| 
			
			 R10 Vô Địch Thiên Hạ 
			
			
			
				
			
			
				 
				Join Date: Nov 2007 
				Location: LCN 
				
				
					Posts: 55,869
				 
				 
	Thanks: 40 
	
		
			
				Thanked 564 Times in 514 Posts
			
		
	 
	Mentioned: 2 Post(s) 
	Tagged: 0 Thread(s) 
	Quoted: 1 Post(s) 
				
				
  
    Rep Power:  75
  
  
  
				
				     
			 
	 | 
	
	
	
		
		
		
		
			
			Một người có đầu óc b́nh thường chắc  chẳng bao giờ nói với bạn đời của ḿnh rằng: "ḿnh ơi, tôi đi ngoại t́nh  nhé", hay la toáng lên cho bà con xóm giềng biết "tôi chán vợ (chồng)  của tôi quá, tôi vừa đi ngoại t́nh về đây", và cũng rất ít kẻ chịu thú  nhận với đối phương hành vi vụng trộm của ḿnh.   
     		Đây là một trở ngại vô cùng lớn nếu muốn h́nh sự hóa hành vi ngoại t́nh.
 Dù  muốn tố cáo một người phạm tội ngoại t́nh (nếu ngoại t́nh là tội phạm)  hay đơn giản tố cáo vợ (chồng) ngoại t́nh để làm lư do ly hôn, th́ việc  này cũng đều rất khó v́ bán chất vấn đề ngoại t́nh là sự vụng trộm, lén  lút nên thường được che đậy rất kín, rất khó phát hiện, trong thực tế  cuộc sống nhiều người phản bội, vợ, chồng nhưng khi về nhà chung chăn  gối họ diễn rất giỏi, có khi c̣n “chu đáo” hơn nên  rất khó nhận biết kẻ  bội bạc; người bị phản bội thường là người biết sau cùng câu chuyện mà  ḿnh là nạn nhân. 
 
 Cũng  phải nói thêm khía cạnh cho dù đau khổ giận giữ đến mấy  nhưng v́ họ có  những đứa con và  t́nh nghĩa vợ chồng nên việc đưa ra những bằng chứng  để tố cáo là rất khó khăn, rất nặng nề; việc xác định thu thập, cung cấp  chứng cứ không dễ, mặt khác khi biết chuyện  th́ thường ngại tố v́ xấu  chàng hổ ai, đến khi chứng minh được hậu quả làm gia đ́nh ly hôn, tan vỡ  th́ chẳng c̣n ǵ mà nói, giải pháp tốt nhất là “giải tán”là xong. 
 Nh́n  ra thế giới, ngay cả ở những quốc gia có tŕnh độ tố tụng phát triển,  việc chứng minh trong tố tụng về ngoại t́nh cũng rất khó khăn và gây  nhiều tranh căi, bởi v́, như nhận xét của nhiều thẩm phán, ít khi có  nhân chứng trong các vụ án về ngoại t́nh.  
     
    
  Chúng ta hăy t́m hiểu qua một chút về điều này. 
 Người  ta có thể đưa ra những bằng chứng trực tiếp, hoặc gián tiếp để tố cáo.  Bằng chứng trực tiếp, chẳng hạn, người vợ sinh một  đứa con không phải  là con của chồng. Trong trường hợp này, vấn đề là chứng tỏ không có phụ   hệ, mà ngày nay trong nhiều trường hợp có thể chứng tỏ bằng giám định.  Song vấn đề là, không phải ai cũng có đủ chi phí để tiến hành việc giám  định này, cũng như không phải luật pháp lúc nào cũng bắt buộc điều đó  (đương sự có thể từ chối).  
    
    
  Ngoài  ra, bằng chứng phi tiếp cận (non-access proof) trong thời gian hoài  thai cũng có thể chứng tỏ người chồng không phải là cha của đứa con  (chồng không gần gũi vợ trong thời điểm bắt đầu thụ thai). Tuy nhiên, ở  đây có hai chướng ngại: Thứ nhất, hầu như không hề có nhân chứng nào  được cho là hợp pháp trong vấn đề này (không một người phối ngẫu nào có  thể làm chứng mà bằng chứng đó có thể khiến người con trở thành con tư  sinh - quy tắc Lord Mansfield)  
    
    
  Thứ  hai, thời gian mang thai của người mẹ không phải lúc nào cũng cố định.  Bằng chứng chỉ gồm có sự phi tiếp cận của người chồng có thể trong  khoảng thời gian lên tới 355 ngày trước khi đứa con sinh ra.  Trường hợp  bắt quả tang đối phương đang ngoại t́nh cũng có thể được coi là một  chứng cứ trực tiếp, song rất hiếm khi xảy ra, một là v́ tính lén lút của  hành vi này như đă nói ở trên, hai là do người trong cuộc có thể có  những hành vi làm mất đi giá trị của chứng cứ này v́ thiếu b́nh tĩnh  (Theo một án lệ của nước ta trước đây, một người chồng đă bắt quả tang  người vợ đang “quan hệ” với một người đàn ông khác. Để giữ bằng chứng  phạm gian quả tang, với sự trợ giúp của bạn bè, anh ta đă dùng dây cột  người vợ và gă nhân t́nh lại với nhau trong t́nh trạng không quần áo che  thân.  
    
    
  Khi  vụ việc được đưa đến ṭa án, quan ṭa cho rằng việc làm của người chồng  là trái luật. Lẽ ra anh ta phải đến tŕnh báo với viên cảnh sát trưởng  để cảnh sát trưởng lập biên bản về việc ngoại t́nh đó th́ mới được công  nhận là có sự phạm gian quả tang. Kể cả lời khai của các nhân chứng cũng  bị giảm bớt giá trị, v́ họ đă tham gia vào vụ bắt bớ có tính trước  trên. Do đó người vợ và nhân t́nh của chị ta thoát tội.) 
 Một  bằng chứng khác là bị cáo mắc bệnh hoa liễu ít nhất là có thể coi là  khởi chứng biểu diện của việc ngoại t́nh trong trường hợp bệnh này không  xảy ra trước khi có hôn nhân. Song, thường rất ít khi các Ṭa có thể có  được những bằng chứng trực tiếp như vậy.  
    
    
  Trong  phần lớn trường hợp, Ṭa án buộc phải đi t́m những bằng chứng gián tiếp  (circumstantial evidence) để chứng minh: (a) có cơ hội để phạm tội  ngoại t́nh; và (b) một người có hôn thú và t́nh nhân có khuynh hướng  ngoại t́nh (adulterous disposition or inclination). Thông thường Ṭa án  sẽ t́m những bằng chứng chứng tỏ cả cơ hội lẫn khuynh hướng phạm tội  ngoại t́nh, chẳng hạn: ban  đêm và một ḿnh thường xuyên lui tới với một  người khác giới không phải là vợ (chồng); thân mật không chính đáng với  người khác giới không phải là vợ (chồng); cùng người gian phu hay gian  phụ lui tới các khách sạn hay chung cư; hai người khác giới không phải  là vợ chồng nhưng lại đăng kư chỗ trong nhà nghỉ hay khách sạn với danh  nghĩa vợ chồng, bằng chứng cho thấy người chồng và một người đàn bà có  chồng khác đă đi nghỉ hè chung với nhau và sống chung trong một pḥng  khách sạn, đăng kư tên người chồng “và gia đ́nh”, lại c̣n đều đặn đến  thăm người đàn bà đó ở nhà bà tại 4 nơi ở khác nhau, mỗi tuần vài lần  ngủ đêm với bà và có mặt ở nhà bà hầu như là suốt ngày.  
    
    
  Ṭa  án đă cho rằng đó là xác chứng đầy đủ cho hành vi ngoại t́nh của ông  ta.) v.vv... Tuy nhiên, đối với những bằng chứng gián tiếp, th́ kết quả  của vụ án lại phụ thuộc rất lớn vào ư chí chủ quan của vị quan ṭa.  Trong những vụ án có tính chất giống nhau, không hiếm khi các ṭa án  khác nhau sẽ tuyên án khác nhau.  
    
    
  Vậy,  chúng ta có thể thấy rơ tính chất phức tạp của việc chứng minh trong tố  tụng ngoại t́nh. Đây cũng là một trở ngại rất lớn cho những nỗ lực h́nh  sự hóa hành vi ngoại t́nh. 
 Ở  Việt Nam chúng ta, dù không coi hành vi ngoại t́nh là tội phạm theo  những tiêu chí khắt khe như ở một số nước (chỉ cần có hành vi tính giao  ngoài hôn nhân với người khác giới), nhưng việc chứng minh có phạm vào  "Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng" cũng đă chẳng hề dễ dàng. Việc  chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung,  tài sản chung, được hàng xóm coi như vợ chồng, đă được gia đ́nh, cơ  quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy tŕ quan hệ đó.  
    
    
  Nhưng  t́m chứng cứ để xác minh chuyện này không dễ. Không ít bà vợ mất công  sắm máy ảnh, thuê người đi “ŕnh” chồng. Tuy nhiên, chụp ảnh cận cảnh dễ  lộ, c̣n nếu mờ mờ th́... khó chứng minh, chưa kể chỉ chụp được cảnh các  đôi này đi ăn uống, hẹn ḥ với nhau, chứ làm sao ghi h́nh được cảnh  trong nhà nghỉ hay trong các “tổ con chuồn chuồn”? Đă là bồ bịch th́  thường lén lút, bí mật, nên hàng xóm láng giềng cũng khó xem họ “như vợ  chồng” để làm nhân chứng. Việc xác định có con chung với người t́nh cũng  vấp phải những trở ngại như đă nói ở trên... 3.  
    
    
  Ngoại t́nh nên được xem là vấn đề về đạo đức hay vi phạm pháp luật? 
 Có  1 điều chắc có lẽ khiến chúng ta phải băn khoăn: Tại sao khi xă hội  loài người càng tiến bộ, th́ luật pháp lại càng đỡ khắt khe đối với hành  vi này? Có người cho rằng, nếu coi ngoại t́nh là một tội phạm h́nh sự  nghĩa là đă phần nào vi phạm quyền con người. Ở đây tạm chưa nói đến  điều đó. Cuộc sống hôn nhân hiện nay đă khác nhiều so với xưa kia. Ngày  xưa, khi đă lấy nhau, người ta coi cái chuyện tan vỡ gia đ́nh là điều  cấm kỵ vô cùng. Nhưng ngày nay đă khác, con người ta có quyền t́m lấy  hạnh phúc khác của ḿnh khi cuộc hôn nhân đi vào ngơ cụt, bế tắc. Ngoại  t́nh không ít khi là sự giải thoát tạm thời (dù có thể là ngu ngốc) cho  điều đó.  
    
    
  Do  vậy, hậu quả của việc ngoại t́nh, nếu có, chỉ nên là sự kết thúc của  cuộc hôn nhân (ly hôn), hay sự phê phán của lương tâm, đạo đức, chứ  không phải một bản án h́nh sự. Hơn nữa, pháp luật nhiều khi cũng không  nên can thiệp một cách không cần thiết vào các quan hệ xă hội. Ngoại  t́nh không cứ phải đồng nghĩa với hôn nhân tan vỡ. Trên thực tế không ít  gia đ́nh đă vượt qua được sóng gió, gương vỡ lại lành. Họ có thể sẵn  sàng tha thứ cho nhau.  
    
    
  Nếu  h́nh sự hóa hành vi ngoại t́nh, th́ vô h́nh trung trong nhiều trường  hợp đă can thiệp thô bạo vào cơ hội đó của các cặp vợ chồng. Hẳn một  người chồng, hay một người vợ, vẫn yêu tha thiết nửa kia của ḿnh, và  khi người bạn đời cũng biết hối lỗi, th́ điều họ mong là lại tái hợp  hạnh phúc chứ không phải ngày ngày đem cơm vào nhà tù cho người bạn đời  chờ ngày người kia được tự do.  
    
    
  Quan  hệ dân sự đă mang tính chất "tư", quan hệ hôn nhân lại c̣n riêng tư hơn  nữa, luật pháp nên tôn trọng những vấn đề đó. Cũng chỉ có như vậy, đôi  bên mới thực sự chú trọng xây dựng một mái ấm hạnh phúc, điều đó mới là  quan trọng nhất để ngăn ngừa những quan hệ ngoài luồng, chứ không phải  là sự đe dọa của h́nh luật. 
 Lư  luận hơn một chút, chúng ta cũng lại thấy rằng, một hành vi nếu bị coi  là vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm, th́ nó phải xâm hại nghiêm  trọng tới những quan hệ xă hội được luật pháp bảo vệ. Quan hệ hôn nhân  gia đ́nh được luật pháp bảo vệ chính là chế độ một vợ, một chồng.  
    
    
  Vậy  th́ hành vi ngoại t́nh nếu muốn coi nó là tội phạm, th́ mức độ nghiêm  trọng của nó phải lớn tới mức xâm hại rơ ràng tới chế độ này. BLHS của  chúng ta đă quy định vấn đề này ở Điều 147, theo tôi là khá hợp lư. Một  hành vi ngoại t́nh nơi công sở đă đủ để kết luận nó phá hoại chế độ một  vợ một chồng mà luật pháp bảo vệ hay chưa khi mà chưa hẳn nó đă làm hôn  nhân tan vỡ? Chỉ khi hành vi ngoại t́nh nghiêm trọng tới  mức "đang có  vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc  người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng  với người mà ḿnh biết rơ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm  trọng" mới đáng được coi là xâm hại rơ ràng tới chế độ một vợ một chồng,  và mới có thể coi là tội phạm.  
    
    
  Ngày  nay, trên thế giới vẫn c̣n một số nước coi ngoại t́nh là hành vi bất  hợp pháp (Áo, Hàn Quốc, Pakistan, Nigeria, một số tiểu bang ở Mỹ...),  c̣n đại đa số các nước chỉ coi đây là vấn đề thuộc phạm trù đạo đức nếu  nó không quá nghiêm trọng. Không phủ nhận những hậu quả mà hành vi ngoại  t́nh gây ra, song có lẽ chưa đến lúc h́nh sự hóa hành vi này.
 Luật gia Phan Hoàng Linh  
		 
		
	
		
		
		
		
		
	 |