Theo các nhà kỹ thuật quân sự, có tới 7 cách giúp máy bay tàng h́nh Mỹ tàng h́nh tốt hơn ngoài cách sử dụng h́nh dạng đặc biệt và vật liệu bề mặt.
Làm sao máy bay chiến đấu tàng h́nh của Mỹ có thể qua mặt được hệ thống radar của đối phương? Điều ấy thực ra chẳng có ǵ là bí mật: Sử dụng thiết kế góc cạnh làm phát tán sóng radar. Một cách khác là lựa chọn vật liệu bề mặt bằng một loại vật liệu hấp thụ bức xạ để đánh lừa radar đối phương.
Một cách ngắn gọn nhất, có bốn nguyên tắc quan trọng nhất của công nghệ tàng h́nh là “h́nh dạng, h́nh dạng, h́nh dạng và vật liệu đặc biệt”. Đây là câu trích dẫn của chuyên gia Lockheed Martin, ông Denys Overholser – người tiên phong trong việc tạo ra F-117 Nighthawk, máy bay chiến đấu tàng h́nh hiện đại đầu tiên trên thế giới.
Nhưng bên cạnh yếu tố h́nh dáng và vật liệu hấp thụ sóng radar, những chiếc máy bay tàng h́nh của Lầu Năm Góc như máy bay ném bom chiến lược B-2 Spirit, máy bay chiến đấu F-22 Raptor, máy bay không người lái RQ-170 Sentinel và thế hệ máy bay tiêm kích liên quân F-35 đang được phát triển, cũng được trang bị những phẩm chất khác giúp chúng có khả năng tàng h́nh tốt hơn.
Những yếu tố tàng h́nh khác gồm chất hóa học nhằm khử bỏ các đám khói máy bay, các thiết bị giả mạo, cảm biến và sóng vô tuyến, thiết kế đặc biệt, đầu vào động cơ, sơn khử sóng radar và hệ thống làm mát nhằm giảm bớt dấu hiệu khí nóng (giảm độ bộ lộ hồng ngoài).
Trung Quốc và Nga, đều tập trung vào thiết kế h́nh dạng đặc biệt cho máy bay tàng h́nh mà ít quan tâm đến yếu tố vật liệu. V́ vậy, phía Mỹ cho rằng, khả năng ẩn mặt tốt hơn của hệ thống đánh lừa radar được cho rằng sẽ đóng vai tṛ quan trọng hơn trong việc cũng cố ưu thế trên không của Mỹ
Hệ thống cảm biến thông minh
Radar được coi như là một con mắt có tầm xa trên bầu trời cho các máy bay quân sự. Nếu không có hệ thống cảm biến này th́ máy bay sẽ không thua không kém ǵ một con chim sắt bị mù.
Vấn đề ở chỗ radar hoạt động sẽ phát ra rất nhiều năng lượng bức xạ và nhờ thế hệ thống radar cố định có thể ḍ t́m ra những tín hiệu này. Việc này giống như một người đứng trong góc pḥng tối có thể nh́n thấy hoạt động của kẻ đang cầm đèn pin ḍ xét gian pḥng đó vậy.
Máy bay ném bom tàng h́nh B-2
Những chiếc máy bay F-22, F-35 và B-2 đang thử nghiệm giải pháp tàng h́nh mới mà Bill Sweetman gọi là “nguyên lư điều khiển sự phát xạ”.
Với chiếc Raptor, sự phát xạ từ bộ radars APG-77 được quản lư để làm sao có thể đạt cường độ đủ mạnh, đủ xa và liên tiếp nhằm giúp phi công định vị được đường bay trong khi giảm thiểu tối đa nguy cơ bị phát hiện bởi các hệ thống trinh sát điện tử.
Nói một các khác, các phần mềm của máy bay tàng h́nh phải đủ thông minh để giúp nó hoàn thành công việc và tồn tại để chiến đấu chứ không phải chăm chăm hoàn thành nhiệm vụ t́m kiếm và định vị mục tiêu.
Việc thông tin liên lạc trên máy bay tàng h́nh cũng vô t́nh “tố cáo” vị trí của nó.
Trong trường hợp của chiếc RQ-170, chiếc đĩa dùng cho phần cứng thu phát sóng vô tuyến vệ tinh của chiếc máy bay không người lái có khả năng “phản bội” lại sứ mệnh tàng h́nh của nó do các ăng ten của nó có tính phản hồi cao và lộ liễu.
Trong trường hợp của chiếc B-2, F-22 và F-35, vấn đề này khó giải quyết hơn. Làm sao để có thể liên lạc với máy bay khác mà không hề gây ra một vài tín hiệu “ồn ă” nào đó mà kẻ thù có thể lần theo những tín hiệu này mà định vị được vị trí của máy bay. Phương pháp truyền thanh vô tuyến bị loại trừ ngay lập tức.
“Ngay khi bạn lên tiếng, bạn đă phản bội chính ḿnh”, Mike Therrien, một chuyên viên Không quân Mỹ nói. Cũng giống như vậy, sóng vô tuyến kết nối dữ liệu dùng cho các loại máy bay phản lực cũ quá dễ bị phát hiện.
Lockheed Martin đă cài đặt một hệ thống kết nối dữ liệu tầm ngắn và yếu cho 187 chiếc Raptor nhằm tránh khả năng bị phát hiện.
Chiếc Joint Strike Fighter cũng đă được trang bị một hệ thống kết nối mới, đặc thù giúp tăng khả năng tàng h́nh. Hệ thống này cũng đă được trang bị cho chiếc B-2.
Những tất cả những phương thức trên đều có những hạn chế do độ chênh với các hệ thống liên lạc cũ, đôi khi chúng đ̣i hỏi các máy bay tàng h́nh phải đem theo một máy bay không người lái EQ-4 hoặc E-11 thực hiện nhiệm vụ như một tổng đài phiên dịch tín hiệu di động.
Tàng h́nh với một chữ “S”
Một trong các kẻ phản bội lớn nhất lại nằm trong thân máy bay.
Trong hầu hết các máy bay các tua bin động cơ đều có thể thấy được qua cửa hút khí của máy bay và chúng chính là kẻ khai báo với các thiết bị ḍ t́m của địch.
Để giấu đi các tua bin này, các nhà thiết kế máy chiến đấu tàng h́nh phải nối cửa thông khí trực tiếp vào động cơ bằng cách uốn ống dẫn vào trong thân máy bay theo một h́nh chữ “S”.
Bird of Prey của Boeing không cần chữ S nhưng vẫn có thể tàng h́nh.
Ống dẫn h́nh chữ S là một kỹ thuật thiết kế phức tạp và tốn kém. Do đó, Boeing đang sửa lại kỹ thuật ngăn che động cơ bằng cách sử dụng trên máy bay thử nghiệm một lần có tên Bird of Prey. Tính năng quan trọng nhất của loại máy bay này là cửa hút khí tàng h́nh.
Mẫu RQ-170 của Lockheed cũng quá ngắn để có thể sử dụng ống dẫn h́nh chữ S mà phải phụ thuộc vào một vỉ chắn nhằm che chắn cửa hút khí.
Vỉ chắn h́nh lưới của RQ-170.
Ngoài một số ngoại lệ nêu trên, ống dẫn h́nh chữ S đang trở thành chuẩn cho các máy bay của Mỹ cũng như Trung Quốc. Tuy nhiên, mẫu thử máy bay tàng h́nh Sukhoi T-50 của Nga lại không có kỹ thuật trên.
Tản nhiệt
Máy bay chiến đấu nói chung đều tỏa ra rất nhiều nhiệt. Kể cả khi, máy bay chiến đấu có thể đánh lừa được tín hiệu radar, nó vẫn có thể bị phát hiện bằng các thiết bị trinh sát hồng ngoại từ ống xả động cơ cũng như bề mặt do ma sát với không khí cao.
Ống xả động cơ của B-2 và F-22 được làm trải dài để tránh tạo thành các điểm nóng có thể phát hiện được bằng hồng ngoại, tuy nhiên để tiết kiệm kinh phí, 2.400 chiếc F-35 sẽ vẫn giữ thiết kế theo kiểu truyền thống – điều này sẽ tạo ra rất nhiều điểm nóng tập trung và chúng sẽ hiển thị rơ trên các thiết bị trinh sát hồng ngoại.
Những mẫu máy bay chiến đấu khác như Spirit, Raptor hay những mẫu máy bay thuộc chương tŕnh Joint Strike Fighter đều sử dụng rất nhiều phụ kiện để giảm nhiệt ở những vùng nóng như cánh trước.
Những mẫu máy bay này cũng sử dụng hệ thống để giảm lượng nhiệt tiêu thụ bằng các thiết bị điện tử hoặc truyền động vào nhiên liệu. Điều này được thực hiện rất tốt ở mẫu F-35.
Một số nhà nghiên cứu cũng cân nhắc loại nhiên liệu mới với thành phần tốt hơn nhằm giảm lượng nhiệt tiêu thụ của máy bay.
Một số nghiên cứu cho thấy loại nhiên liệu JP-8 được trích xuất từ quặng than đá thay v́ dầu hỏa sẽ hấp thụ được nhiều nhiệt, do đó an toàn hơn cho máy bay.
Kỹ thuật sơn
Với các máy bay tàng h́nh Mỹ, công nghệ sơn nhằm giảm độ bộc lộ radar quan trọng hơn nhiều so với vẻ bề ngoài.
Các mẫu máy bay chiến đấu Spirits, Raptors hay các máy bay thuộc chương tŕnh Joint Strike Fighter đều sử dụng loại sơn đặc biệt để triệt tiêu nhiệt cũng như sóng radar.
Lớp sơn của F-22 cần bảo tŕ thường xuyên
Tuy nhiên để hoạt động hoàn hảo, loại sơn này phải được bảo tŕ trong t́nh trạng yêu cầu cao.
Một trong các nhược điểm của B-2 th́ lớp vỏ cực kỳ nhạy cảm của nó khiến nó không thể hoạt động trong mọi loại thời tiết v́ nó rất dễ hỏng đặc biệt là trong mưa và cũng có thể bị hỏng bởi nhiệt độ và độ ẩm nên đ̣i hỏi phải có một trung tâm bảo dưỡng đặc biệt cho loại máy bay này hoạt động. Và cũng chính v́ đi ra mưa mà một chiếc B-2 đă rơi khi nước thấm qua lớp vỏ và làm ướt các bộ phận điện tử bên trong khiến nó hoạt động lỗi khi cất cánh sau đó
Nhân viên kỹ thuật sơn Matthew Duque chuyên phụ trách F-22 cho biết, họ phải làm việc hàng ngày. Một robot được chỉ dẫn bằng cảm biến laser cũng tham gia vào việc sơn máy bay.
Sơn của F-35 sẽ mạnh mẽ hơn so với Raptor F-22. Không quân Mỹ hi vọng loại sơn mới cũng sẽ được sơn cho một số mẫu F-16 nhằm đem khả năng tàng h́nh đến cho một số loại máy bay cũ.
Kiếm soát vệt khói
Vệt khói của máy bay phản lực bao gồm thường chứa lưu huỳnh, nitơ, những mảnh kim loại vụn nhỏ và các chất thải khác vào không khí. Vệt khói này hấp thụ hơi nước thành một vệt dài rơ nét và dễ dàng nh́n thấy từ cách xa nhiều dặm, thậm chí có thể nh́n thấy dù đang là trời đêm. Đây chính là một trong những dấu hiệu rơ ràng nhất mà các máy bay chiến đấu cần phải xóa sạch nhằm chống lại sự phát hiện của pḥng không đối phương.
Năm 1994, Northrop Grumman đă chi 16 triệu USD để trang bị thêm một hệ thống xử lư vệt khói cho 20 máy bay tàng h́nh ném bom tầm cao B-2.
Hệ thống này, bằng một cách nào đó, sử dụng phương pháp hóa học nhằm chống hút hơi nước từ cửa xả của chiếc máy bay ném bom nhằm xóa mọi dấu vết của vệt khói.
Vẫn chưa có dữ liệu rơ ràng rằng các máy bay chiến đấu tàng h́nh khác của Mỹ có sử dụng hệ thống xử lư vệt khói tương tự như đă nói tới hay không nhưng chẳng có ǵ ngạc nhiên nếu họ đă áp dụng công nghệ này.
Những điều ngạc nhiên
Một trong những khả năng đáng kể của máy bay tàng h́nh Mỹ là việc nước này có khả năng tránh việc gây chú ư của dư luận trong quá tŕnh phát triển, thử nghiệm và đưa vào hoạt động các loại máy bay tàng h́nh mới. Mẫu F-117 và B-2 được giữ bí mật cho đến khi Không quân Mỹ không c̣n muốn giữ bí mật nữa.
F-22 và F-35 là chương tŕnh gây nhiều chú ư của dư luận nhưng nhiều thông số của 2 mẫu máy bay này vẫn được giữ bí mật.
Mẫu RQ-170 được báo cáo đă bay vào cuộc chiến Iraq năm 2003 nhưng mẫu máy bay này chỉ lộ diện khi một nhiếp ảnh gia may mắn chụp được nó ở Afghanistan vào năm 2007.
Không quân Mỹ đang thiết kế và thử nghiệm ít nhất 2 loại máy bay không người lái tàng h́nh cũng như máy bay ném bom tầm xa. Tuy nhiên, những bằng chứng duy nhất về những chương tŕnh này là những ḍng nguồn trích dẫn trong các tài liệu tài chính cũng như những b́nh luận không rơ ràng của các quan chức trong ngành công nghiệp hoặc vài ảnh rất hăn hữu chụp từ vệ tinh.
Lê Hương (theo Wired)