Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Đất đai, Luật Cư trú, Luật HNGĐ... và rất nhiều luật khác đều có quy định về hộ gia đ́nh. Giữa "rừng luật" như vậy nhưng trên thực tế, việc vận dụng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là trong các giao dịch chuyển nhượng tài sản.
Không có quyền về tài sản, vẫn phải kư bán
Ông Nguyễn Văn V. ở Từ Liêm, Hà Nội kết hôn với bà Trịnh Mai P. năm 1995. Năm 2002, trong sổ hộ khẩu gia đ́nh ông V được cấp thể hiện có 5 thành viên. Ngoài ông V (chủ hộ), bà P, có hai con nhỏ và anh Nguyễn Văn T (em ruột ông V).
Tuy nhiên, chỉ 2 năm sau, tại sổ hộ khẩu của gia đ́nh ông V. đă phát sinh thêm một số thành viên mới. Đó là do anh T, em ruột ông V. khi đó đă đi lấy vợ, vợ của anh này và con nhỏ mới sinh cũng được nhập khẩu vào gia đ́nh ông V, nâng tổng số thành viên trong gia đ́nh ông lên con số 7 người.
Năm 2010, UBND huyện cấp cho hộ gia đ́nh ông V. giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích hơn 1.000 m2. Năm 2011, ông V. cần vốn làm ăn nên quyết định chuyển nhượng diện tích đất đă được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng.
Tuy nhiên, khi làm các thủ tục chuyển nhượng, công chứng viên đă yêu cầu phải có sự đồng ư của tất cả các thành viên trong gia đ́nh (trừ cháu bé mới 6 tuổi), mặc cho ông V. ra sức thanh minh gia đ́nh người em trai của ḿnh chỉ "nhập nhờ" trong sổ hộ khẩu mà không có quyền với tài sản, rằng hiện nay em trai của ông đi công tác nửa năm ở nước ngoài, nên không thể kư vào hợp đồng chuyển nhượng hoặc giấy ủy quyền...nhưng ông được lư giải đây là quy định bắt buộc.
Trường hợp như ông V. không phải là hiếm, khi chính sách nhập khẩu tại các thành phố lớn một thời là vô cùng khắt khe (ví dụ phải có nhà mới được nhập khẩu và ngược lại, phải có hộ khẩu mới được mua nhà), v́ thế nhiều người đă chọn cách nhập nhờ hộ khẩu vào gia đ́nh người thân, họ hàng, bạn bè... từ đó dẫn đến những chuyện dở khóc dở cười.
BLDS hiện hành chưa định nghĩa rơ ràng khái niệm như thế nào là hộ gia đ́nh (mà chỉ khẳng định hộ gia đ́nh có thể là chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự) và khi thực hiện các giao dịch dân sự th́ căn cứ vào tiêu chí nào để xác định các thành viên trong hộ gia đ́nh đó.
Hiện nay, cách xác định phổ biến về thành viên hộ gia đ́nh là căn cứ vào sổ hộ khẩu. Cho rằng "sổ hộ khẩu không có giá trị chứng minh quyền sở hữu/ sử dụng một khối tài sản chung nào đó của những người có tên trong sổ hộ khẩu" nhưng theo ông Tuấn Đạo Thanh - Trưởng Pḥng Công chứng số 1 Hà Nội - th́ "phương pháp dùng sổ hộ khẩu để xác định số lượng thành viên trong hộ gia đ́nh trên thực tế lại là biện pháp duy nhất hiện đang được các công chứng viên sử dụng".
Bên cạnh đó, nhiều ư kiến cho rằng, sự biến động về thành viên trong hộ gia đ́nh cũng chưa được BLDS dự liệu. Bởi lẽ, trên thực tế, gia đ́nh không phải là một chủ thể bất biến mà luôn chứa đựng những yếu tố biến động của sinh, ly, tử, biệt, tách, nhập…, tuy nhiên, do quy định của BLDS không rơ ràng nên khó xác định thành viên của hộ trong trạng thái biến động đó.
Có nên bỏ quy định về hộ gia đ́nh?
Bà Lê Thị Hoàng Thanh và ông Phạm Văn Bằng - Viện Khoa học Pháp lư, Bộ Tư pháp - cho rằng: Sau khi chính sách về đất đai được rà soát lại, Luật Đất đai năm 2003 được xem xét sửa đổi, bổ sung toàn diện, cơ quan có thẩm quyền nên rà soát, xác định lại từng mảnh đất ghi nhận quyền sử dụng của hộ gia đ́nh thuộc về thành viên cụ thể trong gia đ́nh.
Những giấy chứng nhận đă cấp cho hộ gia đ́nh cần được chỉnh sửa theo hướng ghi rơ các cá nhân là thành viên, nghĩa là ghi đủ tên các thành viên của hộ hoặc ghi một hay một số cá nhân là chủ sử dụng đất thực sự khi có đủ căn cứ chứng minh nguồn gốc đất đó do cá nhân được chuyển nhượng, chia tách hoặc do thừa kế, tặng cho riêng. Với đề xuất này, hai chuyên gia nói trên ủng hộ phương án không duy tŕ hộ gia đ́nh là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
Tuy nhiên, theo ông Tuấn Đạo Thanh th́ việc quy định hộ gia đ́nh là chủ thể pháp luật dân sự trong thời điểm hiện nay là cần thiết do hộ gia đ́nh không những chỉ tham gia các quan hệ về đất đai mà c̣n là chủ thể của rất nhiều loại h́nh giao dịch khác. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là phải quy định cụ thể, rơ ràng cách thức xác định số lượng thành viên của hộ gia đ́nh, quyền và nghĩa vụ của từng cá nhân thành viên cũng như chế định đại diện trong hộ gia đ́nh.
1. Các thành viên của hộ gia đ́nh chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận.
2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đ́nh phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ư; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ư.
(Điều 109 Bộ luật Dân sự) |
B́nh An