| R8 Vơ Lâm Chí Tôn 
				 
				Join Date: Jun 2009 Location: US 
					Posts: 17,796
				 Thanks: 0 
		
			
				Thanked 0 Times in 0 Posts
			
		
	 Mentioned: 0 Post(s) Tagged: 0 Thread(s) Quoted: 0 Post(s) 
				
				
  
    Rep Power: 34      | 
			
			Nghiên cứu về các gói thầu EPC  những năm gần đây  cho thấy, hầu hết công tŕnh xây dựng trọng điểm phát  triển kinh tế xă  hội của đất nước đều là các nhà thầu nước ngoài thắng  thầu. Có tới 90%  công tŕnh điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim và  hóa chất của Việt  Nam đều do Trung Quốc đảm nhận. Hệ quả, nhà thầu Việt  chỉ là “kẻ làm  thuê" ngay tại nhà ḿnh, c̣n các chủ đầu tư đôi khi phải  ngậm ngùi ôm  “trái đắng”.                          
 Những hệ lụy khó lường
 
 Trong những năm qua, có đến 30 doanh nghiệp Trung Quốc tham gia làm tổng thầu EPC hoặc đối tác đầu tư cho 41 dự án ở Việt Nam.
 
 Nếu tính cụ thể từ năm 2003 đến nay cũng có khoảng 13 dự án do nhà thầu   Trung Quốc làm tổng thầu EPC, chiếm 30% công suất toàn ngành điện.  Ngành  hóa chất có 6 dự án th́ hết 5 do nhà thầu Trung Quốc làm tổng  thầu  EPC, chiếm 83%. Và hiện tại, với hai dự án chế biến khoáng sản  (tổ hợp  Bô-xít – nhôm Lâm Đồng và dự án Alumin Nhân Cơ – Đăk Nông) th́  cả hai  đều do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC, chiếm 100%.
 
 
 
 Nhà máy nhiệt điện Hải Pḥng 1 chậm tiến độ 2 năm cũng do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC C̣n trong tổng số các dự án xi măng,   với 62 dây chuyền th́ đã có 49 dây chuyền của Trung Quốc, chiếm 79%;   về công suất chiếm 49,6%. Trong số 49 dây chuyền của Trung Quốc có 26   dây chuyền EP, chiếm 53% và 23 dây chuyền EPC, chiếm 27%. Sau năm 2009,   tỉ lệ các dự án xi măng của Trung Quốc đă lên tới 80% tổng số dự án  của  các thành phần kinh tế. Đầu tư theo h́nh thức EP là chủ yếu.
 
 Thế nhưng, phần lớn các dự án do nhà thầu nước ngoài làm tổng thầu EPC   chủ yếu là Trung Quốc thường bị kéo dài thời gian xây dựng, chậm tiến độ   bàn giao so với hợp đồng. Các dự án này chậm từ 3 tháng đến 2 hoặc 3   năm. Chậm nhất như dự án Nhà máy sản xuất phân bón DAP Đ́nh Vũ, Hải   Pḥng của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam khởi công từ ngày 27/7/2003.
 
 Dự án Nhà máy đạm Ninh B́nh sau 20 tháng triển khai cũng chậm 6 tháng;   các dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện do ngành than quản lí và chủ đầu   tư như Nhiệt điện Cao Ngạn bị chậm 28 tháng, Nhiệt điện Sơn Động chậm 24   tháng, Nhiệt điện Nông Sơn chậm 20 tháng, Nhiệt điện Cẩm Phả 1 chậm 10   tháng, Nhiệt điện Cẩm Phả 2 chậm 3 tháng.
 
 Ngoài ra, chất lượng thiết bị trong gói thầu EPC thường không đồng đều,   một số bị thấp, ảnh hưởng đến chất lượng toàn bộ công tŕnh và tiến độ   triển khai. Phần lớn thiết bị phụ trợ chất lượng thấp phải thay thế.
 
 Ví dụ, một số trường hợp như bộ phận đuôi hơi Nhà máy Nhiệt điện Cao   Ngạn; thiết bị phụ và hệ thống thải tro, xỉ dự án Nhiệt điện Sơn Động;   đường ống sinh hơi, khóa nhiệt, máy nghiền và hệ thống than của dự án   Nhiệt điện Hải Pḥng, Quảng Ninh… quá tŕnh vận hành thử đă bộc lộ những   khiếm khuyết ở hệ thống quạt gió, thải xỉ, cấp than…
 
 Bên cạnh đó, khi triển khai h́nh thức tổng thầu, phần thi công công   tŕnh là phần sử dụng nhiều lao động, bao gồm cả lao động kĩ thuật cao,   lao động có tay nghề và lao động phổ thông. Tuy nhiên, nhiều nhà thầu   EPC Trung Quốc không sử dụng lao động Việt Nam, kể cả lao động phổ   thông.
 
 Trong đó, nhiều lao động nước ngoài đến làm việc chưa được cấp phép theo   quy định của pháp luật. Một số chủ đầu tư chưa chấp hành đúng các quy   định về sử dụng đúng lao động nước ngoài, không thực hiện đúng quy định   của Chính phủ nêu tại Khoản b, Điều 23, Nghị định 85/2009/ND-CP, ngày   15/10/2009.
 
 Làm ǵ để không “sập bẫy” giá rẻ?
 
 Con số 90% nhà thầu Trung Quốc nắm giữ các dự án về thủy điện, nhiệt   điện, xây dựng cơ bản của Việt Nam khiến nhiều người “giật ḿnh”.
 
 Phải chăng chúng ta đang thiếu hệ thống kiểm soát chất lượng như: tiêu   chuẩn không đồng bộ, lỗi thời, thiếu các văn bản pháp qui về qui định áp   dụng các tiêu chuẩn kiểm soát, kiểm tra, đánh giá chất lượng sản   phẩm...
 
 
 
 Khi nào nhà thầu Việt rũ bỏ "chiếc áo cũ" nhà thầu phụ? C̣n các nhà thầu Trung Quốc đang lờ đi việc này hay cố t́nh không áp   dụng hệ thống kiểm soát chất lượng, để mặc cho chủ đầu tư, hoặc tư vấn   giám sát quyết định. Điều này đă tạo cơ hội cho các nhà thầu Trung Quốc   vào Việt Nam bỏ thầu với giá thành thấp hơn so với các nhà thầu khác.
 
 Nhưng, các cụ nhà ta vẫn dặn “tiền nào  của nấy”.  Có lẽ giá rẻ sẽ không hẳn đi đôi với chất lượng tốt. Vậy câu  hỏi đặt ra  là “chừng nào chủ đầu tư Việt Nam phải chịu trách nhiệm  trước cơ quan  có thẩm quyền khi nhận “nhầm” nhà thầu thực hiện những  công tŕnh quan  trọng của quốc gia?”.
 
 Mặc dù thời gian qua các nhà thầu  Trung Quốc ở  “thế thượng phong”, nhưng cũng đă và đang bộc lộ những  khuyết điểm thấy  rơ, gây ảnh hưởng đến nhiều công tŕnh trọng điểm của  quốc gia. Đây  cũng chính là cơ hội để các nhà thầu trong nước vươn lên  khẳng định  năng lực của ḿnh. Khi nhà thầu Việt tự nâng cao được sức  mạnh của  doanh nghiệp, tạo được niềm tin của chủ đầu tư th́ trong tương  lai  không xa, việc giành lại thị phần các công tŕnh quốc gia sẽ không  phải  là điều quá khó.
 
 Được biết, ngày 17/5/2011, Thủ tướng  Chính phủ đă  ban hành chỉ thị 734/CT-TTg về “Chấn chính công tác quản lí  đối với  các gói thầu EPC”, quy định việc phân chia các gói thầu EPC  thành các  gói thầu riêng biệt, không triển khai gói thầu theo h́nh thức  EPC khi  không thực sự cần thiết.
 
 Theo đó, chủ trương này sẽ tạo điều  kiện cho nhà  thầu Việt vươn lên mạnh mẽ để thắng thầu, mở đường cho các  nhà thầu nội  phát huy nội lực, cạnh tranh với các nhà thầu ngoại.
 
 Hơn hết, ngoài việc chờ đợi sự trợ  giúp từ phía  Nhà nước, bản thân các nhà thầu Việt cần tiếp tục nâng cao  chất lượng  nguồn nhân lực, công nghệ, năng lực tài chính…; tham gia vào  chuỗi giá  trị toàn cầu, qua đó tiếp nhận công nghệ tiên tiến, hiện đại  áp dụng  vào các gói thầu trọng điểm. Có như vậy nhà thầu Việt mới có thể  giành  thế chủ động trên “sân nhà”.
 
 
 Nguyễn ThắngTamnhinNet
 
 |