôi vẫn nắm chặt chiếc phong bì tiền của bố, nước mắt tôi chảy dài và lòng tôi tan nát...!
Dần dần cuộc sống của hai mẹ con ổn định hơn. Từ ngày đó mẹ không còn nhắc về bố trước mặt tôi. Tôi chỉ biết cố gắng học thật giỏi để làm mẹ vui, cũng từ ngày có cái tát đó bố không còn quay lại tìm mẹ con tôi. Mười năm sau tôi đậu đại học. Mẹ vẫn cùng chiếc chổi tre mỗi đêm cho tôi ăn học. Chọn một trường trong tỉnh để được gần mẹ. Mỗi lần ai hỏi tôi về mẹ tôi rất tự hào trả lời mẹ làm công nhân và lao công quét rác. Trên các con đường hình bóng mẹ con tôi vẫn in hằn trong đêm tối. Mẹ bây giờ không còn như trước. Khuôn mặt mẹ đã có nhiều nếp nhăn, làn da đen sạm, mái tóc đã điểm hoa râm. Nhưng với tôi mẹ vẫn là cả một tài sản quý báu mà tôi không thể đánh đổi lại bất kỳ tài sản quý giá nào.
Đã lâu vậy mà đôi khi thức giấc vẫn nghe tiếng nấc của mẹ trong đêm. Tôi đã rất hận bố vì đã phụ bạc lại tình yêu chung thủy mẹ dành cho bố. Hận bố chạy theo giàu sang mà bỏ rơi mẹ con tôi, hận bố vì trong suốt mười mấy năm qua bố không một lần đến thăm mẹ. Cuộc sống đã lâu tôi không còn quan niệm rằng mình có bố, tôi chỉ cần bàn tay mẹ nắm chặt tôi mỗi lúc ốm đau, mỗi kỳ thi khó khăn mà tôi gặp phải. Hôm nay tôi nhận học bổng toàn phần, mẹ mừng mà xin nghỉ hẳn một ngày dành cho tôi. Tôi chọn mua cho hai mẹ con bộ đồ thật đẹp, cầm tay mẹ đi qua những con đường dài mà công việc lao công của mẹ con tôi mỗi tối vẫn đi qua. Mẹ nắm chặt tay tôi như tôi vẫn còn non trẻ. Mẹ bảo mẹ hạnh phúc vì có tôi, mẹ tự hào về tôi, mẹ chỉ cần tôi bên cạnh là đủ. Ôm mẹ vào lòng tôi nhận ra thân hình của mẹ ngày càng nhỏ bé, da thịt mẹ đã vì tôi mà hao tổn quá nhiều. Đã nhiều lần tôi bảo mẹ nghỉ công việc lao công nhưng mẹ không đồng ý. Mẹ bảo cần tiền lo cho tương lai của tôi, rồi lúc tôi lấy chồng, lúc mẹ già nua không còn làm được gì nữa. Những lúc như vậy tôi chỉ biết ôm lấy mẹ mà khóc. Mẹ bảo bây giờ mẹ mà thiếu tiếng chổi tre mẹ sẽ rất buồn. Nó đã trở thành người bạn thân quen của mẹ...
Ngày tôi ra trường mẹ cầm bó hoa đến tận trường tặng tôi. Bạn bè ai cũng lại hỏi thăm mẹ, họ cảm phục mẹ cả đời con gái của mẹ đã hy sinh cho tôi. Đã có nhiều người đến với mẹ nhưng mẹ đều từ chối, mẹ bảo mẹ chỉ cần tôi là đủ. Xin vào một doanh nghiệp nước ngoài công việc cũng ổn định. Đã đến lúc mẹ cần nghỉ ngơi nhưng tính mẹ lo xa nên vẫn hàng đêm với chiếc chổi tre. Hôm đó là một ngày rét mướt mẹ bảo tôi ở nhà mẹ làm nốt hôm nay rồi nghỉ nên tôi không cần phụ mẹ. Tiếng điện thoại reo giọng một người đàn ông lạ nói mẹ bị tai nạn phải nhập viện. Không còn nghe thấy gì tôi lao như bay đến bệnh viện, trên người mẹ máu đỏ thấm ướt bộ quần áo lao công. Bác sĩ thấy tôi lắc đầu bảo tôi vào nói lời cuối với mẹ. Trời đất như sụp đổ. Tôi lao đến ôm mẹ mà khóc thảm thiết. Mẹ nặng nề lấy trong túi áo chùm chìa khóa tủ mẹ luôn mang bên mình. Giọng mẹ thì thào "Con hãy giữ lấy phòng thân, giao lại cái phong bì cho bố con và nói với ông ấy mẹ chưa bao giờ hận ông ấy cả...". Tiếng la của tôi dù có đến tận trời xanh thì mẹ vẫn rời xa tôi vĩnh viễn...!
Đã một tuần mẹ bỏ tôi ra đi. Căn nhà nhỏ bây giờ mình tôi lẻ loi với cuộc sống. Mở chiếc hộp gỗ của mẹ đựng trong chiếc va li bằng sắt đã cũ. Phong bì cách đây gần mười lăm năm bố đưa cho mẹ con tôi chưa có vết bóc cùng chiếc sổ tiết kiệm của mẹ để lại cho tôi. Ôm những thứ đó vào lòng tôi như người chết lặng giữa dòng đời. Thì ra mẹ không hề sử dụng số tiền bố đưa cho hai mẹ con tôi. Mẹ đã cố gắng dùng tiền bằng mồ hôi xương máu của mẹ để nuôi lớn tôi ăn học thành người. Nước mắt thay nhau rơi xuống, chạy đến trước bàn thờ mẹ, tôi quỵ xuống chỉ biết khóc mà gọi hai tiếng "mẹ ơi...". Đêm khuya tĩnh lặng chỉ mình tôi với bóng tối, đêm nào tôi cũng mơ thấy hình bóng mẹ về bên cạnh. Mơ thấy mẹ hát đưa đôi vào giấc ngủ...
Hôm đó tròn một trăm ngày cho mẹ. Bố tôi đến thắp hương. Cũng đã gần mười lăm năm tôi chưa gặp bố. Tôi thấy bố đứng nhìn ảnh thờ mẹ hồi lâu rồi quay sang tôi "Con định thế nào? Con định sống một mình như thế này sao?". Tôi chỉ im lặng nhìn bố như một kẻ thù, tôi hận bố đã đẩy mẹ con tôi đến tình cảnh ngày hôm nay. Tôi im lặng trước bố. Cả buổi chiều đó bố ở lại cùng tôi nhưng một lời tôi cũng không thể nói ra với bố. Lúc bố ra về tôi đã gọi lại "khoan đã mẹ nhờ tôi gửi lại cái này cho ông. Mười lăm năm qua mẹ chưa hề bóc nó. Lúc đó mẹ cầm vì chỉ sợ có lúc mẹ cần đến để lo cho tôi, nhưng rất may tôi vẫn khỏe mạnh đến bây giờ. Số tiền này xin gửi lại cho ông...". Lúc đó tôi thấy bàn tay run run từ bố đưa ra nhận phong bì từ tôi. Bố muốn nói gì đó nhưng không thể nói nên lời. Bố quay đi. "Mẹ còn dặn tôi nói lại với ông rằng mẹ chưa bao giờ hận ông. Mẹ thật ngốc ngếch. Mẹ không hận ông, mẹ rất yêu ông. Tôi vẫn thường nghe thấy tiếng mẹ khóc nghẹn trong đêm vì ông. Còn tôi, tôi hận ông đến tận xương tủy. Tôi không thể tha thứ cho ông. Nhưng dù sao cũng cảm ơn ông vì đã đẩy mẹ con tôi vào tình cảnh này. Đẩy tôi thành đứa con gái không cha, không mẹ. Cảm ơn ông đã cho mẹ con tôi nghị lực sống đến ngày hôm nay..." Chẳng hiểu sao lúc đó tôi hét lên với bố dù rất muốn được chạy lại ôm bố làm điểm tựa cho nỗi đau lớn tôi vừa trải qua. Bố không quay lại, bố cúi đầu im lặng và bước đi loạng choạng trong bóng chiều tà.
Hôm nay là sinh nhật tôi. Mọi năm mẹ đều nghỉ một ngày làm dành cho tôi nhân ngày sinh nhật. Dù không có quà nhưng những bữa ăn ngon trong ngày tôi sinh ra làm tôi ấm áp. Một mình lang thang dọc con đường tôi nghe thấy tiếng chổi đêm của cô lao công đang dọn dẹp đường phố trước mặt. Hình ảnh mẹ cùng tiếng chổi tre vang vọng trong đêm hiện về trong tôi, nước mắt không thể kiềm chế mà rơi dọc con đường. Từ ngày mẹ mất đêm nào tôi cũng đi dọc những con phố để tìm lại hình bóng mẹ. Nỗi đau quá lớn làm tôi mất đi phương hướng trong cuộc sống. Bạn bè, đồng nghiệp động viên tôi nên kìm nén lại để lo cho tương lai phía trước. Nhưng tôi hàng đêm vẫn theo đuổi tiếng chổi đêm để được tìm lại hình dáng người mẹ mà cả đời tôi yêu mến, cảm phục...
Năm năm sau tôi có gia đình riêng với chồng và con gái gần một tuổi. Người chồng yêu thương hết mực và con gái ngoan hiền có lẽ chính là món quà mẹ ban tặng cho tôi. Hàng năm vào ngày sinh nhật tôi. Tôi không cần bánh sinh nhật, không cần thổi nến mà chỉ cần cùng nắm tay chồng và con đi dạo trên những con phố nơi tuổi thơ tôi từng gắn bó với tiếng chổi của mẹ....!
Tiểu Mẫn
The Following 3 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
Cái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này, nhưng dường như, nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ. Cậu con trai bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ.
Cha qua đời vì cơn bạo bệnh. Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng, người cha vắn số.
Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết không đi bước nữa. Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình. Chị cặm cụi, chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị. Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai ngày một lớn lên, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.
Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố. Gánh nặng lại oằn lên vai người mẹ. Thế nhưng không may thay, khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh. Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới. Vốn là lao động chính của gia đình, giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông. Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học:
– Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ. Đi học, tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn một tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra.
– Có thế nào con cũng không được bỏ học. Con là niềm tự hào của mẹ. Chỉ cần con chăm chỉ học hành, còn những việc khác, con không phải bận tâm
Hai mẹ con tranh luận rất lâu, cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình khổ. Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm. Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được, mẹ cậu giơ tay tát cậu một cái vào má, cậu mới sững người lại. Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi. Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nở…
Nghe mẹ, cậu khăn gói vào trường nhập học. Lòng cậu nặng trĩu. Người mẹ đứng lặng hồi lâu, nhìn bóng con trai khuất dần…
Ít lâu sau, có một người mẹ lặc lè vác bao tải dứa, chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ. Chị nộp gạo cho con trai. Chị là người đến muộn nhất. Đặt bao gạo xuống đất, chị đứng thở hổn hển một hồi lâu rồi nem nép đi vào.
Thầy Hùng phòng giáo vụ nhìn chị, nói:
-Chị đặt lên cân đi. Mở túi gạo ra cho tôi kiểm tra.
Chị cẩn thận tháo túi.
Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy khẽ cau lại, giọng lạnh băng:
-Thật chẳng biết nên nói thế nào. Tôi không hiểu sao các vị phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn. Đấy, chị xem. Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ, vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ, cả cám gạo nữa, đây còn có cả ngô nữa… Thử hỏi, gạo thế này, chúng tôi làm sao mà nấu cho các em ăn được. Thầy vừa nói vừa lắc đầu.
– Nhận vào.
Thầy nói, không ngẩng đầu lên, đánh dấu vào bảng tên của học sinh.
Mặt người mẹ đỏ ửng lên. Chị khẽ khàng đến bên thầy nói:
-Tôi có 50.000 đồng, thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thưa thầy?
-Thôi, chị cầm lấy để đi đường uống nước.
Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay, khổ sở, mặt đỏ ửng lên, chân tay thừa thải vì chẳng biết làm thế nào. Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về.
Đầu tháng sau, chị lại đến nộp gạo cho con trai. Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi lại cau mày, lắc đầu. Thầy có vẻ lạnh lùng, ác cảm:
– Chị lại nộp loại gạo như thế này sao? Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì, chúng tôi cũng nhận, nhưng làm ơn phân loại ra, đừng trộn chung như thế này. Chúng tôi làm sao mà nấu cơm cho ngon để các em ăn được? Chị nghĩ thử xem, với loại gạo hổ lốn thế này, liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không? Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao?
– Thầy thông cảm. Thầy nhận cho, ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế !Người phụ nữ bối rối.
– Thật buồn cười cái nhà chị này ! Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng đến hàng trăm thứ lúa thế sao? Nhận vào! Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.
Người mẹ im bặt, mặt chị trở nên trắng bệch, nhợt nhạt.Chị lí nhí cảm ơn thầy rồi lại lặng lẽ bước thấp, bước cao ra về.Dáng chị liêu xiêu, đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa.
Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo. Chị lại đến.Vẫn dáng đi xiêu vẹo, mồ hôi mướt mải trên trán, ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ. Bao gạo nặng dường như quá sức với chị.
Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra. Lần này, nét giận dữ in hằn trên mặt thầy. Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc để người phụ nữ ấy nhớ:
– Tôi đã nói với chị thế nào. Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa. Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi thế này. Chị mang về đi. Tôi không nhận!
Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất. Dường như bao nỗi ấm ức, đau khổ và bất lực bị dồn nén bao ngày đột nhiên bừng phát. Chị khóc. Hai hàng nước mắt nóng hổi, chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn. Có lẽ, chị khóc vì tủi thân và xấu hổ. Khóc vì lực bất tòng tâm.
Thầy Hùng kinh ngạc, không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế. Chị kéo ống quần lên để lộ ra đôi chân dị dạng. Một bên chân quắt queo lại.
– Thưa với thầy, gạo này là do tôi… Tôi đi ăn xin, gom góp lại bao ngày mới có được. Chẳng giấu gì thầy, chân cẳng tôi thế này, tôi làm ruộng thế nào được nữa. Cháu nó sớm hiểu chuyện, đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng. Thế nhưng tôi kiên quyết không cho, kiên quyết không để con tôi thất học. Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này. Nhà chỉ có hai mẹ con, cha cháu mất sớm… Thầy thương tình, thầy nhận giúp cho. Không nộp gạo, con tôi thất học mất!
Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế.Trời còn tờ mờ, khi xóm làng còn chưa thức giấc, chị lặng lẽ chống gậy, lê mình rời khỏi thôn. Chị đi khắp hang cùng,ngõ hẻm xóm khác xin gạo. Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về. Chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.
Lần này người bị xúc động mạnh lại là thầy Hùng. Thầy đứng lặng hồi lâu rôi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên. Giọng thầy nhỏ nhẹ :
– Chị đứng lên đi, người mẹ trẻ !Chị làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi đã có lời không phải với chị.Thôi thế này, tôi nhận. Tôi sẽ thông báo với trường về hoàn cảnh của em học sinh này, để trường có chế độ học bổng hỗ trợ cho học sinh vượt khó.
Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt. Chị gần như chắp tay lạy thầy. Giọng chị van lơn:
– Xin thầy. Tôi có thể lo cho cháu, dù không đủ đầy như các bạn nhưng tôi lo được. Khổ mấy, vất vả mấy tôi cũng chịu được. Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này. Đây là bí mật của tôi, mong thầy giữ kín giùm cho.
Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như người mà chị mang một hàm ơn lớn, đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc, liêu xiêu ra về.
Lòng thầy xót xa.
Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng. Ban giám hiệu trường giữ bí mật này tuyệt đối. Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này. Ngoài ra,học lực của cậu rất khá, đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của trường.
Cuối cấp, cậu dẫn đầu trong danh sách những học sinh xuất sắc của trường. Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất của Thủ Đô. Trong buổi lễ vinh danh những học sinh ưu tú, khi tên cậu được xướng lên đầu tiên, mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất, mỉm cười sung sướng.
Có một điều rất lạ rằng trên sân khấu hôm ấy, có ba bao tải dứa sù sì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng, nơi mọi người có thể dể dàng nhìn thấy nhất. Ai cũng thắc mắc,không hiểu bên trong ấy chứa thứ gì.
Trong buổi lễ trang nghiêm ấy, thầy hiệu trưởng rất xúc động và kể lại câu chuyện người mẹ trẻ đi ăn xin nuôi con học thành tài. Cả trường lặng đi vì xúc động. Thầy hiệu trưởng ra dấu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở ba bao tải ấy ra. Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về.
Thầy nói:
– Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ yêu con hết mực. Những hạt gạo đáng quý này, tiền, vàng cũng không thể mua nổi. Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.
Cả trường lại một lần nữa lặng người đi vì kinh ngạc. Cả trường dồn mắt về phía người phụ nữ chân chất, quê mùa đang được thầy Hùng dìu từng bước khó nhọc bước lên sân khấu.
Cậu con trai cũng quay đầu nhìn lại. Cậu há hốc miệng kinh ngạc. Cậu không thể ngờ rằng người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.
– Chúng tôi biết, kể ra câu chuyện này sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động rất mạnh về tâm lý. Thế nhưng, chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm gương sáng, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ. Điều đó hết sức đáng quý và đáng được trân trọng vô cùng.
Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp. Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha, người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời mình vì tương lai con em…
Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động. Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa cả,mắt cậu nhòe nước. Mẹ cậu đứng đó, gầy gò, khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc và ánh mắt ấm áp, yêu thương ấy đang hướng về phía cậu với cái nhìn trìu mến.
Người phụ nữ ấy run run vì chưa bao giờ đứng trước đám đông. Run run vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng đã giành cho mình. Với chị, đơn giản, tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị giành cho con trai. Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.
Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy, chạy lên ôm chầm lấy mẹ mà mếu máo khóc thành tiếng:
– Mẹ ơi!!!!!!
The Following 3 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
Đó là dịp tết năm 1995. Lần đầu tiên tôi về thăm quê hương.
Người đàn ông đạp xích lô, gầy guộc và khắc khổ. Nhìn ông già hơn tuổi. Có lẽ cuộc sống đầy khó khăn, nên sự lo âu, buồn buồn, hiện rõ trên nét mặt của ông.
Lúc đó, cũng có dăm ba người mời tôi đi xe của họ. Nhìn qua nhìn lại, tôi chọn đi xe của ông. Tôi nghĩ, ông già yếu hơn mấy anh kia, nên có thể ông ít được khách mời ông đi. Tôi muốn ông có thêm thu nhập, nên đồng ý lời mời của ông.
Hôm đó tôi bao xe đi nguyên ngày, đi vòng quanh Vũng Tàu, ngắm lại phong cảnh quê hương, sau 5 năm xa cách.
Khi biết ý muốn của tôi, ông mừng vui lắm. Nét mặt rạng rỡ hẵn ra. Trước khi lên xe, tôi nghe mấy anh kia còn nói. Trúng mánh nhe ông già. Gặp Việt kiều là ngon rồi.
Ông đạp xe chở tôi đi. Hai ông cháu nói chuyện rất thân thiện. Qua câu chuyện, tôi biết ông đi tù cải tạo về. Trãi qua bao tháng ngày cực khổ trong chốn lao tù, hình như sức lực của ông cũng hao mòn, yếu dần đi. Cuộc sống vốn dĩ khó khăn, nay về nuôi thêm mẹ già, nên càng khó khăn hơn. Khi biết tôi qua Mỹ theo diện HO, ông trầm ngâm:
– Bác giờ cũng đã già. Với lại đang nuôi mẹ già. Giờ bác đi cũng được. Nhưng mẹ bác để cho ai coi đây. Bao nhiêu năm đi tù xa cách mẹ già, giờ bỏ đi nữa thì mang tội bất hiếu.
Rồi bác nói không biết bây giờ qua Mỹ bác sẽ làm gì. Bạn bè của bác đã đi gần hết. Họ nói họ đi vì tương lai của con cháu. Chứ bác đâu còn gia đình gì đâu nữa mà đi. Tôi hỏi bác vậy vợ con của bác đâu rồi. Bác im lặng một hồi. Tôi quay lại, ngước mắt lên nhìn bác. Bác vẫn đạp xe, nhưng hình như bác buồn lắm. Mắt bác đỏ hoe. Như đoán được chuyện gì, tôi chỉ im lặng nhìn theo hướng phía trước. Chừng 5 phút sau, bác mới nói được:
– Bác có 3 đứa con. Chúng nó đi vượt biên, khi bác còn ở trong tù.
– Giờ mấy anh chị đang ở nước nào hả bác.
Bác lại im lặng…một hồi…rồi nói tiếp.
– Chuyến đi đó mất tích luôn. Không một ai có tin tức gì hết.
Tôi lặng điếng người. Thật không ngờ, kiếp người sao khổ vậy trời. Tôi cũng khổ nhiều, nhưng so với ông, nỗi khổ kia chẳng thấm vào đâu. Lòng tôi cảm thấy thương bác nhiều hơn. Không biết là tình thương đồng loại, hay thương vì tội nghiệp cho những bất hạnh của ông.
– Vậy bác gái đâu rồi bác.
– Ngày xưa thời VNCH, một mình bác làm nuôi cả nhà. Sau năm 1975 bác bị đi tù, bác gái phải tần tảo mà cũng không nuôi nổi mấy đứa con. Rồi có người giúp đỡ…
Nói đến đó bác không nói nữa. Tự nhiên tôi thấy mình hơi tàn nhẫn khi vô tình khơi lại vết thương đau của bác.
Bác chở tôi đi về từ theo đường bãi Dâu, bãi Dứa. Con đường này, cách đây 20 năm, vẫn một bên là núi, một bên là vực sâu của biển. Có đoạn lên dốc, có đoạn xuống dốc rất khó đi. Nhưng vì muốn tôi ngắm cảnh đẹp của đất trời, mênh mông của biển cả, bác chọn hướng đi này. Những đoạn lên dốc, tôi nhảy xuống, vì sợ bác mệt đuối sức, nhưng ông nhất định ko chịu. Bác thấy chân tôi bị yếu đi cà quẹo, bác càng không để tôi bước xuống. Chổ nào bác đạp không nổi, bác nhảy xuống đẩy hay kéo xe. Thật lòng những lúc đó, tôi cảm thấy khó chịu quá trời.
Thế rồi chuyện đời cũng lắm cái ngờ. Trong khi đang xuống dốc, chiếc xe chạy nhanh hơn, rồi nhanh hơn nữa, hơn nữa. Tôi nghe bác hốt hoảng la lên.
– Chết rồi, thắng xe bị tuôn.
Xe càng chạy nhanh hơn. Tôi quá sợ hãi. Trong đầu lúc đó, tôi chỉ nghĩ mình sẽ bị lao xuống vực sâu. Bác vội nhảy xuống, dùng hết sức lực kéo chiếc xe lại, nhưng chiếc xe chỉ khựng lại tí xíu rồi vẫn chạy nhanh. Tôi nhắm mắt lại và nghĩ đến Gia đình. Cũng lúc đó, một tiếng đùng vang lên. Cả xe và tôi ngã nghiêng về vách núi và dừng lại.
Sau khi bình tĩnh trở lại, tôi thấy bác máu ra nhiều ở 2 bàn chân. Vì khi bác cố gắng kéo chiếc xe lại. Sức mạnh của chiếc xe đã kéo đôi chân của bác chà xát trên mặt đường, và bây giờ nhìn vào đôi chân ấy, chỉ thấy toàn là máu. Trong lúc xảy ra tình huống giữa chết và sống, bác lanh trí bẻ tay lái cho xe tông vào núi. Dù có bị gì đi nữa, còn hơn rơi xuống vực sâu.
Về đến nhà, bác không lấy tiền xe vì tai nạn xảy ra. Bác tha thiết năn nỉ tôi đừng bắt đền cái máy chụp hình, vì bác không có tiền. Thật sự lúc đó tôi thấy bác thật tội nghiệp và đáng thương. Tôi nói bác đừng lo gì cả, rồi tôi tặng cho bác 100 đô. Bác ngỡ ngàng nói đây là tờ 100 đô chứ không phải tờ 10 đô. Tôi nói tôi biết. Bác nói như vui mừng lắm.
– Con cho bác 2 chỉ vàng hả con.
Đáng lý ra tôi không nên kể chuyện tặng bác tiền. Nhưng tôi nghĩ, nếu như những ai trong trường hợp của tôi lúc đó, tôi tin cũng đều làm như vậy.
Trước khi chia tay, tôi đã ôm bác thật lâu. Lúc đó tôi vẫn còn nhớ là có mùi khen khét từ làn da cháy nắng của bác.
Sau này tôi có dịp về thăm quê hương và có hỏi thăm bác. Người ta nói bác đã đi Mỹ theo diện HO rồi.
CHỨNG ĐẶNG
The Following 2 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
Bức thư tuyệt mệnh của người mẹ 80 tuổi hối hận vì sinh ra 4 con trai khiến nhiều người trào nước mắt
“Các con trai của mẹ,
Hôm nay là ngày 6/6, mẹ đã qua tuổi 80, điều này cũng có nghĩa là mẹ đã sống được 80 năm trên đời rồi.
Trải qua một thời gian dài như vậy, mẹ sinh 4 đứa con và nuôi thêm 8 đứa cháu tất thảy. Tức là trong suốt cuộc đời mình, mẹ đã nuôi 12 người, cả con lẫn cháu.
Vì vậy mà mẹ nghĩ rằng mẹ đủ từng trải và đủ tiếp xúc để có thể hiểu rõ về những đứa con của mình.
Đặc biệt là từ vài năm trước, sau khi cha các con qua đời, mẹ cảm thấy một cách rõ ràng rằng các con ngày càng trở nên thiếu kiên nhẫn với mẹ.
Nhưng lúc đó, mẹ đã thực sự hy vọng rằng các con có thể đưa mẹ về nhà, mẹ muốn sống với các con và mẹ có thể làm bất cứ điều gì để được như thế.
Mẹ cứ mong chờ nhưng 2 tháng đã trôi qua mà không một ai trong số các con đón mẹ về. Trái tim của mẹ lạnh lẽo như đóng băng vì mẹ biết các con sẽ không bao giờ có ý định đó.
Cũng may là khi ấy các con đối xử với mẹ không tệ.. 4 người các con đã chia nhau, mỗi người 1 tuần ở lại với mẹ, nên mẹ không còn sợ hãi khi màn đêm buông xuống nữa.
Thực ra, ai cũng vậy thôi, sống đến ngần này tuổi rồi, điều đáng sợ nhất là gì? Đó chẳng có gì khác ngoài nỗi cô đơn.
Thế nhưng sau đó, các con gặp mẹ với gương mặt ngày càng cau có. Khi đến, các con không chào hỏi gì và lúc đi cũng chẳng nói với mẹ một câu nào.
Nó giống như là các con đang vào khách sạn và đi lướt qua một bà già xa lạ vậy.
Mẹ không muốn xúc phạm bất kỳ ai trong số các con. Mẹ không ăn của các con một bữa ăn nào, cũng không mặc quần áo của các con và càng không tiêu tốn 1 đồng nào của các con.
Nhưng các con luôn cho mẹ cảm giác, việc các con đến thăm mẹ giống như là một món nợ, một gánh nặng phải trả.
Ngay cả khi mẹ đã chẳng còn minh mẫn thì mỗi tối, các con vẫn bỏ về nhà mình, không một ai ở lại với mẹ. Chính điều đó đã khiến cho mẹ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết.
Sau khi cha các con qua đời, các con đã ở cạnh mẹ 1 năm 9 tháng. Mẹ biết ơn vì điều này nhưng ở phần còn lại của cuộc đời, mẹ sẽ đi một mình.
Trong hơn 2 năm qua, mẹ đã phải vật lộn với nỗi cô đơn. Vào ngày sinh nhật lần thứ 80 của mẹ, các con đã đến và đều chúc mẹ “Sống lâu trăm tuổi!”, nhưng lúc đó mẹ chỉ cười và nghĩ, sống trăm tuổi thật vô dụng.
Và gần đây, bệnh tim của mẹ ngày càng nặng hơn. Mẹ không nói điều đó với các con và mẹ không biết phải nói gì.
Mẹ mong rằng bệnh tật sẽ mang mẹ đi gặp cha các con sớm hơn, nếu được như vậy thì mẹ sẽ biết ơn cuộc đời này rất nhiều.
Mấy ngày trước, mẹ mơ thấy cha các con. Ông ấy nhìn mẹ cười và nói: “Bà đi với tôi nhé! Bà sẽ không còn cảm thấy cô đơn nữa”.
Tỉnh dậy, mẹ nhìn thấy những ngôi sao bên ngoài cửa sổ, thấy mặt trăng tròn và lớn. Mẹ đã mơ thấy cha các con, mơ thấy rằng ông ấy sẽ đón mẹ đi vào một đêm tuyệt đẹp như thế.
Trong suốt cuộc đời mình, mẹ biết ơn tình yêu của ông ấy dành cho mẹ và biết ơn sự chăm sóc của các con trong 630 ngày vừa qua.
Bệnh tim của mẹ mỗi ngày một nặng nên mẹ hiểu rằng mình không còn nhiều thời gian nữa. Thế nên mẹ đã viết bức thư này, bởi duyên phận của mẹ con mình cũng chẳng còn bao nhiêu.
Tóc mẹ đã bạc hết rồi, mẹ có thể thề với mái tóc của mình rằng, mẹ thực sự trân trọng những gì các con đã làm cho mẹ.
Ngoài câu này ra, mẹ còn muốn nói thêm rằng: “Mẹ rất hối hận khi đẻ ra các con. Nếu có kiếp sau, mẹ không muốn các con là con của mẹ nữa.”
Nhưng với tư cách là một người mẹ, mẹ vẫn hi vọng rằng cả 4 người các con sẽ hạnh phúc trong những năm tháng sau này, sẽ không bị 8 đứa con của mình bỏ rơi.
Sau lá thư này, mẹ muốn dừng lại tất cả…”
Cuối cùng, một vài ngày sau, người ta phát hiện bà mẹ 80 tuổi đã nhắm mắt xuôi tay với gương mặt vô cùng bình yên trên chiếc giường của mình, trong tay là bức ảnh duy nhất của bà và chồng.
VƯƠNG ĐIỀN
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
Tôi còn nhớ năm tôi học lớp ba, gia đình tôi mới chuyển tới ở khu dinh điền Gò Chuối thuộc quận Kiến Bình, tỉnh Kiến Tường. Mồi buổi chiều tôi thường xin phép bố Mẹ ra một bãi đất trống để cùng các bạn chơi khăng, trốn tìm và những trò chơi khác. Lần đó, có khá đông, chúng tôi chơi trò “Cờ Lau tập trận”. Cũng chia hai phe rõ ràng, vũ khí là những cành cây được bẻ vội gần đó. Không may trong lúc nhập trận, một bạn, tôi nhớ hình như là Tuân (là cháu họ gọi tôi là cậu), có lẽ vì quá hăng say đã làm tôi bị nhiều vết trầy trên mặt, trên cánh tay. Bực mình quá, tôi lấy ngay cành cây đang cầm quất vào đầu Tuân làm Tuân bị chảy máu… Khi về nhà, sợ bị đòn tôi đã nói dối bố tôi là tôi bị trượt chân ngã khi đi ngang một cây cầu khỉ. Bố tôi không để ý và chỉ kêu tôi lấy thuốc sát trùng rửa những chỗ bị trầy. Mẹ tôi đã giúp tôi làm những chuyện này một cách chu đáo… Hôm sau Mẹ gọi tôi và dịu dàng nói: ”Hôm qua con nói dối bố Mẹ. Tuân nói với Mẹ là con chơi tập trận và gây sự đánh nhau với Tuân. Con nói dối bố Mẹ. Nói dối là không tốt con ạ. Từ nay về sau con không được nói dối nữa nghe Môn”. Tôi xin lỗi Mẹ và hứa từ nay sẽ không nói dối nữạ. Kể từ đó, mỗi lần xảy ra chuyện gì tôi thường nói thật với Mẹ và Mẹ tôi rất vui khi thấy tôi làm như vậy
Mẹ tôi cũng nói dối!!! Vâng đúng vậy, Mẹ tôi đã nói dối ba anh em tôi nhiều lần. Tôi vẫn còn nhớ bốn lần Mẹ đã nói dối tôi và anh em tôị.
Khi anh em chúng tôi còn nhỏ, nhà tôi nghèo nhưng mỗi ngày đi chơ Mẹ đều mua chút quà về cho chúng tôi, khi thì vài cái kẹọ khi thì vài trái cây. Đặc biệt, biết chúng tôi thích ăn mía nên cũng Mẹ hay mua. Về nhà Mẹ tự dùng dao róc mía và tiện ra từng khúc nhỏ và bổ ra cho chúng tôi ăn. Ba anh em chúng tôi ngồi cạnh Mẹ chờ đợi. Khi tớí đầu mặt của cây mía thì thay vì bỏ đi thì Mẹ lại ăn khúc đó! Em Huệ ngây thơ hỏi Mẹ: “Sao Mẹ không ăn khúc kia, khúc đầu mặt cứng và không ngọt, sao Mẹ không bỏ đi?”. Mẹ từ tốn: “ Răng Mẹ còn tốt. Mẹ thích ăn khúc này các con ạ vì càng nhai lâu càng thấy vị ngọt của mía!”. Có thể em Huệ còn bé nên tin điều Mẹ nói nhưng tôi hơi nghi ngờ. Tôi nghĩ Mẹ tôi đã nói dối!
Năm 1966, tôi học lớp đệ tứ (lớp chín bây giờ) ở trường trung học Kiến Tường. Năm đó nước lụt lớn làm ngập các con đường trong tỉnh. Mỗi lần đi học, Mẹ chèo thuyền chở tôi đi và đến giờ tan học lại ra đón tôi về. Có một lần Mẹ chèo thuyền chở tôi đi học. Hôm đó trời mưa lất phất và gió thổi nhè nhẹ. Khi gần tới trường, một chiếc ca nô quân đội chạy băng qua với tốc độ khá nhanh để lại những gợn sóng to làm chiếc thuyền bé nhỏ bị chòng chành. Tôi bị mất thăng bằng và làm rơi chiếc cặp xuống dòng nước. Tôi chới với chồm qua thành chiếc thuyền nhỏ để níu lại chiếc cặp. Chiếc thuyền nhỏ ba lá mất thăng bằng và bị lật.
Mẹ buông chèo và nhảy vội tới để bế tôi vào chỗ mô đất cao. Người tôi run lên vì lạnh. Mẹ vội phủ chiếc áo mưa quanh người tôi và ấp tôi vào lòng để truyền hơi ấm cho tôi. Tôi hỏi Mẹ có lạnh không? Me trả lời rất nhanh: “Không, Mẹ không saọ, Mẹ không lạnh!”. Hôm đó tôi bị trễ một giờ học và Mẹ thì bị cảm lạnh mấy ngày sau đó. Như vậy khi đó chắc Mẹ lạnh lắm nhưng… Mẹ đã nói dối!
Thời gian đó, chiến tranh càng ngày càng khốc liệt. Điều này đã làm cho đời sống khó khăn thêm. Số lương công chức ít ỏi của cha tôi đã không còn đủ để trang trải cho cuộc sống của gia đình. Mẹ tôi đã phải vất vả đi vào những vùng sâu, nguy hiểm (hình như vùng Long Khốt) để mua hàng mang về chợ Kiến Tường bán thêm kiếm lời. Vất vả lắm nhưng Mẹ vẫn vui khi chúng tôi có thêm được cuốn vở mới hay một bữa ăn ngon hơn. Có lần thấy Mẹ hơi buồn sau một chuyến đi mua hàng. Hình như Mẹ bị mất hàng trong chuyến đi đó. Tôi gạn hỏi, Mẹ chỉ nói qua loa cho qua chuyện: “Mẹ không bị mất hàng, nhưng lần này không mua được hàng rẻ nên không có lời. Đi buôn thì cũng có lẫn này, lần khác con ạ!”. Sau lần đó, tôi không thấy Mẹ tiếp tục đi mua hàng nữa và tôi ngờ ngợ... Mẹ đã nói dối tôi!
Khi tôi lên trọ học ở thành phố Mỹ Tho vì đường xá đi lại khó khăn nên Mẹ khuyên tôi cứ lo học đừng lo chuyện ở nhà. Thỉnh thoảng tôi cũng về thăm gia đình. Lúc này Me tôi hơi yếu và bi chứng huyết áp cao, chú y tá Tánh thường hay đến nhà đo huyết áp và cho thuốc Mẹ tôi uống. Có một lần, Phạm Văn Tuyên, bạn tôi, về Kiến Tường ghé thăm Mẹ tôi và cho tôi biết lúc này Mẹ tôi có vẻ yếu và mệt nhiều. Tôi vội viết thư về thăm Mẹ. Mươi ngày sau Mẹ hồi âm ít dòng cho biết Mẹ chỉ bị cảm nhẹ do thời tiết thay đổi và nay thì Mẹ đã khỏe rồi, huyết áp của Mẹ cũng trở lại bình thường. Tôi yên tâm và tiếp tục chăm chú học nhưng… chỉ hơn một tuần sau, vào một ngày cách đây hơn bốn chục năm. Tôi được tin Mẹ tôi bị đứt mạch máu và qua đời! Vâng, Mẹ lại nói dối tôi và đây cũng là lần nói dối cuối cùng của Mẹ !!!
Đây chỉ là những lần nói dối của Mẹ mà tôi còn nhớ được. Tôi nghĩ, Mẹ còn nói dối anh em chúng tôi nhiều lần nữa.
Để tạm ngưng bài tùy bút này, tôi xin mượn lời hát trong bài “Lòng Mẹ” của cố nhạc si Y Vân. Bài này chắc hẳn ai cũng có thể hát một đôi câu. Tình Mẹ, hai chữ đó càng suy nghĩ tới thì càng không thể ngăn nổi đôi dòng lệ.
Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình, dạt dào,
Tình Mẹ tha thiết như dòng suốt hiền ngọt ngào
Lời ru êm ái như đồng lúa chiều rì rào,
Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng Mẹ yêu …
Thương con thao thức bao đêm dài,
Con đã yên giấc, Mẹ hiền vui sướng biết bao
Thương con khuya sớm bao tháng ngày,
Lặn lội gieo neo, nuôi con tới ngày lớn khôn...
Mai Khánh Thư - Phạm Doanh Môn
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
Nếu ta bỏ một con cua vào một cái xô nhỏ, nó có thể dễ dàng leo lên và bò ra. Nhưng nếu ta bỏ nhiều con cua vô chính cái xô đó, thì không con nào bò ra khỏi được!
Bạn có biết tại sao không?
Một buổi chiều lang thang trên bờ biển, tôi thấy một bác ngư dân để một cái xô rất nhiều cua trên bên cạnh ông. Thấy thế tôi mới thắc mắc hỏi: Tại sao cái xô không có nắp đậy? Bác không sợ cua nó bò ra hết à? Và cũng nhờ vậy tôi mới có được câu giải thích: “Ngốc quá, một con cua thì có thể leo ra ngoài dễ dàng nhưng với một đàn cua thì không.
Bởi khi bất kỳ con cua nào cố gắng trèo ra sẽ bị những con cua khác nắm chân lôi xuống. Cứ như thế, chẳng con cua nào ra khỏi cái xô được, vậy cần gì đậy nắp”.
—
Có bao giờ bạn muốn làm một điều gì đó mà bị bạn bè, gia đình, người thân ngăn cản chưa?
Có bao giờ bạn cho đó là đúng nhưng hầu như tất cả mọi người đều bảo là sai chưa?
Có bao giờ bạn hành động theo trái tim mình nhưng bị ném đá tơi tả chưa?
Chắc chắn, ít nhất một đôi lần bạn gặp trường hợp tương tự. Đây là định luật xã hội, nhưng gắn chặt với định luật của tự nhiên.
Khi bạn cố gắng bắt đầu đi trên một con đường mới, hướng đi mà những người khác rất thận trọng, họ sẽ làm tất cả những gì có thể để kéo bạn trở lại. Những gì họ đang thực sự làm là chiếu nỗi sợ hãi của chính mình vào tình huống của bạn.
Họ thậm chí có thể cảm thấy rằng họ đang giúp đỡ bạn, rằng họ đang hướng bạn khỏi thất vọng và thất bại. Nhưng không, họ đang giữ bạn ở chính vị trí mà họ đang ở mà thôi.
Vì vậy, khi bạn thật sự muốn làm một điều gì thì khó khăn lớn nhất chính là vượt ra khỏi đám đông còn lại. Nếu không học cách vượt qua, bạn sẽ cứ mãi ở lại trong chính “cái xô” đó.
The Following 2 Users Say Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp. Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg.
Cũng như nhiều gia đình khác, những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh ! Mỗi lần muốn gọi, chỉ cần: “Êu, Êu” là nó xuất hiện, ve vẩy đuôi, miệng rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương! Thường ngày, khi không có ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.
Từ ngày mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó.. Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn quẩn bên ông.
Một hôm có hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh đồng… Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt! Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự được ăn no.
Mẹ tôi bàn với cha tôi lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. “Người chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi?” – Mẹ tôi bảo thế.
Có một điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất! Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người? Chúng tôi chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín. Cho đến khi cha tôi nước mắt lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui ra !
Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó, khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng!…
Người ta trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt… Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy? Nếu muốn, lại sẽ mua con khác về nuôi ! Cha tôi không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng….
Đêm hôm đó trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật diêm hút thuốc.. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc, quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao, buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý lắm…
Vào khoảng 2-3 giờ sáng, cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa.. Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm? Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò? Nhưng chỉ một phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó đã trở về! Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn.
Tội nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào nhau. Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn.
Lạ lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại… Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường… Ông lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.
Sáng hôm sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai nữa.
Từ hôm đó chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà!
Khoảng chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay. Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó, rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta còn bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương, dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.
Hôm đó cha tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con trăn cong người cắn chặt vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ hãi.
Ngay lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương sống! Mõm con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống phân nhão!
Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo, mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết.
Cha tôi mang con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm. Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi thuốc và băng bó vết thương.
Buổi chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi, nhưng không ăn một miếng nào…
Cả xóm tôi đem con trăn ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời! Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem chôn nó như chôn một con người!
Khoảng hai tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên, từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình thường.
Từ dạo đó, cha tôi cưng con chó như con. Một phần cơm đạm bạc và ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm!.
Cuộc sống như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời! Tôi còn nhớ như in, hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc như mưa. Không mấy ai để ý trong dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt.
Nó ướt lút thút như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại tự lê lết về nhà? Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng ở đâu xa lắm…
Sáng hôm sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở về? Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy miếng thịt lợn luộc, những thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.
Sau hơn một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.
Rồi một buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt mình: Con chó liệt đã nằm chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt…
Chúng tôi trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi… Tôi cắm mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ ngợi : Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo Người…
PANDA NGUYEN
The Following 2 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
- Cám ơn mẹ giúp con làm bài.
- Cám ơn bố chở con đi ăn.
- Cám ơn ông bà kể chuyện cho cháu nghe...
Mỗi ngày tôi nghe tiếng cám ơn từ các con trong gia đình, ở nhà của bạn bè người thân, nhưng ít khi tôi nghe được tiếng cám ơn từ người lớn đối với con cháu của họ. Có phải người Việt quen nhận lời cám ơn từ những người nhỏ hơn mình hoặc vì tuổi tác hoặc vì chức vị trong xã hội nên họ không cần đáp lời cám ơn lại" Chắc chắn là không, vì tôi thấy khi đối xử với người Mỹ ở bất cứ lứa tuổi nào, người Việt ta vẫn luôn mở lời cám ơn ríu rít.
Con tôi được sinh ra tại Mỹ nên từ nhỏ đã quen với nếp sống ở đây. Có lần tôi dẫn cháu đi sinh hoạt những lễ hội Việt Nam trong vùng để biết thêm về phong tục người Việt. Lúc về nhà cháu thắc mắc không biết tại sao người lớn không biết nói cám ơn. Tôi hỏi trong trường hợp nào thì cháu nói khi có mấy em nhỏ đem đĩa thức ăn tới thì không thấy ai nói cám ơn cả.
Cám ơn là cái chi chi"
Dựa theo tự điển Oxford, khi nói tiếng cám ơn là ta bày tỏ lòng biết ơn của ta đến một người nào vì người đó đã làm một việc gì cho ta.
Thông thường người Mỹ hay trả lời "You re welcome" (không có chi) sau khi ai đó nói cám ơn. Các trẻ em Việt đôi khi thấy lạ khi chúng cám ơn "Thank you" mà không thấy người Việt (ngay cả người thân) không chịu nói "You’re welcome". Đặc biệt hơn nữa là những em đã được cha mẹ dặn dò truớc khi về thăm Việt Nam là người Việt bên ấy rất kính trọng người lớn tuổi và các em cần lễ phép với mọi người.
Khi các em về thăm quê hương thì các em rất dễ bị va chạm thực tế phũ phàng. Ai nấy đều nhìn các em bằng cặp mắt soi mói, không chào hỏi như người Mỹ mỗi khi gặp thường nói "Hello". Khi mua vé, mua thức ăn, đi chợ, hình như vấn đề xếp hàng theo thứ tự trước sau không còn nữa mà mạnh ai nấy lấn. Khi nhận được món hàng hoặc tiền thối lại thì mọi người nhìn em chăm chăm khi em nói cám ơn theo thói quen. Tiếng cám ơn hầu như không thấy trên đầu môi chót lưỡi nữa mà thay vào đó chỉ là những chữ ĐM đệm cho mỗi câu. Đó là điều được kể lại bởi một số em theo gia đình về thăm người thân hàng năm mỗi lần khoảng một đến hai tháng hè. Tôi cũng có nghe vài người bạn nói như thế nhưng chưa kiểm chứng được vì tôi rời Việt Nam từ năm 75.
"Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau."
Ông bà ta đã để lại cho con cháu cả một kho tàng ca dao tục ngữ dễ nhớ, nhằm răn dạy chúng ta làm người phải biết lễ, nghĩa, trí, tín. Tôi không thấy người Mỹ có kho tàng ca dao phong phú như ta, nhưng từ trẻ đến già họ đều có tính thân thiện và hay giúp người, dù họ giàu hay nghèo.
Người Mỹ đã "dạy con từ thuở còn thơ". Họ dạy các em biết tự mặc áo quần, xỏ giầy, giúp đỡ cha mẹ việc nhà như thu xếp các đồ chơi vào thùng, xếp khăn và dọn bát đĩa ra bàn cho bữa ăn điểm tâm hoặc bữa chiều. Ngay cả những khi khách đến thăm, các em cũng được ngồi chung bàn tiếp chuyện với người lớn, và khi các em nói chuyện mọi người đều lắng nghe chứ không như gia đình Á châu khi người lớn đến thăm là những em nhỏ phải ở nhà trong không được ra phòng khách. Những lúc các em làm việc này người lớn luôn miệng "Cám ơn" và các em đáp lại "Không có chi."
Ngay trong trường tiểu học (lớp mẫu giáo - lớp 6), các em đã được khuyến khích làm những công tác thiện nguyện như: thu thập đồ chơi, thực phẩm bằng đồ hộp vào mỗi dịp lễ Giáng Sinh cho những gia đình có mức thu nhập thấp, dạy kèm các bạn học còn yếu về một môn học nào đó, giữ cho sân trường được sạch sẽ sau mỗi bữa ăn trưa, mở và đóng cửa xe của phụ huynh trước và sau giờ học để việc đưa rước học sinh được an toàn và nhanh nhẹn.
Tại thành phố tôi ở, những học sinh trung học đệ nhất cấp (lớp 7, 8) cần phải làm 12 tiếng đồng hồ thiện nguyện trong trường học hay trong cộng đồng, còn học sinh đệ nhị cấp (lớp 9, 12) phải làm 20 tiếng mới được cấp bằng ra trường. Do đó, các em đã quen nghe và nói tiếng "Cám ơn" từ trong nhà, đến trường học, và ngoài xã hội.
Có lẽ vì được tập tính tự tin từ nhỏ nên không ai ngạc nhiên khi các em trong lứa tuổi từ mười đến mười hai tuổi trở lên đã có thể tự làm những việc lặt vặt cho gia đình và hàng xóm mà còn được trả lương. Và để được trả lương xứng đáng với công việc, các em phải trổ tài ăn nói thuyết phục các "ông, bà chủ" rằng các em thực sự có khả năng làm việc như dọn dẹp nhà cửa, giữ em, cắt cỏ, tưới cây, rửa xe, hốt tuyết, bỏ báo, đánh máy chữ ... . Những em 15 tuổi trở lên đã có thể lái xe hơi, đứng bán hàng tại các tiêm ăn, siêu thị, tiệm tạp hóa và các em biết tiếp đón khách hàng niềm nở không khác gì những người làm việc lâu năm trong nghề.
Tôi nhớ khi mới chân ướt chân ráo đến Hoa-kỳ và được một nhà thờ bảo trợ, gia đình tôi được nhà thờ phân chia hội viên để lo cho gia đình tôi ngay từ lúc chúng tôi đáp xuống phi trường của thành phố định cư. Người đưa áo lạnh vì ngoài trời tuyết đang rơi (mặc dù lúc đó mới vào khoảng cuối tháng tám), người đi lấy hành lý, người đi lấy xe đậu trước cửa phi trường.
Ngày ấy, chúng tôi như người từ miền rừng núi trở ra thành phố lần đầu tiên. Cái gì đối với chúng tôi cũng đều mới mẻ. Lần đầu tiên chúng tôi ngồi trong xe hơi chạy trên con đường đóng đá băng mà không biết mình đi đâu (tuyết đang rơi dầy đặc, chỉ nhìn thấy đèn đỏ của xe phía trước). Lần đầu tiên chúng tôi thấy mạng sống của mình như chỉ treo mành trên nước Mỹ tự do, vì nguời hội viên lái xe chỉ chùi miếng kiếng nhỏ đủ để nhìn phía trước mặt. Khi xe ngừng lại trước một căn nhà trắng xóa (vì tuyết phủ) chúng tôi mới hoàn hồn. Vừa bước chân ra khỏi chiếc xe ai nấy đều thở phào với một làn khói dài, không phải vì đang hút thuốc mà vì trời lạnh khoảng mười mấy độ Fahrenheith (độ nước đông lạnh là 32 độ F) và vì hú hồn tưởng công lao tìm tự do vượt qua cả một Thái Bình Dương rộng lớn thì không sao mà qua đến nước Mỹ tự do, lại mất mạng vì thời tiết và tai nạn xe cộ thì uổng cả cuộc đời.
Sau hai ngày tạm trú tại nhà của một hội viên nhà thờ, họ đã giúp chúng tôi dọn vào một căn nhà gần trường học để chúng tôi dễ đi lại. Trong suốt một tuần lễ các hội viên thay phiên nhau đưa đón chúng tôi làm các thủ tục xin giấy căn cước, khám sức khoẻ, xin nhập học, đi nhà thờ, đi chợ mua thức ăn, quần áo, và dụng cụ cá nhân. Qua đến tuần thứ hai vì không muốn làm phiền người bảo trợ nên bố tôi đã xin một việc làm tháo ráp radio cho xe hơi tại một tiệm Radio Shack cách nhà khoảng 15 phút đạp xe đạp. Dẫu thế các hội viên vẫn tới lui thăm hỏi và dẫn chúng tôi đi chơi cuối tuần. Gần nhà tôi có một bạn Mỹ cũng học chung trường, cô đã hướng dẫn tôi mỗi ngày đến từng lớp học để khỏi bị lạc trong suốt cả tháng trời và lúc nào cũng vui vẻ giới thiệu tôi với bạn học của cô ấy.
Kể sao cho hết những "người đi qua đời tôi", đã tạo cho tôi một ấn tượng rất tốt về tình người. Những người lạ mặt đã giúp tôi đẩy chiếc xe cũ kỹ vào lề đường khi nó giở chứng nhõng nhẽo nằm ỳ ngay giữa đường, hoặc giúp tôi câu bình điện những khi nó nằm ăn vạ ngay trong bãi đậu xe trường học giữa lúc trời tuyết rơi lạnh thấu xương. Những người đã cho tôi những đồng bạc cắc để gọi điện thoại vào lúc khẩn cấp. Những người đã mở cửa hộ khi tôi tay xách nách mang cháu nhỏ đi khám bác sĩ, đi chợ khi chưa có loại cửa mở tự động... .
Vào ngày 6/4/08 tôi có dịp tham dự chương trình "Lịch Sử Ngàn Người Viết" của Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân tại thành phố San Jose, miền bắc California. Thật là cảm động khi tôi được biết những nghệ sĩ trình diễn hôm đó đến với chương trình hoàn toàn với tính cách thiện nguyện. Họ đến để nói một lời cám ơn với những đất nước đã cưu mang người Việt tỵ nạn. Theo lời ban tổ chức, khi ra đi tỵ nạn không ai đoán trước tương lai mù mịt của mình sẽ ra sao, chúng ta rời quê hương yêu dấu và bỏ lại tất cả tài sản và đôi khi cả người thân để chỉ đi tìm hai chữ tự do. Giờ đây sau 33 năm nhìn lại quá khứ, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm viết lại lịch sử, để ghi nhớ bằng dữ kiện làm tài liệu cho thế hệ mai sau. Từ một nữ sinh viên tuổi đôi mươi cách đây 66 năm đã cất tiếng hát "Tiếng Gọi Sinh Viên" (tiền thân của quốc ca Việt Nam Cộng Hòa) tại quê nhà, những cựu quân nhân VNCH, những cựu sinh viên năm mươi mấy tuổi trở lên, những em học sinh, sinh viên Việt Nam sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ, đến những cụ cao niên có người đã trên tám mươi, đứng trên cùng một sân khấu để hát chung "Hội Nghị Diên Hồng" với hàng ngàn khán giả tay cầm những ngọn đèn lung linh ánh sáng, với ước vọng cho một quê hương thanh bình có tự do dân chủ.
Cũng trong chương trình này, bốn cuốn phim "Chúng Tôi Muốn Sống", "Người Tình Không Chân Dung", "Rồng Xanh", và "Vượt Sóng" của những nhà làm phim người Việt đã được giới thiệu. Thành thật cám ơn những đạo diễn, người viết truyện, người soạn nhạc, người hòa âm, ca sĩ, nhạc sĩ, người thiết kế y phục, thiết kế cảnh trí, chuyên viên hóa trang, người phụ trách âm thanh, ánh sáng, người quay phim cũng như những diễn viên đã bỏ ra không biết bao nhiêu công sức, tạo ra những thước phim giá trị để chúng ta và những cộng đồng khác hiểu và thông cảm được ít nhiều về cuộc sống và lịch sử tỵ nạn của người dân Việt từ năm 1954 đến bây giờ
Trong cuộc sống của chúng ta, tôi chắc chắn chúng ta đã thọ ơn nhiều người, và cũng có nhiều lần chúng ta không biết họ là ai, vì họ chỉ là khách qua đường giúp ta trong lúc hoạn nạn mà không đòi hỏi gì cả. Tôi tự nguyện với lòng, tôi sẽ làm bất cứ điều gì để giúp những người cần được giúp bằng tiền bạc hay thời gian trong khả năng hạn hẹp của tôi để thể hiện lời cám ơn đến họ.
Hy vọng trong mùa Lễ Tạ Ơn năm nay chúng ta đều nghĩ đến việc cho thay vì nhận, ngõ hầu thế giới chúng ta đang sống được an vui và mọi người có được một cuộc sống êm ấm hơn.
Nguyễn Thi
The Following User Says Thank You to wonderful For This Useful Post:
Sống trên đất Mỹ này, người Việt Nam mình thường nhắc đến và ca tụng những cái bằng như Bác Sĩ, Nha Sĩ, Dược Sĩ vân vân. Chủ nhân của loại bằng cấp này thường được tuyên dương, kính nể vì chẳng những các bằng cấp đó đã “cấp” cho chủ nhân của chúng sự thông thái mà còn mang về cho họ mức lương trên “sáu số” tức là hàng trăm nghìn/năm. Nhưng mà người ta đã “bỏ quên” hoặc là có nhắc đến nhưng với những nhận định không mấy đẹp đối với những cái bằng “không có cấp” cho dù chúng cũng đã đem lại cho chủ nhân những thành công không nhỏ. Một trong số đó là cái bằng Nail.
Hình như cái bằng Nail không được vinh dự có tên trong “danh mục” bằng cấp. Giá mà nó biết nói, thì nó sẽ tự hào mà tuyên bố một cách hùng hồn rằng nó cũng từng giúp “làm nên lịch sử” cho rất nhiều gia đình Việt sống trên đất nước của Nữ Thần Tự Do này. Nói về việc giúp cho kiến thức tổng quát, bằng Nail cung cấp sự hiểu biết về những khái niệm cơ bản của sinh học, hệ tuần hoàn, các chứng bệnh “thế kỷ” dễ lây nhưng không dễ trị, các loại vi khuẩn, việc giữ gìn vệ sinh cần thiết để ngăn ngừa sự nhiễm bệnh, lây bệnh cho bản thân, cho người khác, cách pha chế dung dịch sát trùng theo tiêu chuẩn của bệnh viện, và điều quan trọng nữa là những kiến thức tuyệt vời trong việc “đối nhân xử thế” và những bí quyết để thành công trong lãnh vực kinh doanh. Trừ ra nghệ thuật làm móng tay, thì tất cả kiến thức mà cái bằng Nail đòi hỏi cũng gần “sêm sêm” với những kiến thức cơ bản mà những cái bằng “cấp cao” như Bác Sĩ Nha Sĩ đều phải học qua.
Nói về việc giúp cho con đường học vấn, thì có biết bao cái bằng Đại Học, Thạc Sĩ, và Tiến Sĩ, có khi đếm không xuể, mà những đứa con của những người “thợ dũa Việt Nam” đã mang về cho cha mẹ họ. Bằng Nail cũng giúp cho chính những người thợ nail hoàn thành ước mơ. Một cô thợ nail đã từng làm cho tôi trước đây chỉ học đến lớp 7 bên Việt Nam, vậy mà trong thời gian làm nail, cô ấy đã tranh thủ đi học lấy GED rồi vào college, cuối cùng hoàn thành cái bằng college AA cộng thêm Pharmacy Technician. Hiện giờ cô ấy đang làm việc cho một hãng thuốc tây, có bảo hiểm y tế “ngon lành” và cuối tuần vẫn tiếp tục “đi dũa” để kiếm thêm thu nhập.
Nói về kinh tế gia đình, có biết bao cái bằng Nail đã đem lại cho chủ nhân của nó mức lương cũng “trên sáu số như ai” (có mấy người chủ tiệm nail lớn tôi quen biết cũng nằm trong số này), nhà cửa khang trang, đi xe “xịn,” cuộc sống không thua gì những “đại gia,” và hơn thế nữa, còn “dài tay” giúp đỡ bà con nghèo, xây nhà cất cửa, mồ mả ông bà, giúp mở tiệm, nhà hàng, khách sạn cho cha mẹ anh em kinh doanh bên Việt Nam.
Nói về kinh tế quốc gia, bằng Nail đã có công rất lớn trong việc giúp phát triển nền kinh tế Hoa Kỳ. Hằng hà sa số cái bằng Nail đã “kéo” theo cái bằng “Business Owner” treo bên cạnh nó trong những tiệm Nail khang trang, sang trọng – hệ thống tiệm Nail dây chuyền trong Walmart là một ví dụ, và biết cơ man nào là tiệm Nail mọc ra khắp hang cùng ngõ hẻm trên nước Mỹ này, đã tạo công ăn việc làm cho hàng trăm nghìn người.
Theo hội Thẩm Mỹ Quốc Gia Hoa Kỳ (National Cosmetology Association), thì có đến 70% thợ nail tự làm chủ cho những tiệm nail của họ và ngành kinh doanh về Nail được đứng vào hạng thứ 7 trong cái “list” của hơn bốn nghìn doanh nghiệp trong quyển Phonebook màu vàng.
Còn nữa, bản thống kê mới nhất của tạp chí Nails, (Nails Magazine, 2011-12 Big Book) cho thấy trong tình hình kinh tế hiện nay “mặc dù ai ngả ai nghiêng, thuyền Nail vẫn vững như kiềng ba chân”. Mức doanh thu trong năm 2011-2012 của ngành Nail đã tăng trưởng một cách “rất ư là ngọan mục” với tổng doanh số 7.3 tỷ mỹ kim so với 6.6 tỷ trong năm 2010-11! Nếu chỉ nói về một chuyện “nhỏ như con thỏ” là làm người tiêu dùng tốt để “đẩy mạnh kinh tế thị trường” như cái việc mà tổng thống Mỹ Obama đã từng làm –biếu không dân chúng một số tiền để đi mua sắm nhằm đẩy mạnh kinh tế quốc gia – thì cái bằng Nail đã “đẻ” ra những người tiêu dùng thật là hết sẩy!
Những người thợ nail thường để dành tiền “tip” trong cả tuần và đến ngày nghỉ cuối tuần thì đi shopping. Tiền tip có khi lên đến nhiều trăm dollars/tuần. Họ mua sắm vô tư, thích gì mua nấy, không bao giờ tiếc tiền vì đó là số tiền thưởng, tiền nhờ sự tận tâm phục vụ tốt đối với khách hàng mà có. Tiền đó không cần phải “tính” vào thu nhập hàng ngày. Họ mua sắm đủ thứ, có thứ mua về rồi xài, có thứ mua rồi không xài. Nhưng mà họ không bao giờ đem bán “Garage Sale” như những người Mỹ “chánh hiệu con nai vàng” để số quần áo đồ dùng đó lại “du lịch vòng vòng” cho đến khi nó dừng chân ở một cái tiệm “Salvation Army” hoặc là “Goodwill” nào đó và lại được tiếp tục… xoay vòng! Rồi số hàng hóa đó cứ tồn tại mãi trên “đất của chú Sam,” như vậy thì rất ư là bất lợi cho cái sự phát triển kinh tế.
Những người thợ nail Việt thì lại khác, họ thường đóng gói số vật dụng và quần áo không dùng rồi đợi đến Tết Nguyên Đán là dịp mà ngành nail chậm lại, thì mang về Việt Nam để tặng bà con em cháu và những người nghèo trong xóm làng. Vậy là số hàng hóa đó biến mất khỏi thị trường Mỹ, “một đi không trở lại,” làm tăng thêm nhu cầu cho các nhà sản xuất trong niên khóa đến. Thiết nghĩ mỗi năm người thợ nail Việt về thăm “chùm khế ngọt” của họ ít nhất là một lần mà mỗi một người đi thì nước Mỹ “xuất khẩu” cả trăm cân Anh hàng hóa (vì các hãng máy bay chỉ cho phép họ mang có thế chứ nếu không thì bảo đảm sẽ là một con số khổng lồ hơn!), thì thử hỏi với con số hàng trăm nghìn thợ nail Việt về Việt Nam/năm, thì mức sản xuất sẽ tăng lên đến cỡ nào? Giá như có ai đó “trình tấu” tỉ mỉ cái công trạng này lên tòa Bạch Cung thì thế nào vị đệ nhất nhân Obama cũng trao tặng một cái bằng “Tưởng lục” cho cái bằng Nail, “kẻ đồng minh thầm lặng” của ông.
Đấy, “công sức” của cái bằng Nail nó tuyệt vời đến như thế! Mà đau lòng thay, hình như nhân loại đã lờ đi hoặc là không nhận ra tất cả những điều nó làm. Không ít người đã nhắc đến cái nghề Nail với một vẻ khinh khi, miệt thị, nào tiệm nail là chốn “hỗn độn” nào là “lộn xà ngầu” vân vân. Người Mỹ có câu, “People are different,” người ta không ai giống ai cả, còn người Việt Nam mình thì nói “Chín người mười ý” để chỉ ra sự khác biệt của mọi người. Công bình mà nói, có những chủ tiệm nail rất tệ, khó tính với người làm, dành hết khách “xịn” cho mình hoặc chia khách không công bình giữa thợ “phe mình” và thợ “không phải phe ta.” Nhưng cũng có rất nhiều người chủ biết điều và đối xử với thợ như bạn, hướng dẫn kỹ càng, chia xẻ ngọt bùi, thuyết phục khách ruột cho họ chịu để thợ làm khi tiệm gặp cảnh “sớm nắng chiều mưa” như người chủ tiệm tôi làm đầu tiên ngày xưa.
Thợ nail cũng vậy. Tôi cũng từng được xem những video clip “xấu” về thợ nail, và tôi cũng từng chứng kiến cảnh tranh khách hoặc là “nhiều chuyện” giữa các thợ nail khi tôi đi làm. Nhưng tôi cũng đã gặp rất nhiều người thợ dễ thương, phụ giúp nhau những khi khách vội, và thật tâm giúp đỡ, san sẻ kinh nghiệm cho những kẻ mới vào nghề. Cho nên đem bao nhiêu “tội lỗi” của những kẻ không biết điều mà đổ “lên đầu lên cổ” của tất cả những người có bằng Nail thì quả thật là oan ức cho họ và cho cái bằng Nail vô tội kia quá thể! Điều đó đã khiến cho nhiều chủ nhân của cái bằng Nail không dám đề cập đến sự thành công của mình là nhờ vào cái bằng “không có cấp” đó.
Và nếu như cái bằng Nail biết nói, nó cũng sẽ hỏi rằng tại sao những người chủ tiệm nail và thợ nail Việt đã gây ra “tai tiếng xấu” cho nó lại không tự hỏi lại bản thân họ thử xem tại con người hay tại cái bằng Nail làm cho nghề Nail của người Việt bị mang tai tiếng và bị người đời châm chọc và coi thường, quên mất đi giá trị của cái bằng Nail? Người Mỹ họ cũng có câu, “No job is a humble job,” không có cái nghề nào là thấp hèn cả.
Cũng theo thống kê của tạp chí Nails (Nails Magazine, 2011-12), cái tổng doanh thu thật là “đẹp mắt” 7.3 tỷ Mỹ kim của ngành nail năm 2011-12 là “công lớn” của cái bằng Nail từ 45% người Việt Nam và 33% từ người Mỹ da trắng “Caucasian,” và số còn lại thì của các sắc dân khác. Như vậy chứng tỏ ngành nail nhất định không phải là ngành “tồi tệ” trên xứ Cờ Hoa này!
Tóm lại, như người Việt Nam mình thường nói, “Uống nước nhớ nguồn,” chúng ta cũng nên nhớ đến những thành quả tốt đẹp mà cái bằng Nail mang lại cho bản thân, cho gia đình, và cho xã hội mà không nên nặng lời phê phán, vạch áo cho người xem “cái lưng của thợ nail Việt”–vì hình như thiên hạ không hề nghe thấy những bình phẩm “đau lòng” như thế về thợ nail Mỹ bao giờ–mà vô tình “gậy ông đập lưng ông,” rồi làm giảm đi cái giá trị của tất cả những chủ nhân của cái bằng Nail, trong đó có cả chính những người cùng nghề đã từng “phê phán” nó!
Xin hãy nghĩ rằng những cái “xã hội to đùng” với hàng trăm hàng nghìn nhân vật như một quốc gia hay là hội đồng Thượng viện Hạ viện của một nước, được lãnh đạo bỡi những vị “tai to mặt lớn” thế mà không tránh khỏi những bất đồng, tranh cãi, thậm chí có khi còn “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” với nhau nữa là huống chi cái “xã hội Nail” bé tí trong tiệm nail với một chủ và mấy thợ. Suy cho cùng, tất cả những thứ đó là sự đa dạng của cuộc đời, của cộng đồng, sự đa dạng đã hình thành cuộc sống thú vị của chúng ta mà chúng ta không thể nào “vất” nó đi được. Nó cũng giống như cái cộng đồng muôn màu muôn vẻ của một vườn hoa. Có những loài hoa với sắc màu rực rỡ làm cho người ta cảm thấy vui khi ngắm nó như hoa cúc, hoa hồng thì cũng có những loài hoa mà màu sắc của nó mang đến cho thiên hạ cảm giác buồn như cẩm chướng, thạch thảo; có những loài hoa hữu dụng như hoa sứ hoa nhài đã cho chúng ta những tách trà thơm, thì cũng có những loài hoa độc hại như hoa loa kèn hay hoa cẩm tú cầu mà chúng có thể làm hại ta nếu ta nếm phải. Nhưng nếu thiếu đi sự đa dạng đó, thì vườn hoa sẽ không còn là một vườn hoa đúng nghĩa nữa!
Cho nên, nếu mọi người ai làm chủ cái bằng Nail cũng đều cố gắng sống thân thiện, hòa đồng, chia xẻ ngọt bùi với nhau, nhất là không để lộ ra cái tính nết “không được đẹp” của mình trước mặt khách hàng để tự mình biến thành một loài hoa “độc hại” trong vườn hoa nghề nghiệp, và liên kết tạo thành một “thế giới Nail” lý tưởng rồi tất cả mọi người cùng nhau đi từ thành công đến đại thành công trên quê hương thứ hai này thì thiên hạ sẽ không còn ai dám xem thường, và họ sẽ nhắc đến cái bằng Nail của “thợ nail Việt” với sự kính trọng cũng như những bằng cấp khác.
Riêng đối với tôi, kẻ viết bài này, cái bằng Nail có giá trị “liên thành.” Cái bằng Nail của tôi nó có sự “liên quan mật thiết” đến bằng cấp của các con tôi, bằng cấp của các cháu tôi nơi quê nhà, và nó cũng có “dây mơ rễ má” đến đời sống của anh em, cô dì chú bác, và bà con nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Nhưng trên tất cả, cái bằng Nail đã cho tôi cơ hội ban ngày làm nail ban đêm đi học rồi “vươn tới” cái mảnh bằng đại học ở tuổi 62 sau mười năm cùng với “người dưng khác họ” của tôi làm chủ một cái tiệm nail chỉ bé bằng cái “đít con cóc ngồi,” để tôi “gác cây kiếm dũa” rồi cầm “cây kiếm bút” và bắt đầu một sự nghiệp mới, cái sự nghiệp mà tôi hằng ước mơ cả cuộc đời: Đi dạy học. Tuy rằng đã muộn, nhưng “muộn vẫn còn hơn không” như người Mỹ thường nói, “Its never too late,” nhất là, không bao giờ quá trễ đối với việc học hành.
Cho dù làm nail nay đã thành dĩ vãng, nhưng tôi vẫn “renew” cái bằng Nail và trang trọng treo nó bên cạnh cái bằng “mới nhất” của tôi. Và nếu ai có hỏi, tôi sẽ không một chút do dự mà trả lời rằng cái bằng Nail là một trong những bằng cấp rất quan trọng của tôi.
Phương Hoa
The Following User Says Thank You to wonderful For This Useful Post:
Anh Ba Râu là bạn cố cựu thuở ly hương rồi tha phương của tui ở cái đất Footscray, Melbourne, Úc Châu nầy đây. Dẫu là dân Nam Kỳ rặt ri, ảnh lại đi bán phở, món ruột của người Bắc để kiếm cơm. Anh phải bán cơm tấm, hủ tiếu mì hay bò vò viên mới đúng chớ?! Sao tréo cẳng ngỗng vậy anh?
Thì ảnh cười hè hè, trả lời: À! Bán phở là nghề cha truyền con nối của con vợ tui. Ông bà nhạc của tui bế nó từ Hải Phòng theo tàu há mồm vào Nam, năm 54. Mới đầu ở Ngã Ba Ông Tạ. Nhưng khu đó toàn là Bắc Kỳ di cư không hè! Ai cũng biết nấu phở. Có người nấu còn ngon hơn mình. Mở tiệm phở ở Ngã Ba ông Tạ ai thèm ăn? Vậy là nhà em mở tiệm phở ở vùng Tân Ðịnh. Dân Tân Ðịnh đa phần làm công chức. Ðời sống trung lưu, có tiền. Sáng ăn hủ tiếu, mì riết ngán; họ đổi qua ăn phở nên mình sống được và sống khỏe!
Còn ông Ngoại tui là điền chủ miệt Cái Bè, Mỹ Tho. Hồi 9 năm (1945-1954), Việt Minh dậy, tụi nó lấy đất điền. Lại còn giết ông Ngoại của tui. Nên Tía Má tui sợ quá phải bỏ nhà cửa; bồng bế anh em tui chạy tuốt lên cái đất Sài Gòn mà tị nạn CS.
Chạy cũng không thoát! Sau 75, CS Bắc Việt vào. Tiệm phở nhà tui nhỏ! Lính của Ðỗ Mười không bắt vô công tư hợp doanh. Nhưng khổ cái là: bữa nay thằng Bí thơ, mai thằng Chủ tịch, mốt thì tới thằng Công an Khu vực tới ăn chực. Rồi đóng góp quỹ bồi dưỡng an ninh tổ quốc, tức bọn Công an. Quỹ dân phòng của bọn Phường đội..
Dân thì mạt. Khách ăn Phở không nhiều như xưa nữa. Bán ế riết. Chịu hết xiết! Tui bàn với con vợ tui sang tiệm phở. Bán nhà luôn cho đám bà con của nó từ ngoài Bắc tràn vô đất Sài Gòn đông như ruồi. Vợ chồng gom đâu được hơn chục cây vàng; bèn bồng bế thằng Tèo, thằng Tí, hai đứa con tui, vượt biển.
Qua tới đây, thằng Tèo, thông minh giống tui, siêng học! Nó học tới Tiến sĩ rồi đi dạy Ðại học Melbourne.
Còn bà xã anh, chuyện chữ nghĩa bả hổng có ham. Bả ham phim tập Hàn quốc! Thằng Tí giống hịt Mẹ, nó nói: “Anh Tèo học đến mặt mày xanh xao vàng võ. Học đến kiếng cận thị dày cui, cả chục độ. Nặng trịch, đeo thiếu điều gãy sóng mũi. Cuối cùng có tiếng mà không có miếng. Lương Giáo sư Ðại học nghe oách thiệt nhưng năm kiếm được 200 ngàn đô Úc là đụng la phông. Chi bằng con theo nghề của Mẹ. Con đi bán phở. Năm con kiếm nửa triệu đô là chuyện nhỏ! Con cần miếng hơn cần tiếng!” (Thiệt cái thằng ở Úc mà nó thực dụng như Mỹ!)
“Cái còn vướng mắc là phải có người coi tủ tiền. Không thể giao trứng cho ác được. Nó ăn cắp ngày vài chục đô thôi là Tía mình cũng chết. Cốc mò cò xơi! Tía ở không đi nhậu làm gì? Mẹ cằn nhằn, cửi nhửi mãi! Nhà như cái địa ngục. Tía cứ bắt Mẹ làm chúa ngục hoài đâu có được! Ra ngồi thu tiền cho con! Con trả cho Tía ngày 100 đô. 9 giờ tối đóng cửa tiệm, nồi súp còn xí quách. Tía rủ bạn già, ai chơi được, đến nhậu thoải mái!”
“Nhưng Tía mầy chỉ biết tiếng Em! Tía đâu biết tiếng Anh.” “Ngồi thâu tiền cần gì biết tiếng Anh! Biết hai tiếng là đủ. Một là ‘ten đô la’ (ten dollars), giá tô phở. Hai là: ‘Thánh kiu’ (thank you). Phẻ re như con bò kéo xe thì Tía còn lo gì?”
Vậy là dòng đời của anh Ba Râu êm đềm trôi chảy như dòng kinh Nhiêu Lộc, Thị Nghè của quê nhà năm cũ. Mỗi tuần một lần, lúc 9 giờ tối, tiệm đóng cửa, có chuyện gì vui, ảnh hú tui đem hai cái lỗ tai ra để nghe ảnh chia vui. Có chuyện gì buồn, anh cũng hú tui đến để trải lòng tâm sự. Tui được nhậu chùa, không tốn tiền nhà! Nên con vợ tui cũng không có càm ràm gì ráo trọi.
Tất cả những ngày vàng son đó đột nhiên rã bèn như vàng mã mắc mưa. Cũng tại con ‘virus’ COVID-19 xuất phát từ Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc bên Tàu mà ra.
Bảo Huân
o O o
Nửa đêm tối thứ Ba, ngày 27, tháng Bảy vừa qua, sau hai tuần cô lập, nội bất xuất ngoại bất nhập, chánh phủ cho tiểu bang Victoria he hé mở cửa ra.
Tối thứ Tư, anh Ba Râu gọi tui ra quán nhậu chơi. Vì hai tuần lễ nằm nhà, ảnh cũng nhớ bạn hiền.
Lúc tui vác cái miệng tới, ảnh đóng cửa quán, tắt bớt đèn, cho đỡ tốn điện. Ảnh bưng ra một thau xí quách bự chà bá. Tui khui chai rượu đỏ giá 10 đô .
Mừng ngày tương ngộ, tui không thấy ảnh cười vui giựt giựt hai hàm râu cá chốt như xưa! Chỉ nghe tiếng ảnh thở than như cọng nhang tàn thắp khuya.
“Cô lập 5 lần rồi và lần nầy không phải là lần cuối đâu!” Nghe ảnh nói, tui cũng buồn trong tấc dạ.
“Tình hình dịch bịnh COVID-19 do biến thể Delta lây lan rất nhanh nầy làm thủ phủ Sydney và Sài Gòn găng lắm! Từ hải ngoại, nghe tiếng kêu cứu khẩn thiết của bà con ở quê nhà đang chông chênh trên bờ vực, đang rơi vào nạn đói như năm 1945! “Anh ráng cứu em!”.
Sức mình thì có hạn! Dẫu là sỏi đá nghe tiếng khóc bi ai như vậy hỏi lòng ai mà không tan chảy?”
“Anh sẽ thấy Sài Gòn sẽ xảy ra biến loạn vào những ngày sắp tới y chang như ngày 30 tháng Tư lúc CS Bắc Việt chiếm được Sài Gòn!”
o O o
Tui bèn hỏi anh Ba Râu nghĩ sao khi hơn cả chục ngàn người Úc biểu tình ở Sydney và Melbourne hôm thứ Bảy rồi để chống lịnh cô lập của chánh phủ tiểu bang.
Anh Ba Râu từ tốn trả lời: “Dân Úc xưa giờ hiền hòa, tuân theo luật pháp. Mấy lần bị cô lập trước, họ đâu có quậy quạng gì đâu? Nhưng cứ cô lập hoài! Chịu hết nổi! Tức nước phải vỡ bờ!”
“Một mặt, tui không ủng hộ việc tụ tập đông người! Vì cả trăm người Úc bị nhiễm ‘virus’ mỗi ngày. Mặt khác, tui cũng hiểu tại sao họ lại tức giận đến thế!
Nếu anh làm ăn cò con như: bán phở, bán hủ tiếu, bán bánh tiêu, bánh bò… bán lắt nhắt, hầm bà lằng xắng cấu làm cần câu cơm thì anh sẽ thông cảm cho họ! Nào là tiền mướn ‘shop’, tiền điện, tiền nước, tiền ga, tiền cáo sồ (Council rate). Tất cả phải chi ra. Mà không thu vô được cắc nào!
Melbourne cứ mở vài tháng lại đóng sập! Rồi mở rồi đóng! Làm nền kinh tế như bị mắc kinh phong. Làm riết, họ bị lâm vào vòng cùng quẫn, sát bên bờ khánh tận. Nghe tin tiểu bang Victoria lại bị cô lập lần thứ 5, những người Mẹ, người Chị đi làm kiếm sữa về cho con, kiếm cơm về cho Má, khóc nức nở trước ống kính truyền hình! Những người Mẹ, người Chị sớm hôm tần tảo đó, họ không có IQ thấp; họ không có ngu như bị một số người chửi bới họ đâu anh! Họ dám tụ tập biểu tình trong lúc dịch bịnh tràn lan là vì họ đã bị ví vào bước đường cùng. Nhìn nét bi thương đó, lòng tui đau xót lắm!
“Còn tiền trợ cấp của chánh phủ cho anh nghỉ ở nhà chơi chi anh?” Tui hỏi. Anh trả lời hơi lớn giọng làm tui giựt mình, thiếu điều té ghế: “Tiền chánh phủ Liên bang trợ cấp chỉ đủ ăn KFC, Hungry Jack’s hay McDonald’s…”
Tui vuốt đuôi cho anh hạ hỏa: “Thế giới sửng sốt nhìn mà không biết Úc đang làm cái giống gì?!” “Tại sao chánh phủ tiểu bang cứ hết đóng rồi mở! Mở rồi đóng! Như mắc bịnh cà lăm vậy?”
“Giờ làm sao mình ra khỏi cánh rừng nầy?”
Anh Ba Râu như một chuyên gia thứ thiệt dù không có bằng cấp gì ráo trả lời như đinh đóng cột: “Chích ngừa! Chích ngừa! Và chích ngừa!” Bằng chích ngừa cứ ầu ơ ví dầu như vầy nước Úc đóng mở cà lăm tới tận sang năm.
Các nước Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha… đã từng bị cô lập như Úc nhưng nhờ dân chích ngừa nhiều nên họ đã từ từ mở cửa.
Xin quý ông bà Thủ tướng, Thủ hiến của nước Úc nầy đây đừng ngủ mê, ngủ say, ke chảy tùm lum khoé miệng nữa!
Vòng nguyệt quế của giới truyền thông quốc tế trao cho vì thành công trong việc kiểm dịch COVID-19 hồi năm ngoái đã héo rũ hết rồi mấy Cha, mấy Má!
Đoàn Xuân Thu
The Following User Says Thank You to wonderful For This Useful Post:
Tôi có 3 đứa con, nhưng buồn thay, toàn là con gái! Còn cái nhà hàng xóm - cách nhà tôi mỗi cái dậu mồng tơi - cũng có 3 đứa, mà lại toàn con trai. Thật mỉa mai!
Biết tôi không có con trai, tôi buồn là vậy, thế mà cái lão hàng xóm vô tâm thi thoảng lại trêu ngươi, cho 3 thằng con lão xếp hàng đái vào dậu mồng tơi, chĩa thẳng chim sang nhà tôi. Chúng đái vào dậu mồng tơi mà như đang đái vào lòng tôi vậy: xót xa vô cùng! Hình ảnh cái "dậu mồng tơi xanh rờn" đã trở nên quá đỗi quen thuộc trong thơ, trong nhạc, nhưng cái dậu mồng tơi giữa nhà tôi và nhà hàng xóm đó thì là "dậu mồng tơi đen sì" do bị tưới quá nhiều đạm, phốt pho, kali và khoáng chất đậm đặc.
Có con trai đúng là sướng thật! Những ngày lễ tết, bố con trở thành bạn nhậu, nâng chén cà kê - chứ con gái, chúng nó cắm đầu hùng hục ăn, vừa ăn vừa lèo bèo: "Bố uống ít thôi! Ăn cơm, ăn thịt đi!".
Có con trai cũng rất tiện: Đi tắm quên quần sịp, gọi con trai nó mang cho, rồi mở toang cửa nhà tắm, tồng ngồng, hiên ngang đón lấy - chứ con gái thì phải nép sát vào tường, cửa hé tin hin, thò vài đầu ngón tay ra ngoài, rụt rè nhón lấy. Có con trai cũng yên tâm: trộm cướp vào nhà, mấy bố con nhảy ra đánh hội đồng - chứ con gái, vừa một mình mình kháng cự, vừa lo nếu mình gục, con gái mình sẽ bị chúng nó hiếp dâm.
Nói vậy thôi, chứ tôi và con gái cũng có một thứ có thể dùng chung, ấy là cái dao cạo râu. Hôm trước, tìm cái dao cạo râu mãi không thấy đâu, tôi cáu, quát um lên, thì đứa con gái lớn chạy từ trong buồng ra, cầm cái dao cạo trên tay, bảo: "Con trả bố đây!". Tôi nhìn chiếc dao cạo vẫn còn vương mấy sợi lông đen sì, quăn tít thì nhăn mặt hỏi:
- Mày vừa cạo cái gì đấy?
- Dạ! Con cạo lông nách thôi mà!
- Đúng là lông nách chứ?.
- Dạ đúng! Con thề! Là bố con, chẳng lẽ nó thề mình lại không tin, nhưng quả thực, tôi chưa bao giờ cạo râu mà thấy lòng hoang mang như thế.
Nhà toàn đàn bà con gái, nên cái dây phơi, dài từ đầu đến cuối sân, lúc nào cũng lủng lẳng toàn xì-líp với coóc-sê, hồng đỏ xanh vàng, đủ cả! Nhiều khi vội đi, không để ý, bị xì-líp nó đập vào mặt, coóc-sê nó quấn quanh đầu. Rồi những khi rầu rầu, bên ấm trà tầu, nhìn cái mớ xì-líp coóc-sê ấy phất phơ theo gió hiu hiu, hệt như những chiếc lá bàng già nua lay lắt trên những cành khô gầy guộc khẳng khiu trong buổi chiều đông giá rét. Buồn chẳng để đâu cho hết.
Chiều nay, tôi qua bên nhà lão hàng xóm chơi, tiện thể xin đoạn dây thép, về gia cố lại cái dây phơi (chắc treo nhiều xì-líp quá nên nó chuẩn bị đứt đến nơi). Vào nhà, tôi thấy lão hàng xóm một mình nằm rầu rĩ trên giường, mặt quay vào tường, rên hừ hừ, nghe rất đáng thương! Tôi hỏi sao thế, lão bảo bị cảm cúm mấy hôm nay, vợ lại vắng nhà, chả ai mua thuốc, nấu cháo cho ăn, nên mệt lả.
- Ông ốm mà vợ ông còn đi đâu? - Tôi hỏi bằng giọng đầy bức xúc.
- Vợ lên Hà Nội, chuộc xe cho thằng cả!
- Nó lại cắm à? Mới tuần trước thấy vợ ông lên chuộc rồi mà?
- Tuần trước là nó cắm để bắt trận Ngoại hạng Anh, tuần này, nó cắm để bắt trận C1!
- Thế bao giờ vợ ông về?
- Vợ tôi định về hôm nay, nhưng nghĩ đã là thứ 5 rồi, hai ba hôm nữa lại là cuối tuần, lại có giải Ngoại hạng Anh, nên ở lại luôn, đỡ mất công đi đi về về!
Tôi thở dài, nhìn quanh, rồi hỏi thế thằng con thứ hai nhà lão đâu, thì lão ngán ngẩm lắc đầu, bảo rằng thằng hai vừa về cạy tủ, vơ hết tiền của lão mang đi đá fò. Lão tiếc tiền lao tới, ôm chặt nó lại, nào ngờ, nó hất tay lão ra, túm lấy cổ áo lão, rồi giơ nắm đấm lên dọa. Lão điên tiết quá, quát to: "A! Thằng này láo! Mày định đánh cả bố mày hả? Đây! Bố đứng im đây! Mày có giỏi thì đánh đi!". Kể đến đó, lão dừng lại, nhăn nhó véo một miếng bông gòn, chấm chấm lên cái môi còn đương rướm máu, sưng vều, tím bầm như dái ch.ó.
- Thế thằng út nhà ông đâu?
- Nó đi cùng thằng hai rồi!
- Thằng út mới tí tuổi đầu, sao đã chơi được f.ò mà đi cùng?
- Nó đi theo xem thôi!
Đúng lúc này, có tiếng xe máy rú ga inh ỏi ngoài ngõ. Tôi hốt hoảng ngó cổ ra, thì thấy phải đến chín mười gã cởi trần, xăm trổ, ngồi trên bốn năm cái xe máy hùng hổ phóng vào: đứa vác dao, người cầm gậy, kẻ khiêng quan tài. Chúng vứt xe giữa sân, quẳng cái quan tài ngay trước cửa kêu cái "rầm", rồi quát tháo ầm ầm:
- Thằng con trai mày vay tiền của tao, giờ nó trốn biệt rồi! Mày giấu nó ở đâu, đưa ra đây mau, không tao chém chết cả nhà!
Tôi hoảng quá, mặt mũi tái nhợt, tay chân rụng rời. Thế nhưng lão hàng xóm thì chả có biểu hiện gì cả. Lão bình thản đi ra, đứng trước mặt bọn chúng, chắp tay trước ngực, rồi quỳ thụp xuống cạnh cái quan tài, giọng bi ai:
- Trăm sự nhờ các anh! Em cũng đang muốn tìm thằng con em để ch.ém ch.ết bà nó đi đây, mà tìm hoài không thấy! Giờ có các anh tìm và ch.ém nó giúp em thì tốt quá rồi! Em xin đa tạ! Ch.ém nó xong em cũng sẽ t.ự t.ử luôn! Đang lo không có tiền mua quan tài thì các anh lại mang đến cho! Đội ơn các anh quá!
Nói rồi, lão hàng xóm nhảy luôn vào quan tài, nằm duỗi dài. Mấy thằng cởi trần xăm trổ ngơ ngác nhìn nhau, rồi chúng lao tới chỗ quan tài, ra sức lôi lão hàng xóm ra. Nhưng lão hàng xóm chơi lầy, cứ bám chặt, nằm lì ở đó. Thấy thế, thằng cầm đầu của lũ xăm trổ mới tiến tới, chắp tay trước ngực, rồi quỳ thụp xuống cạnh cái quan tài, giọng bi ai:
- Em xin anh! Anh làm ơn ra ngoài giúp để bọn em còn vác quan tài đi nhà khác, kẻo tối không xong việc thì về đại ca bọn em ch.ém ch.ết ạ!
Khi ấy, lão hàng xóm mới chịu lồm cồm bò ra. Mấy thằng xăm trổ vừa nãy hung hăng là thế, giờ ngoan ngoãn, cum cúp như mèo, lầm lũi bỏ đi. Ấy vậy mà lũ đó vừa đi được một lúc thì đã lại nghe tiếng xe máy rú ga ngoài ngõ, tôi lại hốt hoảng quay ra: May quá, không phải bọn chúng, mà là hai thằng con trai lão hàng xóm vừa đi đá phò về. Tuy vậy, vẻ mặt hai đứa nó cũng hung hăng không kém lũ xăm trổ vừa rồi. Chúng vứt cái xe đổ cái "rầm" ngoài sân, hùng hổ chạy vào nhà. Thật kỳ lạ, lúc này, tôi lại rất bình thản, còn lão hàng xóm thì đâm ra cuống cuồng, hoảng loạn. Tôi hỏi sao vậy, lão bảo: "Bọn xăm trổ chỉ dọa thôi! Còn hai thằng này, chúng nó làm thật đấy!".
Quả đúng vậy! Lão hàng xóm vừa nói dứt lời thì hai thằng con lão đã xông tới, đè nghiến lão xuống giường, thằng ghì chân, thằng ấn cổ.
- Ông già! Biết điều thì nôn tiền ra!
- Mày vừa cạy tủ lấy hết rồi! Ở đâu nữa mà nôn?
- Ông tưởng tôi ng.u à? Trong tủ đó chỉ là vài đồng lẻ thôi! Tôi biết ông còn tiền! Mau nôn ra!
Lão hàng xóm bị ấn cổ thì hình như khó thở, mặt lão tím bầm. Rồi bất ngờ lão vùng lên, hất ngửa hai thằng con ra, cắm đầu chạy thẳng. Hai thằng con lão sau tích tắc ngỡ ngàng thì cũng lập tức chồm dậy, tiện tay vơ luôn cái gậy, hùng hục đuổi theo.
Còn lại mỗi mình, tôi chán quá, lững thững đi về. Vừa tới nhà, tôi đã nghe tiếng ai đó thều thào gọi tôi vọng ra từ gian buồng. Tôi lò dò bước vào: Thì ra là lão hàng xóm, lão đã may mắn cắt đuôi được hai thằng con, trốn vào trong đó, nằm bẹp dí chỗ góc buồng, như một con chó.
Tôi vội vàng bế lão lên giường. Mấy ngày ốm mệt, không ăn uống gì, bị đấm sưng mồm, lại vừa vẫy vùng, chạy thục mạng, nên có lẽ sức lão đã kiệt. Đứa con gái lớn nhà tôi, thấy quần áo lão bẩn, hôi hám quá, thì lột trần lão ra, lấy đồ của tôi cho lão mặc, rồi đem mớ quần áo bẩn của lão ra giếng giặt. Đứa con gái thứ hai chạy đi mua dầu thoa cho lão, đứa út xuống bếp bắc nồi, nấu vội cho lão bát cháo cầm hơi.
Đón bát cháo từ tay con bé út, lão run rẩy đưa lên miệng, húp soàm soạp một hơi hết sạch. Từ khóe mắt lão chảy ra hai hàng lệ long lanh. Tôi hỏi: "Sao thế? Cháo cay quá à?”, thì lão lắc đầu, bảo: "Không, cháo ngon! Chưa bao giờ được ăn bát cháo nào ngon như thế!".
Tôi nghe vậy thì mỉm cười, thong thả bước ra sân, gió nhè nhẹ, nắng lung linh, khiến những chiếc xì-líp, coóc-sê trên dây phơi như ánh lên, phấp phới, dập rình theo gió rung rinh.
Chưa bao giờ thấy mớ xì-líp, coóc-sê nào đáng yêu như thế.
The Following User Says Thank You to wonderful For This Useful Post:
"Truyện ngắn : Đám Cưới, Khi Thầy Tu Cưới Vợ.
Nói tới đám cưới thì người ta sẽ nghĩ ngay đến hai bên gia đình, một bên là đàng trai và một bên là đàng gái, gia tộc đàng trai sẽ qua đàng gái rước dâu và gia tộc nhà gái phải đưa con gái về nhà chồng. Nhưng ở đây, cái đám cưới này không có chuyện rước dâu, không có chuyện "cô dâu từ giã mẹ cha, bước đi một bước lệ sa mấy hàng" như những cô dâu khác mà vẫn ở nguyên nhà cha mẹ ruột như từ khi mới lọt lòng mẹ chào đời. Ngược lại chàng rể tạm thời phải theo về nhà vợ ở rể bởi vì chưa tìm đâu được một túp lều lý tưởng hay một mái thảo trang thơ mộng ưng ý để rước nàng "về dinh" như bao chàng rể trên đời.
Chuyện là như vầy. Chàng rể tên Nguyên, nguyên là một thầy tu xuất, một môn đệ Ki tô đã đánh mất niềm tin phụng vụ đang tập tễnh làm quen với tục lụy đời trần. Vốn liếng vào đời chỉ có mớ văn bằng chữ nghĩa còn tiền của thì một xu dính túi cũng không bởi vì thầy đã nguyện làm tôi tớ Chúa sống khó nghèo từ bao nhiêu năm qua. Sở dĩ thầy hòan tục là vì căn tu thầy đã hết hay nói đúng hơn ở trong chăn mới biết chăn có rận. Thiên hạ bên ngòai, có lẽ ai cũng tưởng rằng tu viện, giáo đường là nơi truyền bá đức tin, là nền tảng căn bản của đạo đức, bác ái và công bằng nhưng có biết đâu thực tế bên trong thì lắm chuyện phũ phàng, chướng tai gai mắt chỉ vì những kẻ bề trên đã lạm quyền ỷ thế bất công trong cách hành xử đối đãi với sư huynh đệ dưới trướng. Thầy đã quá bất mãn chán chường nên quyết định dẹp quách chiếc áo nhà tu nhập cuộc với đời thường cưới vợ cho xong. Thầy có thể hy sinh dâng cả cuộc đời mình cho Chúa nhưng không cam lòng bị hiếp đáp triền miên tháng này qua năm nọ. Thà làm người thế gian sống cuộc đời bình thường như bao nhiêu người trần tục khác, miễn sao lương thiện ngay lành giữ trọn mười điều răn là đã đẹp ý Chúa chớ cần chi khóac áo tu hành sớm kinh chiều kệ nhưng trong bụng một bồ dao găm luôn nghĩ cách hãm hại người, miệng nói giáo lý giáo điều nhưng lòng dạ hẹp hòi thâm độc như rắn rít.
Cô dâu là Kim Châu, con gái lớn của ông bà tài phú nhà máy lúa gạo người Tiều minh hương. Cô không thuộc lọai người đẹp, chỉ được cái là mặt mày sáng láng trắng trẻo dễ thương nên đã làm xao xuyến trái tim côi của ông thầy dòng xưa nay vốn chỉ biết một lòng yêu mến trung thành thờ phượng Chúa. Cô gặp thầy rất ngẫu nhiên như định mệnh dun rủi khi vào học trường dòng nam bốn năm về trước. Lúc ấy thầy dạy môn sinh ngữ Pháp lớp cô. Suốt niên học, mỗi giờ Pháp văn, người trên bục giảng, kẻ dưới bàn học, cả hai thường bắt gặp ánh mắt trìu mến len lén gởi trao nhau. Lời tuy chưa tỏ nhưng lòng đã nghe cảm giác thân quen từ kiếp nào để rồi kịp lúc tan trường thầy đã thề ước chuyện trăm năm, hẹn vài năm sau sẽ trở về xin cưới cô làm vợ. Chuyện tình lúc bắt đầu tưởng đã ngang trái bất thành bởi đạo đời ngăn cách nhưng kết cuộc định mệnh đã cho hai người một happy ending bằng một cái đám cưới "một chiều" không giống ai thời bấy giờ.
Lúc rời khỏi nhà dòng, thầy Nguyên như một vị quan liêm chính hồi hưu không của cải, không cửa không nhà, chỉ võn vẹn một túi xách tay đựng vài bộ quần áo với mấy quyển sách học làm người đắc nhân tâm (có lẽ vì trong nhà dòng thầy chỉ biết nếm mùi thất nhân tâm) và 5000 đồng (thuở đó lương giáo sư cấp hai khỏang ba mươi lăm ngàn đồng một tháng) của bề trên ban cho làm vốn vào đời. Trong lúc thất sở thân sơ đó, thầy phải tá túc nhà bà chị cả vài tuần đầu trong thời gian chờ nộp đơn xin về quê vợ lập nghiệp, cái nghề dạy học cố hữu của thầy nhưng phen này đi dạy nhứt định là lãnh lương hẳn hoi chớ nếu "dạy chùa" thì lấy gì mà nuôi sống bản thân và đồng thời còn phải dành dụm để sắm sửa cưới vợ mua nhà.
Khi ấy là đang mùa nghỉ hè, nếu như còn trong dòng thì thường khi học trò bãi trường, các thầy tu phải đi cấm phòng, cầu nguyện, tịnh tâm ở một nơi nào đó tùy bề trên giám tỉnh chỉ định cũng kiểu như những cao thủ võ lâm tới thời kỳ nhập thất bế môn luyện công vậy. Nhưng bây giờ thì thầy đã hòan tòan tự tại thong dong như chim được xổ lồng, như cá được thả về sông mặc tình bay lượn theo ý muốn, không còn lo sợ bề trên áp bức, bề dưới sàm tấu thưa gởi gì nữa. Thầy xuống vườn trái cây mấy chục mẫu của bà chị ở Cái Mơn nghỉ ngơi một tuần, trèo lên cây hái trái chín ăn cho thỏa thích, họăc cùng mấy đứa cháu đi câu tôm tát đìa bắt cá, hít thở không khí tự do bỏ những khi bị gò bó buộc mình tuân theo những quy luật khắt khe quá đáng của nhà dòng. Vườn nhà bà chị trồng đủ lọai trái ngon giống tốt, cam, dâu, xòai, mít, sầu riêng, măng cụt, bòn bon, chôm chôm nhãn. Mỗi mùa trái cây thu họach mấy chục triệu đồng đến nỗi không dám gởi ngân hàng mà phải dấu vào những hộp biscuits treo trên ngọn cây dừa.
Kế đó thầy xuống Sóc Trăng thăm cô bồ và luôn tiện tìm nhà trọ để mai mốt khi về đây dạy mới có nơi ăn chốn ở. Thầy tìm đến dì Sáu, bà bếp nấu ăn trong trường dòng khi xưa nhờ tìm một nơi trú ngụ. Dì Sáu giới thiệu thầy với dì Ba, chị của dì. Dì Ba có hai người con đã lớn, con gái thì đã theo chồng ra riêng, còn con trai đi lính đóng quân ở tận Bảo Lộc nên nhà cửa rộng rãi dư phòng. Có người xin ở trọ, kiếm thêm được chút lợi tức, dì Ba vui vẻ chấp thuận ngay vô điều kiện.
Tưởng rằng mọi việc sẽ suông sẻ diễn tiến theo dự tính của thầy, nào ngờ đâu thầy dọn vào ở nhà dì Ba chưa nóng chỗ nằm thì một buổi chiều dì Ba nhận được tin con tử trận. Dì vật vã khóc lóc thảm thiết và dị đoan cho rằng chính thầy Nguyên đã đem cái xui xẻo đến cho gia đình dì khiến con dì mất mạng. Thật là phi lý hoang đường! Con người sinh ra ai cũng có sẵn số mệnh đặt để, một khi đã tới số thì cho dù có trốn trong nhà cũng nhào lăn ra chết bất đắc kỳ tử huống chi mang thân làm lính vào sanh ra tử nơi chiến trường đạn lạc tên bay. Súng đạn đâu có mắt có tròng, trúng ai thì người đó nấy chịu. Cái chết của con dì đâu có mắc mớ tới thầy mà chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng dì Ba đã nghĩ vậy thì thầy cũng không còn lòng dạ nào ở lại nhà dì thêm nữa.
Cạnh nhà dì Ba là nhà một anh chàng thiếu úy văn phòng. Anh thiếu úy này tên Lộc còn độc thân, con một gia đình khá giả quê quán Cần Thơ nhưng vì nhiệm sở ở Sóc Trăng nên phải đóng đô ở Sóc Trăng. Biết tình cảnh của thầy Nguyên, Lộc hào hiệp rủ qua ở chung cho có bạn. Hai tuần sau khi thầy Nguyên dọn vào, nhân được ngày phép cuối tuần, Lộc rủ thầy thứ bảy tới đi tắm biển ở bãi Mỏ Ó (bãi biển có hình dạng mỏ ó) với nhóm bạn của anh ta. Thầy Nguyên đã nhận lời, hẹn sau khi đi Saigon bổ túc hồ sơ hõan dịch xong trong vòng ba ngày sẽ về đi chơi với Lộc. Nhưng không hiểu số mạng khiến xui thế nào mà thay vì nghỉ phép ngày thứ bảy như đã nói với thầy, Lộc lại nghỉ ngày thứ năm trong lúc thầy còn đang lo giấy tờ ở Saigon. Do vậy, Lộc và mấy người bạn gồm ba anh sinh viên và một ông thầy chùa trẻ kéo nhau đi tắm biển trước ngày dự định.
Chiều tối thứ sáu, thầy Nguyên trở về từ Sàigòn, về tới nhà thầy muốn mở cửa vào tắm rửa nghỉ ngơi nhưng không mở được. Lấy làm lạ, thầy chạy qua tìm bà hàng xóm kế bên dọ hỏi:
- Bác Hai à, làm ơn cho tôi hỏi thăm. Anh Lộc có nhắn gì với bác không? Sao tôi mở cửa nhà không được, hình như có ai đã thay ổ khóa rồi thì phải?
Bác Hai rầu rầu nói :
- Cậu mới ở Saigon về nên không hay thiếu úy Lộc đã chết rồi. Sáng hôm qua cậu ta ra cửa còn gặp tôi chào vui vẻ nói bữa nay được nghỉ phép đi tắm biển xả hơi một bữa. Vậy mà hồi sáng này, người nhà của cậu ta đã tới lấy hết đồ đạc đem về Cần Thơ và đổi ổ khóa nhà. Tôi chạy qua hỏi có chuyện gì thì họ cho tôi biết cậu Lộc đã bị Việt cộng phục kích bắn chết hôm qua ngòai bãi biển Mỏ Ó. Thiệt không ngờ, tội nghiệp hết sức! Còn trẻ quá mà.!
Thầy Nguyên không tin nổi những gì mình nghe, hỏi lại như hỏi chính mình:
- Có thật không bác? Anh Lộc có hẹn với tôi ngày mai mới đi biển mà sao lại bỏ đi trước như vậy chớ.
Bác Hai thở dài lắc đầu bảo :
- Phần số con người biết sao mà nói cậu ơi! Nếu biết trước thì cậu ấy đã không chết. Chắc nhờ mạng cậu lớn nên trời xui đất khiến Lộc thất hẹn với cậu đi trước để cậu khỏi chết chung đó mà, hay đúng hơn là số của cậu Lộc chỉ hưởng dương tới đây thôi. Người nhà đã đem xác cậu ấy về quê chờ chôn cất. Cậu có muốn đi thăm cậu ấy lần cuối thì ngày mai cũng còn kịp. Thôi, tối nay nếu cậu không vào nhà được thì qua ở tạm nhà tôi đi rồi sáng mai hãy tính.
Sáng sớm hôm sau, sau khi cám ơn lòng tốt của bác Hai cho ngủ nhờ qua đêm, thầy Nguyên vội vã đi Cần Thơ tìm đến gia đình Lộc chia buồn và hỏi thăm tự sự. Người nhà của Lộc kể lại rằng hôm sáng thứ năm Lộc cùng ba anh bạn sinh viên và một ông thầy chùa đi chơi biển Mỏ Ó. Sau khi tắm xong nhảy lên xe jeep đề máy định về thì máy xe không nổ vì bình xăng đã bị ai đổ cát vào. Liền khi ấy Việt cộng núp gần đâu đó trong những lùm cây rậm rạp bắn ra hàng lọat súng xối xả khiến ba người chết liền tại chỗ là Lộc, một anh sinh viên và một ông thầy chùa . Còn hai anh bạn kia may mắn nhanh chân phóng xuống biển lội trối chết mới thóat thân còn mạng trở về báo tin cho gia đình Lộc.
Thầy Nguyên bùi ngùi đến trước linh cữu của Lộc thắp lên ba nén nhang khấn nguyện cho vong linh người bạn vắn số sớm được siêu thóat yên nghỉ, người bạn tuy chỉ sơ giao nhưng rất phóng khoáng nhiệt tình đã giúp đỡ thầy trong cơn lỡ bước bơ vơ không nơi tá túc. Hình ảnh trẻ trung với nụ cười ngạo đời của Lộc còn hiển hiện rành rành trước mắt như mới hôm qua mà giờ đây đã âm dương cách biệt khiến thầy không khỏi xúc động bi ai. Quả thật vô thường!
Thôi thế thì anh trước tôi sau
Lẽ tử sinh ai tránh được nào
Anh đi trước có tôi đưa tiễn
Tôi đi sau ai tiễn ai chào
Thế là thầy Nguyên lại trở về tình trạng cù bơ cù bấc không cửa không nhà. Thầy kể lại mọi việc với gia đình cô Châu. Ba má cô Châu nghe vậy mới bàn tính với nhau hay là cho thầy về ở chung trong nhà mình cho rồi, chớ mà cứ để thầy đi lang bang hết chỗ này đến chỗ nọ, đi tới đâu người ta chết tới đó, đành rằng là do số mạng nhưng rủi thay lại nhè lúc thầy đang ở trọ trong nhà họ, nếu đồn ra ngòai thì chắc sẽ mang tiếng là sát chủ chớ chẳng chơi.
Riêng cô Châu, cô cũng nơm nớp lo sợ người yêu của cô nếu cứ đi lòng vòng bên ngòai, nay tắp nhà này mai đậu nhà kia, với bản chất thật thà dễ tin, không biết gì là cạm bẫy cuộc đời, biết đâu có ngày thầy bị người ta "vớt" hay gài cho một cái bầu như anh chàng Điệp trong chuyện tình Lan và Điệp thì cô chỉ có nước đi tu như Lan mà thôi. Thế nên, thấy ba má dễ dãi cô mạnh dạn nói tọac ra nỗi lo âu của mình, đôn đốc ba má cô đem thầy về "cất" ở nhà mình luôn cho chắc ăn. Nhưng mà thầy với cô chưa có lễ nghi gì chính thức ra mắt bà con chòm xóm, nếu để thầy khơi khơi vào nhà thì e rằng sẽ bị thiên hạ đàm tiếu dị nghị. Do đó, ba má cô mới bảo thầy về quê mời người lớn trong gia đình tới làm lễ hỏi ra mắt bà con ở đây chiếu lệ trước rồi từ từ mới coi ngày lành tháng tốt làm đám cưới cho danh chánh ngôn thuận sống chung nhà.
Trong lúc thầy Nguyên về quê mời người nhà qua hỏi vợ thì ở đây ba má cô Châu lo đặt thèo lèo, bánh mứt và chuẩn bị sẵn những lễ vật mà đáng lẽ phía nhà trai cần phải "đi mâm" mang qua nhà gái cầu hôn. Nhưng vì biết chắc trăm phần trăm là thầy Nguyên không thể nào hiểu nổi ba cái tập tục rình rang phiền phức này nên hai ông bà phải sắp xếp dàn dựng mọi thứ giùm cho thầy. Đồng thời hai ông bà cũng đi mời bà con thân tộc và xóm giềng chung quanh đến dự lễ hỏi của con gái mình. Chỉ là một tiệc trà đơn sơ, bánh bao xíu mại, cà phê sữa nóng để trình làng chàng rể tương lai với họ hàng là thầy Nguyên có thể ung dung xách đồ đạc dọn vào ở chung một nhà mà không sợ thiên hạ dèm pha.
Và cũng sau đám hỏi thì ngày tựu trường cũng đã tới để thầy từ đây có thể bắt đầu tạo lập cuộc đời của riêng mình. Với mớ văn bằng và kinh nghiệm sư phạm bao năm, thầy tin rằng mình sẽ làm nên một tương lai tươi sáng, hạnh phúc hơn sau những tháng năm dài dấn thân phụng vụ cho một lý tưởng thiêng liêng mà tới đây thầy nhận thấy đã đủ để chuyển hướng đời. Hai hôm đầu đi dạy, vì chưa đủ tiền mua xe nên thầy phải đi bộ hoặc nếu nhằm giờ dạy ở trường quận thì phải đón xe lam. Ông già vợ tương lai thấy vậy "coi không được" nên mới mua liền cho thầy một chiếc Honda 50 cc làm chân để thầy chạy tới chạy lui cho khỏi tủi thân với đồng nghiệp bạn bè. Nhờ vậy mà thầy mới có thể đi dạy hai ba trường kịp giờ trong cùng một ngày. Thời gian đó, cũng nhờ ăn ở trong nhà vợ sắp cưới, tiền lương mỗi tháng của thầy dư trọn vẹn không mẻ một xu nào cho nên mỗi tháng thầy mua một cây vàng để lên. Tích trữ thứ gì khác thì cũng có thể hư hao phá giá chớ vàng y thì bốn mùa tứ quý đều thích dụng, bất cứ lúc nào cũng dễ mua dễ bán. Tính như thầy vậy thiệt là chắc cú an tòan.
Rồi một ngày đẹp trời, gia đình cô Châu tổ chức lễ cưới cho hai người. Dù đám cưới này không có rước dâu nhưng ông cậu bà con đang trấn nhiệm chức vụ tỉnh trưởng Sóc Trăng thời bấy giờ cũng hào sảng cho mượn chiếc xe riêng của ông làm xe hoa đưa cô dâu chú rể đến nhà thờ. Sau nghi thức hôn phối ở nhà thờ, về nhà là tới cái màn nhóm họ đàng gái, đãi đằng bà con chị em phía cô dâu. Tiếng là nhóm họ đàng gái chớ thật ra là hai đàng nhập một bởi vì chú rể đã ở trọ trong nhà hằng mấy tháng. Nhà cô dâu hôm nay được che lều dựng rạp treo đèn kết hoa và đặt bàn ghế ra tận giữa đường lộ để bà con khách khứa có đủ chỗ ngồi ăn uống chung vui. Bữa tiệc nhóm họ đêm đó có nhiều món lai rai như bì cuốn, bún chả giò, bánh mì cà ri, cháo gà xé phay do mấy chị em bạn dì giúp làm rất hợp khẩu mấy ông bợm nhậu, nhứt là những ông đồng nghiệp của thầy Nguyên, uống sao mà như hũ chìm. Nhà ba má cô Châu ở cạnh bên Ty cảnh sát nên mấy ông cảnh sát trực đêm hôm đó cũng được chủ nhà chơi đẹp mời nhấm nháp vài ly hả hê phê đời.
Và ngày kế tiếp hôn lễ mới chính thức cử hành trong gia tộc. Thầy Nguyên rời nhà đi tu từ khi còn rất nhỏ nên đã bị người nhà lãng quên theo thời gian, cả đời không ai đếm xỉa tới thầy đang làm gì, ở đâu hay sống ra sao. Anh chị em thầy cộng lại có hơn một tá nhưng chẳng ai bận tâm tới chuyện thầy ra dòng cưới vợ. Vì thế bên nhà gái phải chủ trì mọi việc từ A tới Z, từ đôi bông tai, chiếc nhẫn cưới cho đến sính lễ mâm quà, nhứt nhứt đều do đàng gái sắp đặt. Thiệt tình! cũng vì thông cảm cho hòan cảnh đon chiếc của thầy, có người nhà như không, không ai lo giúp chỉ dẫn cho nên bên nhà gái phải gánh hết trong việc hợp thức hóa cuộc chung sống cho con mình. Mình tốt với rể thì sau này nó sẽ tốt lại với con mình chớ có lỗ lã gì đâu. Chuyện vợ chồng là chuyện trăm năm, quan trọng là tình nghĩa một đời chớ sá gì vật chất chi ly trước mắt.
Bà dì và má cô Châu cũng khéo tính, đã mượn nhà một bà hàng xóm thân tình làm nhà đàng trai để từ đó bưng mâm qua nhà đàng gái chiếu lệ. Lễ vật cả thảy là tám mâm gồm có heo sữa quay, trầu cau, bốn chai rượu, bốn hộp trà, hai mâm trái cây, một mâm bánh bía, một mâm biscuits hiệu Lu của Pháp. Đàng gái nhận lễ vật và mời đàng trai (cũng do đàng gái đạo diễn) vào nhà, lên đèn cưới rồi chào ra mắt bà con từ già tới trẻ cho dù đã biết rành nhau quá xá nhưng cũng phải diễn tuồng cho đủ lễ bởi vì:
Thói đời hay chuộng bề ngòai
Làm cho đẹp mặt đẹp mày mới cam
Làm lễ xong, cả đám kéo nhau đến nhà hàng dự tiệc. Ba cô Châu là người làm lúa gạo nên đa số khách mời là bạn làm ăn. Bên thầy Nguyên thì chỉ cần một bàn là đủ cho các thầy giáo chung vui quắc cần câu với thầy. Ai uống rượu uống bia gì thì uống, còn thầy chỉ uống nước ngọt hay nước lã cầm cự chớ xưa nay chưa từng uống giọt rượu hay biết đến điếu thuốc bao giờ. Người thì nói cô dâu có phước gặp được người chồng có học thức lại đàng hòang chân chỉ không biết rượu chè bài bạc hút sách chi chi. Người thì cho là chàng rể tốt số cưới được con nhà tử tế hiền lành nề nếp. Và mọi người đều xúm nhau cụng ly chúc phúc cho đôi tân nương tân lang. Ôi thôi! Biết bao là lời tán tụng đẹp đẽ ngọt ngào đầu môi không ngớt. Tốt số hoặc có phước hay không thì phải về lâu về dài mới biết chớ bây giờ trước mắt mọi người thì hẳn nhiên là một họat cảnh hạnh phúc nhứt trong các màn kịch của cuộc đời.
Hôn nhân là một cuộc hành trình lâu dài suốt kiếp mà đám cưới chỉ là bước khởi đầu cho cuộc hành trình đó. Và rủi thay, "hôn nhân là mồ chôn ái tình", là phản diện của tình yêu. Sau ngày cưới, sau tuần trăng mật, chung sống bên nhau hằng ngày mới biết chân tướng của nhau. Đường dài thăm thẳm, tương lai ai biết được, là một con đường được trải thảm hoa êm ả đẹp như trong truyện cổ tích hay đầy đá sỏi gập ghềnh, đất bằng dậy sóng?! Có đi trọn đường tình được hay không còn tùy ở sự nhẫn nhịn hy sinh và biết chia sẻ cảm thông với nhau của mỗi cặp vợ chồng…
Người Phương Nam
The Following User Says Thank You to wonderful For This Useful Post:
Miami trước lạ, sau quen
Biển Tây, mưa bão, ướt mèm đất đai.
Tuyết rơi lạnh giá, chim bay
Tìm nơi nắng ấm, chờ ngày qua Đông
Ròng, rong con nước đục trong
"Vải cầu dừa đủ“nhớ không, quên rồi!
Miami, đối với tôi hồi mới đến là một miền đất lạ, chưa từng được khám phá. Hai quận Broward và Miami Dade dân số chưa tới 3 triệu người, bây giờ hơn 5 triệu. Bước sang năm 2015, tiểu bang Florida sẽ vượt qua tiểu bang New York, đứng hàng thứ ba về dân số của liên bang (số 1 là California, số 2 là Texas, số 3 là Florida,...). Dù vậy, người Việt vùng này là "hàng hiếm".
Chợ Vĩnh An, coi như độc quyền, do những người cùng gia đình anh em điều hành. Có "free” tờ tuần báo Bút Việt, xuất bản ở Texas. Từ mấy năm trước, tôi thường đến chợ này lấy báo vì tờ này thường có những bài viết rất hay của nhà báo lão thành Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh...
Cách chợ một "block“đường là tiệm giặt (coin laundry) của gia đình anh T.T. Tổ vừa mới mở, cũng là nơi người Việt Nam đến giặt đồ, tán gẫu. Một hôm, tôi đang ngồi chờ đợi, anh Tổ từ phía sau bước ra, trong tay cầm một chùm vải thiều vừa mới chín, màu ửng hồng,... Tôi ngạc nhiên:
- Ở đâu mà anh có được vậy?
Anh nói:
- Mấy đứa con vừa hái, nó mua nguyên cây.
- Chuyện lạ à nghe, lần đầu tui mới nghe nói.
Anh giải thích thêm:
- Ở đây dân địa phương trồng trước nhà để làm kiểng, che bóng mát, cản gió bão; không biết ăn, tới mùa trái rụng đầy dưới gốc, nhớp nhúa, dơ bẩn. Mình hỏi mua, vừa có tiền và được thu dọn sạch sẽ, "nhất cử lưỡng tiện", họ thích lắm.
Khi về, tôi kể lại chuyện "mua nguyên cây“cho cả nhà nghe; ai cũng cho là lạ, thôi thì hãy thử xem!
Vừa đi làm về, thì đứa con chạy ra báo tin mới:
- Gần đây có cây vải, đầy trái, ba muốn đến hỏi mua? Tôi đáp:
- Mình đến đó xem sao.
Chúng tôi đến nơi, rõ ràng trước nhà có cây vải oằn trái, một màu ửng hồng phủ hết tàn cây. Gỏ cửa nhà rồi chỉ lên cây, họ nói cho không, nếu thích thì hái đi. Tôi dự đoán, trái trên cây chừng 50 lbs; để cho chắc chắn, tôi đưa $ 50.00 để mua hết cây. Chủ nhà đồng ý và dặn dò thêm:
- Hãy cẩn thận khi leo cây.
Tôi trấn an:
- Chúng tôi tuổi con khỉ, ốm nhom, leo cây rất giỏi, đừng lo.
Hẹn cuối tuần đến hái. Họ nói tuần nầy vắng nhà, hãy tự nhiên đến.
Chúng tôi kẻ kẹp, người leo, hăng say hái trái, đầy mấy bịt lớn, hơn 100 lbs. Mọi người đang cười nói vui vẻ, thu dọn sạch sẽ cây lá, chuẩn bị về; bỗng nhiên, không biết từ đâu có một chiếc xe "police“xuất hiện, đèn trên mui chớp tắt liên hồi dừng lại trước nhà. Một người cảnh sát bước tới hỏi:
- Hi ông, ông là chủ nhà nầy?
Tôi đáp:
- Không, tôi mua trái trên cây, đến hái.
Người cảnh sát:
- Tôi không hiểu.
Sau một hồi quan sát, người cảnh sát nói rằng:
- Leo trèo trên cây quá cao, dễ ngã té, xin hãy cẩn thận. Rồi chào từ biệt, ra xe chạy đi.
Cả trăm pounds vải chất đầy góc nhà, thấy mê, làm sao ăn cho hết, để lâu nó hư thúi! Thôi thì vô thùng ra bưu điện gởi cho bằng hữu ăn lấy thảo.
Vài ngày sau:
Một người ở Minesota, gọi điện thọai đến "complaint":
- Gởi quà làm chi cho cực khổ, nhưng mà bà xã khen, vải ngon quá, mấy chục năm mới được ăn.
Một ông ở Atlanta gọi:
- Cám ơn nhiều, có nhiều trái hư, cắt bỏ phần hư đi rửa sạch, vẫn còn ngon; đúng là "organic", không hóa chất, tuyệt!
Tôi có người ở Baton Rouge, LA, ông nầy không hảo ngọt, lại hảo chua. Biết tính bạn, ngoài lô vải tươi, tôi còn tặng ông thêm mấy trái xoài sống.
- Bếp trưởng chuẩn bị sẵn cá, đợi kho lạt bằm xoài sống, nhưng xoài sống trở thành xoài chín. Còn vải bếp trưởng ăn hết, mắc đền!
Quí bằng hữu ơi, số trái vải đó là tui mua nguyên cây, tui sẽ ráng trồng để đón quí vị ở Miami. Quí bằng hữu có biết là mình bị "dụ dỗ", chắc chắn sẽ đến thăm tui.
Một hôm có người ở Jacksonville, hỏi thăm nhà có trồng dừa không.
- Tôi thì không, nhưng mà người ta thì trồng nhiều lắm. Ngày cuối tuần có đi Haulover Beach Park mua cá, mới câu ngoài về biển. Chợt thấy mấy người của thành phố đến giựt hết mấy trái dừa trên cây xuống đem bỏ. Chắc họ sợ cảnh,
"Vân Tiên ngồi gốc dừa câu
Dừa khô rớt xuống bể đầu Vân Tiên"
Tui thấy tiếc, nên xin, chở dừa về đầy xe.
Người bạn giải thích về cách chữa đục thủy tinh thể của nhà nghiên cứu thảo dược John Heinerman.
Trong sách ông chỉ dẫn: bệnh nhân nằm xuống và nhỏ vài giọt nước dừa tươi vào mắt, sau đó lấy khăn nhúng nước nóng đắp lên mắt là có công hiệu.
Bạn già ơi, đôi mắt là "cửa sổ của linh hồn", xin hãy cẩn thận, cần phải có bác sĩ chuyên khoa; xin đừng đem mắt mình ra thí nghiệm.
Trở lại ngôi chợ Vĩnh An, trong ngôi chợ thực phẩm này, một hôm tôi đang phụ giúp bếp trưởng tìm gia vị làm bếp,... bỗng nghe tiếng của một người phụ nữ hỏi ông chủ chợ:
- Ông chủ ơn chỉ dùm: bún "Giang Tây sợi nhỏ nằm ở dẫy nào mà tìm hoài không thấy?
Tiếng ông chủ chợ nói không có rồi giới thiệu một loại bún tương tự. Giọng nữ cao giọng chê:
- Chỉ có loại nầy nấu bún riêu, mới ngon. Đó là món "ruột", chính tay tôi nấu chồng tôi mới chịu. Sao mà ở đây cái gì cũng thiếu hết, không bằng ở Sài Gòn.
Tôi đi lần đến coi, ai mà nói trúng quá vậy! Ở Miami thì thực phẩm Việt Nam chắc chắn là không bằng Việt Nam rồi. Giọng nói nghe cũng lạ, không giống mấy bà nội trợ người Việt trong vùng này. Chắc là thuộc lớp mấy cô trẻ mới lớn.
Thời gian trôi qua nhanh, mới đây mà đã mấy chục năm. Lớp già thường khó khăn để rời đi nơi khác vì đã "bén tiếng quen hơi". Những đứa trẻ năm nào, bây giờ đã khôn lớn như những con chim đủ lông đủ cánh bay khắp nơi, xem đất nước Mỹ là quê hương của mình, cho "thỏa chí tang bồng". Đâu thấy cô nào chịu thành bà nội trợ sành điệu nấu riêu cua tới vậy. Để coi là ai.
Khi tôi đến gần thì thấy một người phụ nữ hoàn toàn lạ, dáng hình dễ nhìn. Cô cho biết là nhà ở gần đây, qua Mỹ được vài tháng; chồng cô làm ở Parkway Hospital. Tôi cố ôn lại trí nhớ, những người Việt Nam ở đây mình quen biết gần hết, hỏng lẽ là ông Victor.
Victor thì độc thân, cuộc đời ông trải qua nhiều gian khổ, chưa từng nếm mùi vợ yếu, con thơ. Mấy tháng trước, ông nói là lấy cái nghỉ phép hàng năm đi về Việt Nam. Hồi đó tới giờ đâu nghe ổng thích ăn "bún riêu“đâu hà! Thôi thì từ từ mọi chuyện sẽ rõ ràng thôi, nếu đúng như vậy thì phải có tiệc mừng chứ.
Chúc mừng Victor có đôi có cặp, trăm năm hạnh phúc, Miami có thêm người Việt Nam, càng đông càng vui.
Y Châu
The Following User Says Thank You to wonderful For This Useful Post:
Truyện ngắn hay: Có cánh chuồn nào trên vai em không?
Chuyện tình sau đây thật đẹp, huyền ảo, nhưng buồn -như một thiên tình sử. Truyện do nhà văn Trang Hạ viết kể lại trên một trang Facebook. Nay xin gởi đến độc giả để cùng hân thưởng. NS
*
Thành phố nhỏ yên tĩnh và xinh đẹp, hai người yêu đắm say, mỗi bình minh đều đến bờ biển ngắm mặt trời mọc, và mỗi chiều đi tiễn bóng tà dương ở bãi cát. Dường như những ai đã gặp đôi tình nhân đều nhìn theo với ánh mắt ngưỡng mộ.
Một ngày, sau vụ đâm xe, cô gái trọng thương im lìm nằm lại trên chiếc giường bệnh viện, mấy ngày đêm không tỉnh lại.
Buổi sáng, chàng trai ngồi bên giường tuyệt vọng gọi tên người yêu đang vô tri vô giác; đêm xuống, chàng trai tới quỳ trong giáo đường nhỏ của thành phố, ngước lên thượng đế cầu xin, mắt không còn lệ để khóc than.
Một tháng trôi qua, người con gái vẫn im lìm, người con trai đã tan nát trái tim từ lâu, nhưng anh vẫn cố gắng và cầu xin hy vọng. Cũng có một ngày, thượng đế động lòng. Ngài cho chàng trai một cơ hội. “Con có bằng lòng dùng sinh mệnh của con để đánh đổi không?” Chàng trai không chần chừ vội đáp: “Con bằng lòng”. Thượng đế nói: “Ta có thể cho người con yêu tỉnh dậy, nhưng con phải đánh đổi ba năm hóa chuồn chuồn, con bằng lòng không?” Chàng trai đáp: “Con bằng lòng”
Buổi sáng, cánh chuồn rời Thượng đế bay vội vã tới bệnh viện, như mọi buổi sáng. Và cô gái đã tỉnh dậy! Chuồn chuồn không phải người nên không nghe thấy người yêu đang nói gì với vị bác sĩ đứng bên giường.
Khi người con gái rời bệnh viện, cô rất buồn bã. Cô gái đi khắp nơi hỏi về người cô yêu, không ai biết anh ấy đã bỏ đi đâu. Trong khi đó cánh chuồn kia không bao giờ rời cô, luôn bay lượn bên người yêu, chỉ có điều chuồn chuồn không phải là người, chuồn chuồn không biết nói. Và cánh chuồn là người yêu ở trước mắt người yêu nhưng không được nhận ra.
Mùa Hạ đã trôi qua, mùa Thu, gió lạnh thổi những chiếc lá cây lìa cành, cánh chuồn không thể không ra đi. Vì thế cánh rơi cuối cùng của chuồn chuồn là trên vai người con gái. “Tôi muốn dùng đôi cánh mỏng manh vuốt ve khuôn mặt em, muốn dùng môi khô hôn lên trán em, nhưng em nào nhận ra.”
Chớp mắt, mùa Xuân đã tới, cánh chuồn cuống cuồng bay trở lại thành phố tìm người yêu. Nhưng dáng dấp thân quen của cô đã tựa vào bên một người con trai mạnh mẽ khôi ngô, cánh chuồn đau đớn rơi xuống, rất nhanh từ lưng chừng trời.
Ai cũng biết sau tai nạn người con gái bệnh nghiêm trọng thế nào, chàng bác sĩ tốt và đáng yêu ra sao, tình yêu của họ đến tự nhiên như thế nào, và ai cũng biết người con gái đã vui trở lại như những ngày xưa.
Cánh chuồn chuồn đau tới thấu tâm can, những ngày sau, chuồn chuồn vẫn nhìn thấy chàng bác sĩ kia dắt người con gái mình yêu ra bể xem mặt trời lên, chiều xuống đến bờ biển xem tà dương, và cánh chuồn chỉ có thể thỉnh thoảng tới đậu trên vai người yêu, chuồn chuồn không thể làm gì hơn. Những thủ thỉ đắm say, những tiếng cười hạnh phúc của người con gái làm chuồn chuồn ngạt thở.
Mùa Hạ thứ ba, chuồn chuồn đã không còn thường đến thăm người con gái chàng yêu nữa. Vì trên vai cô ấy luôn là tay chàng bác sĩ ôm chặt, trên gương mặt cô là cái hôn tha thiết của anh ta, người con gái không có thời gian để tâm đến một cánh chuồn đau thương, cũng không còn thời gian để ngoái về quá khứ.
Ba năm của Thượng đế sắp chấm dứt. Trong ngày cuối, người yêu ngày xưa của chuồn chuồn bước đến trong lễ thành hôn với chàng bác sĩ.
Cánh chuồn chuồn lặng lẽ bay vào trong nhà thờ, đậu lên vai người mà anh yêu, chàng biết người con gái anh yêu đang quỳ trước Thượng đế và nói: “Con bằng lòng!”. Chàng thấy người bác sĩ lồng chiếc nhẫn vào tay người con gái. Họ hôn nhau say đắm ngọt ngào. Chuồn chuồn để rơi xuống đất một hạt lệ đau đớn.
Thượng đế hỏi: “Con đã hối hận rồi sao?” Chuồn chuồn gạt hạt lệ nói: “Con không!”
Thượng đế hài lòng nói: “Nếu vậy, từ ngày mai con có thể trở thành người được rồi!”
Chuồn chuồn soi vào hạt nước mắt nhỏ, chàng lắc đầu đáp: “ Hãy để con cứ làm chuồn chuồn suốt đời…”
Yêu một người không phải là nhất định phải có được họ. Nhưng đã có được một người thì hãy cố yêu lấy họ. Có cánh chuồn nào trên vai bạn không?
Trang Hạ
Last edited by baolunbeau; 10-03-2021 at 09:00.
The Following User Says Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
Chiếc phi cơ FR - 975 của chúng tôi lẽ ra đã phải rời phi trường Paris - Charles de Gaulle lúc 19 giờ để hướng về vùng trời Đông Nam Á, nơi có đất nước nhỏ bé mang hình dáng chữ S trên bản đồ; nhưng vào phút chót một bộ phận điện tử của phi cơ bị trục trặc nên giờ cất cánh đã bị dời lại 2 giờ sau.
Sáu mươi phút đầu đã chậm rãi trôi qua, giờ thứ nhì cũng sắp kết thúc, nhưng hơn bốn trăm người chúng tôi vẫn đứng ngồi la liệt ở khắp nơi trước chiếc cổng B-42. Vẫn chưa có dấu hiệu gì cho thấy chúng tôi sắp được lên phi cơ. Các loa phát thanh lại vang lên: "Chúng tôi xin cáo lỗi cùng quý vị, phi cơ vẫn chưa được sẵn sàng để có thể khởi hành. Mong quý vị rộng lòng bỏ qua cho sự cố đáng tiếc ngoài ý muốn này của phi hành đoàn chúng tôi. Thức ăn và thức uống sẽ được mang ra phục vụ quý vị trong giây lát."
Mọi người bắt đầu thở dài và lo âu. Nếu chuyến bay bị hủy hoặc dời sang vài ngày sau thì sẽ cực và mất thời gian lắm, bởi không phải mọi người ai cũng ở ngay tại Paris, mà rất đông trong số chúng tôi đã đến từ khắp nơi, không chỉ trong nước Pháp mà cả những nước lân cận.
Phần đông hành khách của chuyến bay là người Việt. Ngồi đối diện tôi là hai ông bà đã khá lớn tuổi. Tôi đã đặc biệt để ý đến họ bởi cụ bà trông rất gầy yếu. Tôi cứ lo ngại và thầm hỏi làm thế nào bà có thể có đủ sức ngồi suốt hơn 18 giờ bay. Dãy ghế của tôi và của ông bà chỉ cách nhau khoảng hai mét. Trong thời gian chờ đợi, cụ ông đã đi đi lại lại và chuyện trò cùng tôi và những người ngồi gần quanh đó. Họ trở về Việt Namđể sống vì không thể tiếp tục chịu đựng nỗi nữa cái lạnh và sự cô đơn nơi đất khách quê người.
Cụ ông đã kể rằng, mỗi ngày bà ấy cứ ốm đi, ốm thật nhiều; đi bác sĩ khám thì hoàn toàn không thấy bà mắc bệnh gì nhưng bà chỉ ốm dần, ốm đến độ con cái phải lo sợ và không còn biết phải làm gì khác ngoài quyết định đưa ông bà trở về quê nhà. Mong rằng nơi ấy bà sẽ tìm lại được hơi ấm của quê hương, hơi ấm của đồng bào - là sức sống mà có lẽ cơ thể thật gầy yếu của bà đang cần. Những người con hiện đang sống ở Pháp của ông bà đã thật khó khăn khi phải để cho cha mẹ rời xa họ... nhưng giờ đây việc cứu sống bà quan trọng hơn cả. Họ đã đặt rất nhiều niềm tin và hy vọng trong chọn lựa ấy.
Một người đàn ông tuổi đã ngoài năm mươi, dáng vóc cao lớn, từng bước đi hơi khập khểnh tiến đến chỗ ông bà lớn tuổi đang ngồi. Không rõ ông mang quốc tịch gì nhưng ông không có vẻ là một người gốc Pháp. Trên khuôn mặt ông đã đeo một đôi kính lớn nhưng nó vẫn không che hết hai vết thẹo dài từ mắt xuống má, và từ miệng qua tai. Tay ông cầm hai mẩu bánh mì kẹp thịt và hai chai nước suối. Đến bên ông bà người Việt, ông dừng lại và đưa cho họ hai mẩu bánh mì cùng hai chai nước. Cụ bà chỉ vẫn nhìn thẳng ra phía trước và khẽ lắc đầu; nhưng cụ ông thì hơi ngạc nhiên ngước mắt nhìn lên phía người đàn ông và chỉ sang phần bánh mì và nước uống mà con gái họ đã lấy về cho họ. Người đàn ông gật gật đầu rồi tiếp tục bước đi.
Ông về chỗ ngồi của ông cách chỗ tôi vài ghế rồi chậm rãi dùng phần bánh mì của mình… Sau một lát, ông ta lại đứng lên và đi ngang qua chỗ hai ông bà. Ông nhìn họ mỉm cười và như muốn hỏi "Ông Bà có khỏe không""… nhưng ông chỉ gật gật đầu rồi lại bước đi, không hề lên tiếng.
Từng giờ một cứ tiếp tục trôi qua và đến qua nửa đêm chúng tôi mới được lên phi cơ. Dù mệt mỏi nhưng mọi người chỉ mừng vui chứ không bực bội cho sự chờ đợi ngoài ý muốn vừa rồi. Sau đó phi cơ của chúng tôi đã về đến Việt Nam bình yên vô sự.
Hai mươi chín ngày sau, tôi lại rời Việt Nam để trở sang Pháp. Lần này chuyến bay của tôi thông suốt hơn, không bị trục trặc hay trễ nải chi nữa. Sau khi kết thúc mọi thủ tục xuất cảnh, tôi thong thả lên máy bay.
Khi đang loay hoay nâng chiếc vali xách tay hơi lố ký của tôi lên ngăn để hành lý phía trên của mỗi chỗ ngồi thì có một bàn tay rắn chắc, khỏe mạnh đã xuất hiện để đỡ phụ tôi. Khi quay sang nhìn nhân vật tốt bụng đang giúp mình để nói lời cảm ơn thì tôi đã vô cùng ngạc nhiên nhận ra chính "người đàn ông" ấy - người đã đưa cho ông bà lớn tuổi ngồi đối diện tôi bánh mì và nước uống bốn tuần trước. Sao lại có một sự trùng hợp lạ lùng đến như vầy, bởi một ngày có bao nhiêu là chuyến bay trở về Pháp và trong tuần có đến bảy ngày, vậy trong gần một tháng sẽ phải có đến cả trăm chuyến chứ không phải chỉ hai hay ba mươi chuyến thôi. Làm sao "người đàn ông" ấy lại có thể cùng đi và cùng về chung với tôi trong cùng một chuyến như vầy (").
Tôi vừa nói cảm ơn ông vừa nhớ lại những diễn biến của cái hôm ngồi chờ hơn 5 giờ đồng hồ ở sân bay Paris - Charles De Gaulle. Tôi đã nhìn thấy ông ấy đi qua đi lại trước mắt mình không biết bao nhiêu lần. Giây phút này tôi mới có thể nhìn thấy rõ hơn khuôn mặt của ông. Ông trông rất hiền dù hai vết thẹo đã làm giảm đi nét tự nhiên và hiền từ của ông.
Ông chỉ ngồi cách tôi một chiếc ghế và vì còn sớm, hành khách chưa lên đủ, nên tôi đã bắt đầu trò chuyện cùng ông. Khi tôi vừa buông miệng nói một câu tiếng Pháp thì ông liền trả lời lại với một giọng nói thật khó nghe. Ông như cố uốn quai hàm của mình để phát ra từng âm thanh một. Tôi kiên nhẫn chờ ông nói hết những gì muốn nói mà lòng cảm thấy thật tội nghiệp ông ta làm sao. Chuyện gì đã xảy ra với ông" Chắc chắn ông đã trải qua một tai nạn rất nghiêm trọng chứ ông không phải là một người tàn tật bẩm sinh. Hai vết thẹo trên khuôn mặt ông đã ít nhiều nói lên điều đó.
Cuối cùng tôi đã nghe ra được những gì ông muốn nói. Ông không phải là người Pháp mà là người Hoa Kỳ và ông chỉ nói được tiếng Anh mà thôi.
Tiếng Anh của tôi lúc bấy giờ thì cũng không đến nỗi nào tệ nhưng vì từ khi ở Pháp, tôi không có dịp sử dụng tiếng Anh hàng ngày nên khi phải bắt đầu một câu chuyện, tôi phải ngừng lại một chốc để tìm từ trong bộ nhớ và ráp thành câu. Khi tôi nhắc lại cho ông nghe cái hôm mọi người đã chờ thật lâu tại phi trường Paris - Charles De Gaulle, mắt ông đã sáng lên và hỏi tôi, "Oh, vậy cô cũng đã đi chuyến bay của ngày hôm ấy ư" Ngộ nghĩnh thật nhỉ!"."
Vâng, đúng là "ngộ nghĩnh thật" bởi tôi luôn nghĩ, cuộc gặp gỡ nào cũng đều phải có cái "duyên" của nó. Không phải chỉ có duyên để làm cha mẹ, con cái, vợ chồng hay bạn bè của nhau mà kể cả những người mình chỉ gặp gỡ họ đôi ba phút trên đường phố, nói với nhau đôi ba câu… để rồi sau đó hình ảnh của người ấy cứ vẫn còn đọng lại dù người đã đi khuất… Chính vì luôn tin vào cái "duyên" ấy nên tôi đã không ngần ngại chuyện trò với "người đàn ông có vẻ rất đặc biệt" này.
Quả thật tôi đã có cái "duyên" gặp ông để được biết về câu chuyện và về con người đáng được khâm phục của ông.
Tất cả hành khách đã dần lên máy bay và lấp gần kín các chỗ ngồi lúc nãy vẫn còn trống, nhưng chỗ trống giữa tôi và "người đàn ông" ấy vẫn không thấy có ai đến. Máy bay cất cánh và câu chuyện của chúng tôi đã được bắt đầu.
Ông tên Larry H., hiện đang sống tại tiểu bang New York - Hoa Kỳ. Tôi thắc mắc:
- Từ New York chỗ ông, nếu tôi nhớ không lầm thì có chuyến bay bay thẳng về Việt Nam mà, tại sao ông phải ghé sang Pháp cho cực vậy""
- Tôi mua vé máy bay trễ nên chẳng còn chuyến nào. Tôi lại phải có mặt tại Việt Nam với một số bạn bè trong thời gian đó, nên dù có phải đi lòng vòng và ngừng lại bao nhiêu chặng tôi cũng không ngại."
- Như vậy rõ ràng là mục đích chuyến đi của ông phải quan trọng lắm!"
Tôi còn muốn hỏi "người đàn ông" này bao nhiêu là điều nhưng cách ông cố gắng phát âm làm cho tôi cảm thấy e ngại. Tôi hoàn toàn không thể nào đoán biết được là khi phải cố gắng chuyển động hai quai hàm, ông có bị đau đớn gì không, thế là tôi đã quyết định hỏi ông một câu không được tế nhị cho lắm:
- Tôi xin lỗi ông trước khi hỏi ông điều này. Ông có cảm thấy thoải mái không khi phải phát âm" Ông không cảm thấy đau chứ" Nếu có thì chúng ta sẽ nói chuyện ít ít thôi vậy."
Ông mỉm cười và tiếp tục những cử động cũ:
- Không, tôi không hề cảm thấy đau. Được chuyện trò với cô tôi vui lắm, chỉ sợ cô không có đủ kiên nhẫn chờ nghe những gì tôi muốn nói thôi."
Tôi cũng mỉm cười và đáp lại lời ông:
- Ông đừng lo, tôi thường cũng kiên nhẫn lắm. Tôi cũng cảm thấy rất vui khi được nói chuyện cùng ông. Chúng ta có những 18 giờ đồng hồ lận mà. Chúng ta cứ trò chuyện cho đến khi nào mệt thì nghỉ, ông thấy sao""
Ông gật gật đầu và chúng tôi lại tiếp tục. Ông kể:
- Tôi đã được giải phẫu 9 lần rồi. Những lần đầu tôi cảm thấy rất đau khi phải nói, có khi tôi lại bị đau buốt lên tận óc. Vì vậy mà tôi cứ phải trải qua hết cuộc giải phẫu này đến cuộc giải phẫu khác. Bây giờ thì sức khỏe của tôi tốt lắm rồi, rất tốt so với năm sáu năm về trước."
- Như vậy ông đã thật là can đảm đấy. Người ta chỉ bị giải phẫu một lần thôi là đã thấy mệt rồi. Tôi thấy ông vẫn khỏe và yêu đời lắm. Ông có thể nào kể cho tôi nghe vì sao ông đã bị giải phẫu không""
- Chắc cô đã nhìn thấy những vết thẹo trên khuôn mặt của tôi. Tôi còn vài vết lớn như thế trên đầu và bên sườn. Trên người tôi thì hàng trăm vết thẹo, nhỏ, lớn, đủ mọi kích thước, những cái nhỏ li ti thì không thể nào đếm được… Tôi đã bị trúng mìn trong chiến tranh Việt Nam. Hiện giờ trong óc tôi vẫn còn một mãnh mìn nhưng vì nó không cản trở việc tôi tiếp tục sống nên các bác sĩ đã quyết định cứ để nó nằm yên như vậy, bởi nếu giải phẫu lấy ra thì nguy cơ tử vong của tôi sẽ là 99%."
- Ôi trời ơi, thì ra là vậy! Tôi thành thật xin ông hãy thứ lỗi cho khi đã để ông phải nhắc lại quá khứ đáng buồn này."
- Không, không sao cả. Cô không có lỗi chi vì tôi không còn cảm thấy buồn khi nhắc lại những chuyện của ngày xưa ấy. Chúng bạn tôi vẫn thường kể về những chuyện ngày xưa và cứ hô lên tôi là một vị anh hùng. Nhưng tôi nào có thấy mình là anh hùng. Tôi chỉ là một kẻ may mắn mà thôi!"
Chúng tôi phải tạm ngưng câu chuyện đang nói dỡ dang vì phi cơ phải ngừng lại ở Singapore để đón thêm khách. Phi cơ lúc này mới thật sự đầy. Sau khi được dùng xong nước uống và bữa ăn tối, chúng tôi lại tiếp tục câu chuyện. Ông Larry bắt đầu hỏi:
- Nãy giờ nói chuyện mà tôi vẫn chưa biết tên cô là gì!"
- Thưa, ông có thể gọi tôi là Anne, như thế sẽ dễ dàng cho ông hơn."
- Chắc cô Anne sống ở Pháp phải không" Cô về Việt Nam thăm gia đình, tôi nghĩ vậy."
- Vâng đúng thế ạ! Tôi còn gia đình ở Việt Nam."
- Người Việt Nam giàu tình cảm thật, cô Anne nhỉ. Tôi rất quý mến người Việt Nam của cô. Đất nước và con người Việt Nam của cô thì thật nhỏ bé nhưng tình người thì lại mênh mông."
- Tôi xin thật cảm ơn ông cho những lời tốt đẹp đó."
- Có gì phải cảm ơn, bởi đó là sự thật kia mà."
- Hơn hai mươi lăm năm về trước, tôi cứ tưởng là tôi đã chết. Tôi đã nói lời trăn chối với bạn bè để họ về thưa lại với Bố Mẹ tôi… Nhưng rồi không hiểu sao tôi lại được ban tặng lại sự sống. Chắc hẳn vì tôi chưa hoàn thành sứ mệnh của mình."
- Vâng, ông nói đúng, mỗi người sinh ra sống ở thế gian này, ai cũng có riêng cho phần mình một sứ mệnh, chẳng của người nào giống của người nào; nhưng tôi tin chắc sứ mệnh của ông phải đặc biệt lắm!"
- Tôi chẳng biết mình có làm được gì lớn lao không, nhưng tôi cảm thấy hài lòng về những gì mình hiện đang làm. Những vết thương trên người tôi đang dần được lành lặn khi tôi giúp đỡ cho những người cũng tàn tật như tôi vậy và tôi tin rằng, những vết thương trên thân thể của họ cũng đang được lành lặn như những vết của tôi."
- Những lời nói của ông nghe thật hay ông Larry ạ!! Tôi thật hài lòng đã được gặp lại ông hôm nay để được chuyện trò cùng ông. Tôi đã bắt đầu để ý đến ông từ sau khi ông mang bánh mì và nước uống đến mời hai người Việt Nam lớn tuổi ngồi trước mặt tôi. Tôi đã nhận ra ngay ông là một con người rất đỗi nhân hậu. Ông có thể nào kể cho tôi nghe ông đến Việt Nam để làm gì không""
- Tôi là thành viên của một Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam. Hội của chúng tôi có quỹ và những chương trình sang Việt Nam để giúp cho những người cựu chiến binh cũng tàn tật như tôi, gia đình của họ, và đặc biệt là các trẻ em, nạn nhân của chiến tranh. Nhiều lần trong năm, hội của chúng tôi có những người đại diện mang áo quần, thuốc men, thức ăn, dụng cụ học tập và nhiều thứ hàng tiếp tế khác về giúp cho những trường học, những trung tâm trẻ mồ côi - khuyết tật và những gia đình nghèo khó ở những vùng ngoại ô, xa xôi, hẻo lánh. Tôi đã cùng những người trong hội đến Việt Nam được 7 lần rồi và lần nào khi xong việc ra đi, tôi cũng đều mong sẽ còn dịp được trở lại Việt Nam. Đất nước Việt Nam của cô, dường như có một phần thân thể của tôi đã được gắn liền ở đó."
Càng nghe những lời ông Larry nói về những kỷ niệm, về những hoạt động hiện nay của ông, tôi càng cảm thấy khâm phục người đàn ông này. Khi bước đi, ông đi những bước khập khễnh không vững; khi nói chuyện thì ông nói thật khó khăn, phải sau một hồi thật lâu ông mới phát ra được hết những âm thanh ngọng nghiệu,… ấy vậy mà ông không màn mấy chục ngàn cây số. Ông vẫn cứ đi, đi hết lần này lại đi lần khác. Những bước đi của ông là những bước đi đem người này đến gần với người kia; bàn tay này cứ được nắm với bàn tay khác, để cái khoảng cách dù rộng cả nửa vòng trái đất, dù hai dân tộc ấy không có cùng một màu da và một giòng máu, họ vẫn cảm thấy cái vòng tròn ấy thật ra chỉ là một vòng tròn rất nhỏ - nhỏ vì nó chính là vòng tròn của tình thương, của hòa bình.
Khi tôi đang mãi mê đeo đuổi suy nghĩ của mình về ông Larry, về những gì ông cùng bạn bè đem đến cho dân tộc tôi… thì ông lại lên tiếng:
- Có một dạo, cứ nhắm mắt ngủ là tôi lại nhìn thấy những hình ảnh kinh khủng của bom đạn, của chết chóc. Tôi cứ có cái cảm giác mình thật tội lỗi và điều ấy không cho phép tôi được sống yên..."
Khi ông Larry nói đến đây, tôi đã mạn phép cắt ngang những lời tự trách móc của ông.
- Chiến tranh ư, nào ai có muốn bao giờ, bởi chiến tranh chẳng khi nào là đúng cả. Nó luôn để lại những vết sẹo thật sâu và thật đau trong lòng của những người bị thương. Ông đã chỉ phải làm những công việc của ông và hàng trăm ngàn người khác họ cũng đã phải làm những điều mà lúc bấy giờ là nhiệm vụ của họ. Nhưng đã mấy mươi năm trôi qua rồi còn gì, những gì thuộc về quá khứ không còn quan trọng nữa mà là những gì chúng ta hiện đang làm trong ngày hôm nay mới là đáng quý, đáng được lưu tâm đến. Tấm lòng và con tim của ông, cũng như của những bạn bè ông thật đáng được đề cao. Tôi vô cùng hân hạnh đã được biết ông, thưa ông Larry. Tôi sẽ không bao giờ quên chuyến bay ngày hôm nay của tôi. Tôi xin cảm ơn ông rất nhiều, ông Larry ạ, vì nhờ ông, tôi đã có một cái nhìn khác về chiến tranh, về con người, về tình nhân loại..."
Ông Larry lấy ra cho tôi xem những bức hình ông đã chụp trong chuyến đi của ông. Ông đã cùng bạn bè đến những làng nghèo của thành phố Nha Trang, Hội An, và Huế. Ông đã thật hạnh phúc khi ôm các trẻ nhỏ trong vòng tay mình. Những bà mẹ thật già cũng đã cười thật tươi và ôm lấy ông. Những tấm hình khác thì ông lại đang cùng khóc với những người thương binh đồng cảnh ngộ. Họ như thật hiểu nhau, thương nhau; ôm nhau vào lòng và cùng cảm nhận được một điều quan trọng, họ chẳng qua chỉ là những đứa con của cùng một Thượng Đế.
18 giờ đồng hồ, thông thường tôi đã phải chờ đợi rất lâu, cứ như là phải đếm từng năm phút một vì trên máy bay không làm được gì nhiều ngoài đọc sách, xem phim, nghe nhạc hoặc ngủ những giấc ngủ chập chờn,... nhưng lần này 18 giờ ấy đã qua đi thật nhanh. Tôi như vẫn còn muốn được ông Larry kể thêm cho nghe bao nhiêu chuyện khác nữa nhưng máy bay đã hạ cánh.
Đã đến giờ chúng tôi phải chia tay nhau và đi về hai ngả. Tôi thì chuyển máy bay để về lại Lyon; còn ông Larry thì phải đi xa hơn, ông sẽ phải chờ đợi và lại tiếp tục ngồi máy bay thêm ít nhất là 6 giờ nữa thì mới đến được New York…
Tôi kéo chiếc vali bước đi, hòa vào dòng người mà trong lòng... bao nhiêu dư âm vẫn còn đọng lại.
Anne Khánh-Vân
Last edited by baolunbeau; 10-10-2021 at 01:43.
The Following User Says Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
Khi bước đi vội vã trên lề đường, tôi bị một người bộ hành đi ngang chen lấn. “Ồ! Xin lỗi ông.” Tôi vội nói. Ông ấy trả lời: “Tôi cũng xin cô thứ lỗi. Tôi không nhìn thấy cô!”
Chuyện xảy ra trên đường phố. Tôi và người đàn ông kia đã trao đổi những lời lẽ thật đẹp cho nhau, và cả hai chúng tôi tiếp tục con đường của mình sau khi nói ”Xin chào!”
Thế nhưng khi về đến nhà thì câu chuyện lại hoàn toàn khác hẳn. Thử xem chúng ta đối xử như thế nào với những người thân yêu của chúng ta…
Vào buổi chiều, khi tôi đang làm cơm tối, con trai tôi đến sau lưng tôi và đứng im như vậy, không nói tiếng nào. Trong một lúc vô ý, bất thần tôi quay người lại, và làm cháu ngã.
“Tránh ra đi nào! ”, tôi giận dữ quát lên, “Sao lúc nào con cũng lẩn quẩn bên chân mẹ vậy”!
Thằng bé quay lại và buồn bã bỏ đi. Tôi không nhận biết được tôi vừa làm nó tổn thương như thế nào.
Ðến lúc đi ngủ,… Có tiếng Người nói với tôi: “Tại sao con thật dễ dàng đối xử với người ngoài đường một cách khả ái, mà lại không thể hành xử như vậy với những người bên cạnh con, họ yêu mến con và con cũng thương yêu họ vậy?” Con hãy dậy đi và hãy nhìn trên sàn nhà bếp. Ở đó con sẽ thấy một bó hoa thật đẹp nằm ngay ở cửa…Ðó là hoa mà con trai con mang về cho con. Nó đã tự tay hái lấy những đóa hoa đó cho con: có hoa hồng, vàng và xanh màu trời nữa đó. Có điều con chẳng hiểu gì cả. Khi nó nhẹ nhàng đến sau lưng con là để không làm lộ điều bí mật dành cho con mà con sẽ rất thích thú. Nhưng con đã không nhìn thấy dòng lệ tràn ra trên má của nó khi con bảo nó tránh đi.”
Thắm Nguyễn
Tôi ngồi dậy rồi đến cánh cửa và nhìn thấy bó hoa thật đẹp dưới đất. Chính vào lúc đó tôi mới cảm thấy thật sự đau đớn, và mắt tôi đã đẫm lệ. Và tôi bước nhẹ nhàng đến bên giường con, nói: “Dậy di, con yêu của mẹ, dậy đi con!”
“Ðây là những đóa hoa hôm nay con đã hái cho mẹ phải không?”
Con tôi mỉm cười và nói: “Con đã tìm thấy hoa này bên cạnh một gốc cây và con đã hái vì con thấy chúng rất đẹp… Ðẹp như mẹ của con! Con biết rằng mẹ rất thích, nhất là những cánh hoa xanh màu trời vì con biết mẹ rất yêu màu xanh ấy.”
Tôi nói với con: “Con trai của mẹ, mẹ thật buồn vì đã cư xử rất tệ với con hôm nay. Lẽ ra mẹ không nên quát mắng to tiếng với con như lúc chiều.”
Con tôi đáp lại: “ Ôi, Mẹ ơi, không sao đâu Mẹ. Dù vậy con vẫn yêu mẹ cơ mà!”
“Con của mẹ, mẹ cũng rất yêu con, con ạ. Và mẹ rất thích hoa , nhất là hoa màu xanh trời.”
Lúc ấy, một khoảnh khắc dịu dàng yêu thương làm cho chúng tôi thật gần gũi bên nhau.
Kể từ hôm đó, tôi đã học được rằng phải ân cần chăm chút người thân yêu cũng như để ý đến người xa lạ. Hay đúng hơn là chăm chút thương yêu người thân hơn người xa.
Như Sao
Last edited by baolunbeau; 10-19-2021 at 00:33.
The Following User Says Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
4 Chuyện Rất Ngắn Làm Thức Tỉnh Lương Tâm Người Đọc.
1- Chuyện thứ nhất: Duyên nợ đời người.
Xưa, có một chàng tên Thư Sinh, anh và bạn gái đã đính ước và chuẩn bị hôn lễ. Thế nhưng trước đó ít ngày, cô gái lại lấy người khác. Thư Sinh bị lâm bệnh nặng. Vừa khi đó, một du khách đưa Thư Sinh chiếc gương soi. Thư Sinh nhìn thấy xác một cô gái trôi dạt vào bờ biển, trên người cô ta không một mảnh vải che thân.
Người đầu tiên đi qua chỉ thoáng nhìn, lắc đầu rồi...đi. Người thứ 2 đi qua cởi chiếc áo khoác đắp lên người cô gái. Ngư ời thứ 3 đi qua bèn đào hố và xây mộ cho cô gái và cho biết cô gái xấu số đó chính là bạn gái anh ta trong kiếp trước.
“Anh là người qua đường thứ 2 đã đắp áo cho cô gái. Đ ến nay, cô gái gặp chỉ là để trả..nợ lòng tốt của anh thôi! Còn người mà cô ấy phải báo đáp cả đời đó chính là người thứ 3 đã chôn cất cô cẩn thận, người đó chính là chồng hiện tại của cô gái“.. Thư Sinh nghe xong liền tỉnh ngộ mọi chuyện.
Chuyện thứ 2: Tấm lòng trẻ thơ.
Một bà mẹ đơn thân vừa chuyển nhà, bà phát giác hàng xóm là một gia đình nghèo với bà góa và hai con. Một hôm bị cúp điện, bà đành thắp nến cho sáng. Lúc sau, có tiếng người gõ cửa, bà mở cửa ra...thì chính là con của hàng xóm. Đứa bé nói: “Kính chào Dì, Dì có thêm cây nến nào không?” Bà ta thầm nghĩ: “Gia đình này nghèo đến nỗi cả nến cũng không có ? Tốt nhất không cho,vì cứ cho như thế họ sẽ ỷ lại không chịu mua”.
Bà liền trả lời : “Không có!”. Đúng lúc bà ta đang đóng cửa, đứa bé cười và nói: “Con biết là nhà dì không nhiều nến..". Nói xong, nó lấy trong túi 2 cây nến và thưa: “Mẹ con sợ dì sống một mình thiếu nến..và sai con đem tặng dì 2 cây vì cúp điện lâu lắm"... Bà ta vừa tự trách vừa cảm động rơi nước mắt ôm chặt đứa bé!
3- Chuyện thứ ba: Chúng ta chỉ bất tiện khoảng 3 giờ thôi!
Ngày nọ...tôi may mắn mua được vé về quê ngoại cùng chồng, nhưng khi lên xe thì nhìn thấy một cô đang ngồi ở ghế của chúng tôi.Chồng tôi bảo tôi ngồi ở cạnh cô đó và chàng thì đứng. Tôi phát giác chân phải của cô này bị tật..có chút trở ngại, lúc đó tôi hiểu ra tại sao chồng tôi làm như thế. Chồng tôi đứng như vậy từ Đà Nẵng ra Huế mà không hề đòi lại chỗ của mình.
Khi đến nơi tôi nói với giọng điệu buồn xót xa: “Nhường ghế là việc nên làm, thế nhưng đường quá xa... sao anh không nói cô này luôn phiên đổi chỗ đứng và anh ngồi một lúc chứ?”.Chồng tôi nhẹ nhàng nói: Cô này bị tật sẽ chịu cả đời.. còn anh chỉ mỏi chân có 3 tiếng thôi mà em!
Nghe chồng nói vậy, tôi quá xúc động tự nghĩ:" Được chồng vừa tốt bụng vừa lương thiện là mãn nguyện lắm rồi!".. và lòng tôi trở nên ấm áp thêm nhiều.
Chuyện thứ 4: Luật nhân quả.
Một đêm khuya đầu Xuân, lúc mọi người đều ngủ say thì đôi vợ chồng tuổi đã cao bước vào khách sạn, đáng buồn.. là khách sạn hết phòng.
Nhân viên tiếp tân không đành lòng để cặp vợ chồng này phải lủi thủi tìm khách sạn khác, anh liền dẫn họ vào căn phòng và thưa: “Đây không phải là phòng tốt nhất nhưng ít nhất 2 bác cũng không phải đi tìm nơi khác nữa”.Cặp vợ chồng thấy căn phòng tuy nhỏ nhưng sạch nên quyết định ở lại.
Hôm sau, khi trả tiền phòng thì anh nói: “Hai Bác không cần trả tiền...vì phòng đó là phòng của cháu! Xin chúc hai Bác có cuộc du lịch vui vẻ”.
Thì ra, anh ta đã ngủ qua đêm tại quầy tiếp tân và nhường phòng cho họ. Cặp vợ chồng cảm động và nói: “Chàng trẻ à, cậu là nhân viên khách sạn tốt nhất mà chúng tôi gặp...Cậu sẽ được đền đáp”. Chàng trai cười rồi tiễn cặp vợ chồng.. và nhanh chóng quên chuyện này.
Bỗng một ngày, anh ta nhận được bức thư, trong đó có tấm vé đi du lịch New York, chàng xin phép chủ và đi. Khi đến đúng địa chỉ ghi trong thiệp là căn biệt thự to lớn sơn mầu xanh. À thì ra... 2 người mà anh ta tiếp đón trong đêm khuya đó chính là vợ chồng nhà tỷ phú! Ông bà này còn mua tặng một tiệm rượu lớn giao cho anh làm quản lý.
Kết luận:
NHÂN-QUẢ đều do mỗi người nắm giữ, khi chưa xác định được mục tiêu của đời.. thì hãy dùng tấm lòng của mình để làm việc gì đó. Mỗi một cá nhân đều là một nhân viên phục vụ, những điều lớn lao đều bắt nguồn từ việc ta phục vụ cho người khác: Phục vụ người khác nhiều bao nhiêu thì kết quả chúng ta nhận được càng nhiều bấy nhiêu!
Trên đường đời, có lúc ta cười sảng khoái, nhưng cũng có khi buồn đến nhỏ lệ!. Vui lúc thành công.. thì xin đừng tuyệt vọng khi gặp thất bại.
Giàu sang phú quý đến.. thì vui nhưng xin đừng khổ đau buồn chán khi thất bại nghèo túng! Trên đời không cần điều quá cao, chỉ cần làm việc bằng sự chân thật là đủ:
- Nếu muốn có bạn tốt, thì ta phải đối tốt với người khác.
- Nếu muốn vui vẻ và hạnh phúc, xin hãy cố gắng làm việc thiện giúp người khác, không lâu bạn sẽ nhận ra mình cũng đầy đủ và sung sướng!
Yêu người, yêu đời, cho đi yêu thương thì nhận lại thương yêu và rồi "nhắm mắt ra đi" trong thương tiếc của nhiều người...
Last edited by baolunbeau; 10-24-2021 at 09:45.
The Following User Says Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
Trong giấy khai sinh của tôi, dòng “họ và tên cha” ghi “đã mất”.
Tôi được định danh trên cuộc đời là đứa trẻ mồ côi, lớn lên trong tình thương của má và ngoại. Từ cấp một, tôi đã phải bươn chải nhiều hơn bạn bè. Dù nhỏ thó, tôi lên núi đốn củi, bứt mây, đi nhặt sắt vụn để bán kiếm tiền mua gạo. Suốt thời tiểu học, trung học, nhà tôi thắp đèn dầu với chiếc bóng hột gà leo lắt.
Nhưng khó quên nhứt là chuyện lớn lên không có ba. Ngoại hay nói, con không cha như nhà không nóc, rồi giải thích, gió mưa dễ lồng vào làm ướt hết những ai trong đó. Đúng là nhà không có nóc, chuyện nặng nhọc gì má và tôi cũng tự làm, có khi mệt mỏi đến muốn ngã gục.
Cũng những ngày Trung thu thế này, năm tôi lên tám, má tự tay làm cho chiếc đèn ông sao mà giấy dán là tập vở cũ của năm học trước. Má bán mấy nải chuối cau cho người ta cúng rằm để mua cho tôi chiếc áo trắng, vì trung thu cũng là tháng tựu trường. Lớn thêm một chút, tôi tự làm lồng đèn để chơi. "Không có ba, con phải ráng nhiều hơn", má nói.
Khi mới 15 tuổi, dù thương con, má cũng ngậm ngùi để tôi lặn lội từ Quảng Nam ra Đà Nẵng làm thuê lấy tiền đi học tiếp. Điểu, bạn đi cùng cũng mồ côi như tôi, chỉ khác là mất mẹ. "Tụi mình cứ đi đại, xin chỗ mô đó để làm", Điểu nói, tôi gật đầu. Chuyến xe đò chở hai đứa chòng chành qua Đèo Le ngoằn ngoèo, đường tỉnh lộ 610 hồi đó chưa rải nhựa, xe đò cũ kỹ vài lần chết máy.
Đà Nẵng đông người đến chóng mặt. Quán cơm gà đường Nguyễn Chí Thanh chịu tuyển hai đứa tôi vào làm trong hơn hai tháng hè, lương 200.000 đồng một tháng. Bà chủ gần 70, giọng Huế bảo: "Tụi bây còn nhỏ vậy làm có nổi không, thức khuya dậy sớm đó nghe". Chúng tôi hứa đáp ứng mọi tiêu chí của bà, "vậy thay đồ tươm tất xuống phục vụ bàn".
Đôi chân tôi mỏi nhừ khi đứng chờ khách vào sẽ tiến lại hỏi dùng gì, ghi thực đơn, đem xuống nhà bếp. Hết khách thì chia nhau rửa ly chén, chà toilet, quét dọn phòng ăn, dọn rác. Gần nửa đêm mọi việc mới xong. Sáng hôm sau, năm giờ tôi đã được "dựng" dậy, giặt khăn lau bàn, lau nhà, sơ chế gà, rau, củ quả, cọ rửa.
Tôi dần thích nghi với những lời sai biểu của gia đình chủ. Đứa nhỏ bằng tuổi tôi kêu: "Ê, Long, bưng tao ly nước". Bà chủ nhắc liên tục: "Tụi bây rửa ly không sạch là bị trừ lương, đứa nào bưng bể cái chén là mất 10 ngàn đồng".
Phải thức khuya dậy sớm liên tục, chúng tôi làm trong tâm thế sợ hãi vì quá mệt và lỡ bị trừ lương thì còn đâu để trang trải tiền học. Rất nhiều lần, tôi khủng hoảng tinh thần khi hỏi: "tại sao ba lại không nuôi mình?".
Sau mùa hè đó, chỉ có tôi về quê tiếp tục việc học, Điểu ở lại Đà Nẵng làm thuê. Tôi may mắn hơn vì má và ngoại đã quyết định "khó mấy cũng ráng cho thằng Long học".
Cho đến tận bây giờ, gia đình tôi chưa bao giờ khá giả. Khó khăn rèn cho tôi sự kiên nhẫn và cũng dạy tôi "Không buồn thương sao biết chuyện con người?", như Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết.
Đại dịch khiến 1,5 triệu trẻ em trên toàn cầu đã mất đi người nuôi dưỡng. Con số chưa đầy đủ và chỉ riêng tại TP HCM, hơn 1.500 học sinh phải mồ côi. Con số ấy làm tôi cảm thấy chới với một lần nữa, như lúc tôi đã lớn và biết được ba tôi chưa chết. Ông chỉ chối bỏ tôi từ lúc chưa sinh ra và cũng chưa bao giờ thấy mặt tôi. Với tôi, ông cũng như không còn vì không hiện diện suốt quãng đời khó khăn nhứt của tôi.
Má tôi đã kịp lấp đầy khoảng trống đó bằng tình yêu vô điều kiện. Nhờ đó, tôi biết chắc rằng, hạnh phúc hoàn toàn tồn tại trong những ngôi nhà khuyết một người trụ cột nếu ta không may không đủ cả cha mẹ như người khác.
Liên Hợp Quốc khuyến khích trẻ em bị mất người nuôi dưỡng được sống với họ hàng gần nhất như ông bà, cô dì chú bác, cũng như ông bà ta có câu "sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì".
Trước Covid, Việt Nam đã có tới 157.000 trẻ mồ côi cả cha và mẹ, trẻ bị bỏ rơi và không nơi nương tựa trong tổng số 1,4 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Tôi mong sẽ có nhiều gia đình Việt Nam dang tay đón trẻ mồ côi về nuôi, nếu chúng cũng không còn họ hàng gần có thể cưu mang tốt nhất.
Covid là dịp để phát huy văn hóa nhận con nuôi ở nước ta thành việc thông thường hơn, như xã hội phương Tây đã phát triển nhiều năm trước. Đó là lý do nhiều nước châu Âu và Mỹ hiện không còn các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi tập trung toàn thời gian. Chính sách quản lý trẻ mồ côi và nhận con nuôi hoàn thiện đã giúp những đứa trẻ mất cha mẹ mau chóng có mái ấm mới. Sau khi có gia đình mới, trẻ hoàn toàn có thể theo học tại các cơ sở tập trung như trường nội trú theo nhu cầu.
Tại Việt Nam, chính phủ, những tổ chức xã hội công và tư ngay bây giờ có thể phát động chiến dịch nhận con nuôi dù đó là dì, chú, bác hay ông bà của các cháu hoặc bất kỳ ai có tấm lòng và thời gian cho một cuộc đời khác. Chúng ta có thể tìm hiểu nhu cầu của từng đứa trẻ mất cha, mẹ do Covid để trao cho em điều cần nhất.
Đến tận bây giờ, tôi vẫn không thích những lời thương hại, "tội nghiệp, nó mồ côi; thằng nhỏ không có ba, thôi giúp nó"... Câu nói như xát muối vào lòng. Rất nhiều lần, tôi bị gọi đi để nhận những món quà thời vụ, những chăm lo "phong trào", được giúi vào tay vài món quà tượng trưng và chụp hình. Nhưng hồi đó tôi còn nhỏ, chứ bây giờ tôi sẽ từ chối nhẹ nhàng.
Nỗi sợ nhất trong đời này không phải nghèo khó mà là không được thuộc về nơi nào có tình yêu thương. Cách chúng ta đối xử với trẻ thiệt thòi bây giờ cũng chính là kết quả ta sẽ nhận về trong tương lai.
Lưu Đình Long
Last edited by baolunbeau; 10-30-2021 at 14:42.
The Following User Says Thank You to baolunbeau For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.