Cái tin ca sĩ hải ngoại Tuấn Vũ, một biểu trưng của ḍng nhạc “sến” Sài G̣n cũ, làm một hơi 7 đêm diễn chật cứng người ở Hà Nội thật đáng ngẫm nghĩ.
Bảy đêm đó không ở một pḥng trà tồi tàn, mà công diễn tại Nhà Hát lớn Hà nội, nơi được xem là Carnergie Hall, một thánh đường âm nhạc của Việt Nam.
Không phải chuyện đùa!
Xin khoan trách tôi có ư miệt thị v́ đă dùng chữ “sến” ở đây. Với tôi, “sến” hay “sang” chỉ là khái niệm rất chủ quan. Hay nói theo ngôn ngữ marketing hiện đại, để chỉ các phân khúc âm nhạc khác nhau dành cho những đối tượng công chúng khác nhau. Hồi đó ở Sài G̣n, các osin nhà nghèo, đi gánh nước mướn thường tụ tập ở ṿi nước công cộng (phông ten nước) để buôn chuyện, nên mới có danh từ “Ma ri đờ la Phông ten” để trêu chọc họ. Lại có cô đào Marie Schell mới nổi, nên người Sài G̣n gọi tắt họ là Mari Sến cho vui cửa vui nhà. Chính các osin hay giới b́nh dân thời đó là thính giả trung thành của một công thức âm nhạc: bolero hay rumba, diễn đạt bằng âm hưởng dân ca luyến láy, giọng mũi th́ càng tốt.
Âm nhạc ấy, nhiều người gọi là “nhạc sến” theo nghĩa miệt thị chê bai. Nhưng nó vẫn sống, sống dai dẳng hơn nửa thế kỷ. Nó vượt qua những cách biệt về văn hóa, địa dư để làm một hơi 7 đêm diễn kỷ lục ở “Opera House” Hà Nội. Kỷ lục này, các maestro âm nhạc bác học ắt phải thèm muốn ganh tị.
Dù “sến” hay “sang”, muốn sống được, âm nhạc đó phải đi vào ḷng người. Không ai có thể bắt một cô sen, anh xích lô máy… phải thổn thức, trầm ngâm với những cung bậc theo kiểu:
“mộng về một đêm trăng thanh, anh th́ thầm ngày đó yêu em”
hay
“đêm mờ trăng úa làm vỡ hồn ta” được.
Nó cực kỳ ngượng nghịu và khiên cưỡng như ép Beethoven phổ nhạc thơ Tú Mỡ (?).
Nhạc “sến” sống lâu v́ nó là nỗi buồn, mong nhớ, thổn thức của giới b́nh dân Nam bộ theo kiểu:
“ước ǵ nhà ḿnh chung vách, ước ǵ ḿnh đừng ngăn cách, hai đứa ḿnh thức trắng đêm nay”…
Hay có vần có điệu như thế này:
“Con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc thề, ngơ hồn nghe tái tê.
Anh làm thơ vu quy, khách qua đường lắng nghe chuyện t́nh ta đă ghi”…
Cứ vậy mà yêu đương, mà nhung nhớ, mà nghêu ngao câu vọng cổ nối tiếp bằng điệu bolero mùi mẫn…
Người trí thức có thể không thích nó, nhưng cũng không đến mức ghét bỏ nó thậm tệ.
V́ nó thật, dù không “sang”!
Những t́nh cảm rất thật thà và b́nh dân đó, dễ dàng bị các bậc “nhạc phiệt” chụp cho cái mũ hạ lưu. Hay tệ hơn, việc “anh khoét bức tường, anh qua thăm em” là quan hệ nam nữ bất chính, thiếu rèn luyện tu dưỡng… ǵ ǵ đó.
Nhưng nói ǵ th́ nói, âm nhạc đó vẫn sống với quần chúng. Nó làm được điều mà cái gọi là “âm nhạc hàn lâm” thúc thủ, là sự yêu mến và tồn tại trong tâm thức người nghe nhạc. Nó không bị bó khuôn bởi những công thức t́nh yêu kiểu anh bộ đội th́ phải yêu chị công nhân, cậu thanh niên xung phong phải yêu cô dân công tải đạn. Và hễ yêu nhau th́ phải nắm tay tăng gia sản xuất, xây dựng đất nước đẹp giàu.
Những công thức ấy tốt, mẫu mực! Nhưng t́nh yêu th́ từ chối mọi khuôn dạng. T́nh yêu không cần đo ni đóng giày cho mực thước. Âm nhạc cũng thế, nhất là nhạc t́nh.
Cái gọi là “âm nhạc cổ điển đương đại Việt” cũng thất bại với điều mà “Tôi yêu tiếng nước tôi”, “Màu tím hoa sim”… và vô vàn ca khúc khác đă làm được là đẩy dân tộc tính lên tầm nhân loại. Thật vậy, hăy nghe lại các kiệt tác Mazurka, Polonaise, Berceuse… của Chopin để thấy âm hưởng dân ca Ba Lan đầy ắp trong đó, một cách hoa mỹ và sang trọng. Rất nhiều ví dụ như thế để thấy: đúng như người ta nói, “âm nhạc cổ điển bắt nguồn từ nhân dân”, từ “tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi”, để cùng “khóc cười theo vận nước nổi trôi”. Bằng cách đó, nhân loại có một nền âm nhạc cổ điển bất tử, vượt ra khỏi ranh giới không gian, địa lư, thời gian. Nói dân tộc tính mang tầm nhân loại là vậy!
Tính dân tộc cao ṿi vọi đó, người ta không thấy trong những bản concerto nhạt nhẽo như “Quê ta vào mùa”, bản hợp xướng “Cánh đồng năm tấn”, giao hưởng dành cho đàn tranh… mà người ta rổn rảng gọi đó là cổ điển đương đại Việt.
Thời chiến, người ta cần những âm nhạc ấy, để “xốc” lại tinh thần. Thời b́nh đă hơn 30 năm, những cảm xúc ấy trở nên thừa thăi, thậm chí vô duyên. Người ta quay về với những t́nh tự rất giản dị theo kiểu “nhà nàng ở cạnh nhà tôi”, đục tường khoét vách để t́nh tự cùng nhau (cho nó nhanh và giản tiện)… Anh xích lô th́ thích mời chị osin đi ăn bún ốc chiều cuối tuần, thay v́ diện tuxedo đi nghe hoà nhạc cổ điển. Công chúng b́nh dân có khẩu vị giản dị của ḿnh, họ ghét sự pha trộn lung tung. Thêm một lư do để “nhạc sến” lên ngôi, lấp đầy khoảng trống vô vị và giả tạo mà các “dự án âm nhạc” ầm ĩ không làm được.
Âm nhạc đích thực thời nào cũng thế, phải mang hơi thở của đời sống. Âm nhạc đích thực không túm cổ, điểm mặt quần chúng để mắng mỏ: “anh không nghe tôi là tai anh hỏng”. Nhạc “sến” đă đồng hành với người dân, hít thở cùng họ qua nhiều thập niên. Nó vẫn sống, mặc dù chưa bao giờ vươn đến tầm nhân loại.
Thật th́ sống, đẹp mà giả tạo th́ chết yểu! Đó là câu trả lời rất rơ ràng của công chúng phía Bắc qua bảy đêm diễn cháy vé vừa qua.
* * *
Góp ư của Linh mục Lê Quang Uy:
(06/01/2011)
Từ bé cho đến 30 tháng 4, ḿnh được bố và các anh chị cho nghe toàn là nhạc của Phạm Đ́nh Chương, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Văn Phụng, Cung Tiến, và trẻ trung hơn có Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Trịnh Công Sơn… Tự nhiên có cái ǵ đó coi thường nhạc Chế Linh, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh…
Nhưng rồi, một lần đầu năm 1999, đang làm Hiệu Trưởng BTVH của Tổng Đội 1 TNXP đóng giữa rừng và thung lũng Tà Nung, sát với khu KTM Lâm Hà, gần Tết, nhà th́ bố mới chết, anh đi tù, gia đ́nh chỉ c̣n mẹ và các chị gái mưu sinh vất vả từng ngày. Ḿnh ở trên đơn vị nhớ nhà thương mẹ kinh khủng.
Chợt có chú bé TNXP có được cái cassette mở nghe bài “Xuân này con không về” với giọng ca Duy Khánh, ḷng ḿnh chùng xuống, mon men t́m đến khu trại của anh em TNXP ở lại trực chiến không được về phép. Ḿnh bắt gặp mấy em TNXP lúc thường bặm trơn ngổ ngáo, mở miệng là văng tục chửi thề, rất dễ gây sự ục nhau khi rượu vào, thường đổ ra Đà Lạt là hỗn chiến với dân xe thổ mộ và xe ôm, thế mà tự dưng bây giờ mềm như sợi bún, ôm nhau khóc sướt mướt. Thế rồi chính ḿnh cũng thấy nao ḷng và nghèn nghẹn nơi cổ họng.
Quả thật nhạc Duy Khánh dành cho lính chiến trước 75 bây giờ lại quá hợp với TNXP và bộ đội, toàn là thanh niên gốc Sàig̣n và miền Đông, miền Tây… Từng lời như trôi vào trong da trong thịt trong máu trong xương ḿnh và làm nước mắt ứa ra. Nó nói thay ḷng ḿnh những điều ḿnh muốn nói mà nói không ra…
Sát Tết th́ ḿnh được đặc cách về phép 1 tuần thăm mẹ, ḿnh lủi lên xe Jeep để rời đơn vị như thấy ḿnh có lỗi với học tṛ TNXP của ḿnh phải ở lại… Trong đầu cứ dội đi vọng lại giọng hát Duy Khánh: “Con biết không về mẹ chờ em trông, nhưng nếu con về bạn bè thương mong…”
Lại đến Tết năm 2002, mười ba năm sau, ḿnh về Gx. Khiết Tâm ở Thủ Đức dâng Lễ Giao Thừa cho các em công nhân Xa Quê. Trước Lễ các em tự dàn dựng một vở kịch diễn ngay trên Cung Thánh Nhà Thờ. Kịch bản có cảnh về quê, một số đông ở lại buồn lắm, số các bạn về được cứ nấn ná áy náy măi. Có bạn ra đến bến xe rồi chợt nhớ móc ra đưa cho bạn ở cái walkman, bảo để mày nghe mấy ngày Tết đỡ buồn. Nhóm ở lại ngồi bên lề đường, bạn giữ máy mới bấm nghe, không ngờ đó là “Xuân này con không về”. Giọng Duy Khánh vừa cất lên, hàng ngàn bạn công nhân (đa số dân Bắc các tỉnh Nam Định, Ninh B́nh, Hải Dương, Thái B́nh, Bắc Giang) đang ngồi trong Nhà Thờ cùng bật lên hát theo, vừa hát vừa khóc…
Ḿnh mặc áo Lễ đứng ở cuối Nhà Thờ chờ diễn kịch xong là vào Thánh Lễ, ḿnh cũng khóc ngon lành…
Hóa ra nhạc lính chiến bây giờ lại ăn với cả dân Xa Quê. Thú thật, ăn cả vào ḷng cánh… Tu Sĩ Linh Mục mồ côi cha mẹ, xa quê hương bản quán như ḿnh…
Đêm nay, 2g30 khuya, vừa viết comment này, ḿnh vừa vào Google t́m, mới biết “xuan nay con khong ve” có đến 11.600.000 kết quả được t́m trong 0,11 giây ! Kinh hoàng chưa ? Lại nghe được giọng Quang Lê với ḥa âm phối khí rất “sạch”, ḿnh mới thấy trong hàng ngàn bài hát sến vẫn có không ít những bài bất hủ.
Cám ơn “anh” Duy Khánh đă hát, cám ơn “anh” Phương đă viết bài, cám ơn tất cả đă đồng cảm… Sắp Tết nữa rồi…
* * *
Bài đọc thêm:
Bàn về nhạc sến của Nguyễn Văn Tuấn
(Chủ nhật, 16-5-2010)
Tôi không phải là fan của nhạc sến, nhưng thỉnh thoảng vẫn nghe nhạc sến. Thật ra, tôi thấy rất khó phân biệt đâu là nhạc sến, và đâu là nhạc sang, bởi v́ lằn ranh quá mong manh, nhất là trong bối cảnh âm nhạc Việt Nam. Hôm nay thấy trên báo “Sức khỏe và Đời sống, cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế, có bài “Nhạc sến biến dị” của Vương Tâm bàn về nhạc sến thời trước 1975 ở trong Nam. Chúng ta phải ngạc nhiên một tờ báo y tế của Bộ Y tế lại quan tâm đến… nhạc sến! Cũng là một bài báo lạ.
Nhưng trước hết, chúng ta cần phải biết “sến” là ǵ và nhạc sến là loại nhạc nào? Trong bài viết, tác giả không trả lời hai câu hỏi đó. Thay vào đó, tôi để ư đến đoạn như “Riêng ḍng nhạc Sến, những điệu thức Bolero, Ballade… gắn với nội dung lời ca bi lụy, thất t́nh, đau khổ về số phận trớ trêu của kiếp nghèo, tập trung vào những chia ly và mất mát trong t́nh yêu. Lời hát năo nề, than văn cầu mong được bù đắp. Nhạc th́ được phát triển giàu chất tự sự lê thê, buồn bă khai thác âm hưởng cổ nhạc theo hướng yếm thế, ru ngủ ḷng người tạo nên cảm giác chán chường bế tắc.”
Tôi thấy một đoạn văn ngắn này có nhiều vấn đề cần phải xem xét lại. Trước hết, tôi không hiểu “điệu thức” là ǵ. C̣n nhạc th́ làm sao giàu chất tự sự được? Có lẽ tác giả muốn nói đến ca từ giàu chất tự sự chăng?
Điều làm tôi ngạc nhiên là tác giả cho rằng nhạc sến khai thác cổ nhạc! Nên nhớ rằng cổ nhạc như vọng cổ viết theo điệu ngũ cung (ḥ, xự, xang, xê, cống — tương đương với ngũ hành là kim, mộc, thủy, thổ, hỏa), không phải như loại “tân nhạc” với thể điệu boléro có 7 nốt (do, re, mi, fa, sol, la, si). Mấy năm sau này tôi thấy có nhạc sĩ (như Minh Vy chẳng hạn) có công soạn tân nhạc nhưng mang âm điệu ngũ cung (như ca khúc Vọng cổ buồn chẳng hạn), và theo tôi đó là một nỗ lực rất đáng khen và khuyến khích.
C̣n tác giả viết nhạc sến là những bài có điệu boléro, ballade, … chính là lấy từ chữ của một bài viết trên “Thanh niên” vào năm 2005. Trong bài báo trên tờ Thanh niên, tác giả Hà Đ́nh Nguyên viết: “Chưa có một quy định “chuẩn” nào để phân biệt bản nhạc này thuộc loại “sến”, bản kia không “sến” nhưng không biết do đâu mà hầu như tất cả các bản nhạc được sáng tác trước 1975 – nhất là những bản có điệu boléro, rumba, ballade… đều bị quy là nhạc sến (tiếng “sến” được hiểu theo nghĩa dè bỉu, mỉa mai, khinh thị…).”
Nếu những cho rằng chia li và mất mát trong t́nh yêu là “sến”, th́ tôi không biết tác giả có xem nhật kí của Bác sĩ Đặng Thùy Trâm là sến không? Tôi e rằng định nghĩa “sến” của tác giả chưa ổn mấy. Thật vậy, nếu định nghĩa theo nội dung (như đau khổ về số phận, trớ trêu của kiếp nghèo, những chia ly và mất mát trong t́nh yêu) th́ tôi nghĩ một số bài “nhạc đỏ” cũng có thể xem là … sến, v́ cũng có những chia li, nhưng trắc trở trong t́nh yêu, thân phận trong những bài “nhạc cách mạng”.
Điều làm tôi cực ḱ ngạc nhiên là tác giả liệt kê ca khúc Giết người trong mộng của nhạc sĩ Phạm Duy vào hàng nhạc sến! Không hiểu tác giả bài viết có biết qua hay có nghe qua ca khúc này chưa mà nói đó là một bài nhạc sến. Xin nói cho tác giả biết rằng ca khúc này thật ra là Phạm Duy phổ từ thơ của Hàn Mặc Tử đấy. Trong bài Hành khất, thi sĩ Hàn Mặc Tử viết:
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?
và nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy lấy hai câu này để viết thành một ca khúc rất hay theo nhịp 4/4. Bài đó rất thịnh hành thời trước 1975. Tôi chưa nghe ai nhận xét rằng đó là một bài nhạc sến cả.
Tưởng cần nhắc lại rằng trước đây cũng có một ông nhạc sĩ trong nước (là con của cụ Nguyễn Xiển) viết rằng ca khúc Mùa thu chết của Phạm Duy là xuyên tạc cách mạng tháng 8! Chưa hết, ông nhạc sĩ này c̣n viết rằng Phạm Duy từng là bộ trưởng văn hóa thời Nguyễn Văn Thiệu! Đúng là “hết ư”. H́nh như mấy ông viết mà không chịu t́m hiểu hay làm nghiên cứu về chủ đề ḿnh viết.
Đến đây th́ chúng ta cần phải đặt câu hỏi “sến” là ǵ? Giáo sư Cao Xuân Hạo giải thích nguồn gốc chữ sến như sau: “Theo tôi, gốc của từ ‘sến’ phải bắt đầu từ chữ ‘sen’ trong nghĩa con sen, là đứa ở, con ở. [...] Từ ‘sen’ đọc trại thành ‘sến’ bởi sự khinh bỉ, là tầng lớp thấp, văn hóa kém. C̣n nếu ứng dụng vào văn chương, nghệ thuật th́ ám chỉ khẩu vị thấp hèn, ít có giá trị. Bàn riêng về chữ ‘sến’ trong ‘nhạc sến’, tôi nghĩ nghĩa gốc cũng vậy, không thay đổi nhiều lắm“. Có thể xem thêm bài của Hoàng Phủ Ngọc Phan để biết thêm “câu chuyện”.
Báo Thanh Niên viết tiếp: “[…] Thôi th́, hễ loại nhạc nào mà các chị gánh nước mướn, các anh đạp xích lô, thợ thuyền (gọi chung là giới b́nh dân) khoái hát th́… đó là “nhạc sến”! Thật vậy, chúng ta chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh nào để phân định rạch ṛi giữa nhạc sến và nhạc sang. Trước năm 1975, người ta ngầm hiểu với nhau rằng “nhạc sến” chỉ những ca khúc “b́nh dân”, với điệu nhạc như vừa nói trên (boléro, rhumba, ballade, có khi cả slow), lời nhạc đơn giản đi thẳng vào những câu chuyện t́nh cảm éo le, t́nh nhân xa nhau (em th́ ở “hậu phương”, c̣n anh ra “tiền tuyến”), hay chuyện cha mẹ không đồng ư cho cưới v́ anh nghèo mà em th́ giàu sang, v.v…
Theo tôi, nhạc sến có 3 đặc điểm chính như sau: nhạc điệu đơn giản, cách hát th́ sướt mướt, và lời giản dị. Đặc điểm thứ nhất th́ quá rơ ràng, v́ phần lớn những bài ca mà người ta cho là sến thường dễ chơi. Chỉ cần một cây guitar là đủ. C̣n âm điệu th́ chỉ cần một hợp âm cũng đủ, hay nhiều lắm là 3 hợp âm. Thử so sánh bài Người yêu cô đơn với bài Áo anh sứt chỉ đường tà th́ thấy bài nào dễ chơi hơn!
Đặc điểm thứ 2 là cách hát thường ngọt ngào, sướt mướt, và đau khổ. Không có cách diễn này th́ không phải là nhạc sến. Nghe Chế Linh, Thanh Tuyền, Phương Dung, Hoàng Oanh, Thanh Thúy, v.v… th́ sẽ thấy đặc tính này. Riêng Thanh Thúy mà ca nhạc của Trúc Phương th́ ôi thôi nó mùi mẩn làm sao (và sến nữa)!
Đặc điểm thứ 3 có lẽ là “lợi hại” nhất là lời ca đơn giản, đi thẳng vào vấn đề. Nhạc sến không có những câu triết lí cao siêu, mà toàn là những câu chữ ngay cả anh tài xế xích lô và chị bán hàng cá có thể hiểu được:
Tại anh đó nên duyên ḿnh dở dang
em nào mộng mơ quyền quư cao sang
hay
Một hôm tôi đên t́m em
để từ giă lên đường
Gửi lại phố phường
chuyện đôi ḿnh thương mai xa cách ngàn phương
Cuộc đời sương gió,
chiến chinh nơi miền xa qua những vùng xa lạ quá
Quê hương bao la,
những chiều đóng quân ven rừng,
gặp hoa trắng ngày xưa thương em nói sao cho vừa
(bài Người em xóm đạo)
Làm sao bảo anh xích lô và chị bán bún mắm hiểu được nhưng câu như sau:
Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi
hay
Ôm ḷng đêm nh́n vầng trăng mới về
nhớ chân giang hồ
Ôi phù du
từng tuổi xuân đă già
một ngày kia đến bờ
đời người như gió qua
hay
Từ giă hoàng hôn trong mắt em
tôi đi t́m những phố không đèn
Thật ra, có mấy người gọi là (hay tự xưng là) “trí thức” hiểu được những câu trên? Tôi nghĩ không nhiều đâu. Có thể họ nghĩ rằng họ hiểu, nhưng trong thực tế th́ họ không hiểu. Có phải viết ra những câu chữ làm người ta phải ṿ đầu bức tóc để suy nghĩ nó có nghĩa là ǵ là sang chăng? Tôi nghi ngờ lắm.
Người ta tưởng rằng phải dùng từ ngữ của Tây, của Tàu th́ mới sang, c̣n nói thẳng như người Nam bộ là … sến. Đă có quá nhiều người nói những danh từ sang, những thuật ngữ khoa học, nhưng nếu hỏi thật th́ có bao nhiêu người nói những thuật ngữ đó hiểu họ nói cái ǵ hay hiểu thuật ngữ đó có nghĩa là ǵ. Kinh nghiệm của tôi cho thấy con số hiểu không nhiều đâu. Nói đến đây tôi nhớ đến ngày xưa khi học toán, thầy cứ giảng “tuyến tính” và chúng tôi cứ cấm đầu cấm cổ nói “tuyến tính” mà chẳng hiểu nguồn gốc của thuật ngữ này. Đến khi sang đây, sách tiếng Anh viết rơ ràng là straightline (đường thẳng). Ôi, dễ hiểu làm sao! Đường thẳng th́ nói huỵch tẹt ra là đường thẳng, mắc mớ ǵ mà nói tuyến tính để làm đau đầu học tṛ? Đọc sách Kinh Dịch của người Việt dịch tôi chẳng hiểu ǵ, nhưng đọc sách dịch của người Tây phương dịch th́ rất dễ hiểu. Nhạc sến có ca từ đơn giản đi thẳng vào vấn đề, và theo tôi xu hướng đó không có ǵ là có hại cả. Vậy th́ xin đừng trách sến nhé!
Trong bài báo trên “Sức khỏe và Đời sống”, tác giả nói đến ảnh hưởng tiêu cực của nhạc sến như sau: “Những nỗi đau yếm thế, cô đơn và than văn trong nghèo túng là màu sắc điển h́nh cho ḍng nhạc Sến đă làm ảnh hưởng tới tâm lư người nghe và làm thui chột những khát vọng lớn lao và hướng tới tương lai.” Nhưng rất tiếc tôi không thấy tác giả trưng bày bằng chứng cho câu phát biểu này. Theo tôi th́ nhạc sến cũng có công làm giàu ngôn ngữ Việt đó chứ. Xin dẫn chứng một vài bài:
Con đường xưa em đi
vàng lên mái tóc thề
ngơ hồn dâng tái tê
anh làm thơ vu qui
khách qua đường lắng nghe
chuyện t́nh ta đă ghi
(bài Con đường xưa em đi)
hay
chiều nào nâng li bôi
t́nh vừa mới chấp nối
chia li mà không nói nhau một lời
để rồi bao năm sau
phong sương ṃn vai áo
nhớ cố nhân muốn t́m tạ ḷng nhau
(bài Chuyện đêm mưa)
cũng có những ca từ trữ t́nh ra phết đó chứ.
Đọan này của tác giả làm tôi sợ nhất: “Các nhà quản lư văn hóa của ta rất cân nhắc trong việc cấp phép cho các ca khúc này được phổ biến ở Việt Nam. Nhưng đây là chỉ cấm đối với các ca sĩ trong nước chứ các chương tŕnh lậu ở hải ngoại hàng ngày vẫn được đưa về.” Nghe cứ như là thời bao cấp. Câu phát biểu c̣n hàm ư kiểm soát và quản lí tư tưởng văn nghệ của người dân. Nếu tư tưởng là tự do hoạt động cao quí nhất của con người th́ khống chế và kiểm soát tư tưởng là một hành động bỉ ổi nhất, bởi v́ hành động đó làm cho người ta trở thành nô lệ (do nô lệ là người mất tự do tư tưởng). Có lẽ tác giả nghĩ rằng phải kiểm soát định hướng sáng tác, cơ quan tuyên truyền bảo phải thích hoặc ghét cuốn sách nào, khúc nhạc nào, phim nào, th́ người dân sẽ thích hoặc ghét những sách đó, khúc nhạc đó, phim đó. Tôi nghĩ rằng đây là một suy nghĩ sai. Trong thực tế, chúng ta thấy sau 1975, nhiều ca khúc sáng tác trước 1975 ở miền Nam bị cấm lưu hành, nhưng trong xă hội th́ những ca khúc này vẫn sống và sống mạnh, thậm chí c̣n lan tràn ra tận ngoài Bắc. Thử vào các quán karaoke th́ biết ngay. Theo tôi, không nên t́m cách pha trộn văn chương với tuyên truyền, hay biến nghệ thuật thành chính trị được. Ngày xưa, Mạnh Tử từng nói “quân chi thị thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù” (Vua mà coi bề tôi như cỏ rác th́ bề tôi coi vua như khấu thù). Bây giờ ḿnh không có vua với thần dân, nhưng có mấy “ông văn hóa” và người dân, và tôi nghĩ câu nói vẫn c̣n tính thời sự của nó.
Nguyễn Văn Tuấn
Nguồn: blog Dr. Nikonian
NguoiVietBoston