Đức Phật nhấn mạnh về hiệu quả tâm linh của một món quà bố thí là không lệ thuộc vào số lượng của cho, nhưng quan trọng là ở cách cho. Một món quà nhỏ từ một người không có nhiều phương tiện để bố thí được xem như là có kết quả tinh thần lớn hơn. Bố thí trong Phật giáo là một hành vi đạo đức, phát xuất từ tấm ḷng hảo tâm, tương thân tương trợ, lá lành đùm lá rách. Bố thí theo nghĩa của từ ngữ này là trải những sở hữu vật chất, tinh thần hay tri kiến đến với mọi người một cách b́nh đẳng. Ngay điều cơ bản, bố thí là hành vi nhân bản, chăm lo đến tính nhân bản theo đúng nghĩa của nó. Bố thí là tôn chỉ đặc thù của Phật giáo, là chất keo hàn gắn mọi người, mọi giới lại với nhau, bằng t́nh thương bao la, bằng tấm ḷng rộng mở không phân biệt. Trong một ư nghĩa sâu xa, bố thí được xem như là một hành động gột rửa cái tâm bủn xỉn, tham lam để mài dũa tâm hồn trở nên quảng đại hơn, cao thượng hơn. Người thực hiện bố thí theo tôn chỉ Phật giáo, sẽ đạt được hai mục tiêu lợi ích: một là ban đến niềm vui, an lạc, hạnh phúc cho người khác và hai là trau dồi tinh thần từ bi, độ lượng ở chính ḿnh.
Người Phật tử bố thí không bao giờ tự phụ rằng ḿnh là người ban ân và kẻ thọ lănh là người thọ ân. Trong hành động bố thí, cái ta ngă ái, cái ta chấp ngă không có chân đứng. Bố thí không chỉ được quan niệm như là một pháp môn hướng đến sự hoàn thiện nhân cách tự thân, mà c̣n là phương tiện đi đầu một cách hữu hiệu nhất trong công cuộc hoằng pháp độ sanh của người con Phật. V́ vật chất trang trải trước mới đến tinh thần, chăm lo đời sống vật chất rồi th́ sau đó mới dễ dàng chăm sóc đời sống tinh thần. Giáo lư Phật giáo luôn chủ trương như vậy, trong Tứ nhiếp pháp hay Lục độ vạn hạnh, bố thí luôn là hành vi hoằng pháp đi đầu.
Trong vấn đề bố thí vật chất, điều đáng quư và đáng học hỏi là những người tuy khó khăn, thiếu thốn về vật chất nhưng lại giàu t́nh thương, sẵn sàng trang trải cho người khác có đời sống chật vật, thiếu thốn hơn ḿnh. Ông bà ta thường tán thán mẫu người cao thượng như thế: “của ít ḷng nhiều” - quả là những câu nói rất phù hợp với Phật giáo.
Đức Phật dùng chữ “cage" (tiếng Pali) để chỉ cho phẩm hạnh bên trong của việc bố thí liên hệ đến việc thực hành Phật đạo. Cách dùng chữ “cage” này có ư nghĩa rất đặc thù bởi v́ nó cũng có nghĩa là “sự buông xả” hay “sự từ bỏ”. Việc thực hành bố thí c̣n nhấn mạnh thêm ở sự cho đi hơn là bị yêu cầu, đ̣i hỏi theo tục lệ, hay được trông đợi có liên quan đến những hoàn cảnh và tiềm lực kinh tế của một ai đó. Rơ ràng, bố thí có liên quan đến việc xả bỏ tính keo kiệt, chấp thủ và tham lam. Thêm vào đó, bố thí c̣n đưa đến việc từ bỏ một số phương diện của tính tự lợi, đó là việc thực hành bố thí cái ngă của chính ḿnh.

Đức Phật nhấn mạnh về hiệu quả tâm linh của một món quà bố thí là không lệ thuộc vào số lượng của cho, nhưng quan trọng là ở cách cho. Một món quà nhỏ từ một người không có nhiều phương tiện để bố thí được xem như là có kết quả tinh thần lớn hơn từ một sự bố thí tầm thường của một người giàu có của cải.
Đối với những người Phật tử tại gia, Đức Phật nhắc nhở về hai việc nhằm đem đến nguồn hạnh phúc là làm giàu bằng cách làm ăn chân chính và bảo vệ tài sản được tạo ra. Tuy nhiên, Đức Phật khuyến cáo làm giàu không phải là mục đích cuối cùng. Sự giàu có được tán dương đối với Phật tử tại gia khi nó được dùng vào đúng mục đích.
Đức Phật đă từng so sánh một người chỉ biết hưởng thụ sự giàu có của ḿnh mà không chia sẻ cho kẻ khác như là một người đang tự đào hố để chôn chính ḿnh. Ngoài ra, Đức Phật cũng ví dụ về một người làm giàu chân chính và biết chia sẻ cho người nghèo khó như một con người có đầy đủ hai mắt. Ngược lại, người keo kiệt bủn xỉn được ví như người chỉ có một con mắt.
Theo Tuvientuongvan.com