Có một nhà nghiên cứu văn hóa  mộc mạc, chất phác say mê chuyện nói tức, nói khoác của quê hương. Ông  đă bỏ nhiềm tâm huyết để sưu tầm nghiên cứu, bảo tồn và phát huy vốn văn  hóa độc đáo của vùng Kinh Bắc. Không chỉ vậy, ông c̣n nghiên cứu văn  hóa, văn học dân gian với niềm say mê vô bờ bến và đă in rất nhiều sách.  Ít người biết rằng, để làm được những điều đó, ông đă dùng đến 4 chiếc  xe đạp cùng lúc để tiện cho việc đi lại.
 
  Cần mẫn làm văn hóa
  Người đó là ông Trần Quốc Thịnh, một  người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, ăn nói hoạt bát, dù tuổi tác không c̣n ít.  Hiện ông “đóng quân” ở thành phố Bắc Giang, nhưng có thể sẽ thay đổi bất  cứ lúc nào. Lúc ông lại về Quế Vơ (Bắc Ninh) nơi ḿnh sinh ra, lúc khác  ông ra Hà Nôi hoặc lại lang thang ở một vùng quê nào đó xứ Kinh Bắc.
 
  Hiếm có người nào chịu vất vả như ông,  hiếm có người nào mê và hiểu văn hóa Kinh bắc như ông. Để có được vốn  văn hóa dân gian Kinh Bắc, ông Thịnh phải mất nhiều năm đi sâu, đi sát  vào thực tế, sống với dân, ăn ở với dân và nghiền ngẫm, để rồi chưng cất  thành những trang sách, làm tư liệu quư cho cuộc đời. Tuy đă hơn 70  tuổi vẫn dùng xe đạp, tự đạp về những vùng quê xa xôi để nghiên cứu.
  
  Ông Trần Quốc Thịnh sinh năm 1936 tại  làng Thất Gian, xă Châu Phong, huyện Quế Vơ, Bắc Ninh. Bản thân cái tên  làng của ông, gắn với văn hóa Kinh bắc, với kho truyện tiếu lâm Kinh bắc  cũng có nhiều giai thoại. Bản thân ông coi cả vùng Kinh bắc là quê  hương, v́ thế đụng đến vùng đất nào ông cũng rất thuộc. Không chỉ thuộc  đường, ông c̣n thuộc cả những sinh hoạt văn hóa, những lối sống của họ.
 
  Trước đây, ông Thịnh thường chỉ dùng  một chiếc xe đạp và rong ruổi khắp làng xa, xóm gần. Nay, ông dùng cùng  một lúc 4 chiếc, một ông để ở Hà Nội, một ở thành phố Bắc Giang, một ở  thành phố Bắc Ninh và một ở làng Thất Gian huyện Quế Vơ. Ông bảo như thế  tiện hơn, bởi bây giờ không c̣n trẻ khỏe như trước, nếu cần phải đi ở  khu vực nào, ông sẽ đi xe buưt đến khu vực đó và lấy xe đạp để rong  ruổi, rất tiện lợi.
  Kết quả mà ông có được là 21 đầu sách  đă in và gần chục đầu sách đă có giấy phép nằm ở trong các nhà xuất bản,  trong đó có nhiều cuốn dày 6 đến 7 trăm trang. Có cuốn dày 2000 trang.  Trong số sách đó, có nhiều cuốn ông Thịnh viết về văn hóa trào tiếu của  người Kinh  Bắc. 14 làng cười đất Kinh bắc đủ cho ông có cả kho truyện  trào tiếu dân gian đa dạng và quư báu, trong đó có chuyện nói khoác, nói  tức.
 
  Sự đa dạng các làng cười không chỉ thể  hiện truyền thống văn hóa đất Kinh Bắc, mà c̣n thể hiện tinh thần lạc  quan, bài trừ thói xấu của người dân trước cuộc sống khó khăn, khắc  nghiệt và sự hoành hành của cái xấu. Việc sưu tầm, nghiên cứu văn hóa,  ǵn giữ những kho truyện cười, in ấn thành sách với ông Thịnh ngoài niềm  vui của một người say nghề, c̣n gắn với những nỗi lo khác. Ông sợ rằng,  trước thời buổi kinh tế thị trường, sẽ có nhiều người quên đi kho tàng  truyện dân gian của quê hương.
 
  
Người say truyện tiếu lâm
  Khi mới học hết lớp 5 ông Thịnh công  tác ở Pḥng Văn hóa huyện Quế Vơ (tỉnh Hà Bắc cũ). Ông quản lư một đoàn  nghệ thuật không chuyên đi diễn lưu động, rồi làm phụ trách chống mê tín  dị đoan. Sau đó, ông c̣n đi đội đá thuê thời giảm biên chế, học bổ túc  văn hóa ban đêm hết phổ thông. Năm 40 tuổi, ông phải khai thụt 5 tuổi để  đi học Đại học đại học Tổng hợp văn (khóa 1976-1980), v́ đang có phong  trào đại học hóa đội ngũ cán bộ tỉnh.
 
  Anh Trần Quốc Khải, con cả ông từ chiến  trường về cũng đi học sau ông một khóa. Sau đó, anh Khải lấy vợ cùng  lớp, thế là trong gia đ́nh, 3 người tốt nghiệp cùng một trường. Ông  Thịnh kể: “Vào Đại học, tôi bắt đầu chú tâm nghiên cứu làng cười của xứ  Kinh Bắc. Bấy giờ, người ta bảo, tiếu lâm là truyện chống lại thế lực  cầm quyền; dưới chế độ tốt đẹp của ta, không c̣n truyện “tiếu lâm” nữa.  Tớ vẫn quyết tâm nghiên cứu v́ cho rằng thời nào cũng có chuyện tiếu  lâm. “Tiếu lâm” nghĩa là rừng cười, kháng chiến có chuyện kháng chiến,  ḥa b́nh có chuyện tiếu lâm thời ḥa b́nh. Ngày nay tiếng cười phê phán  những thói hư tật xấu trong xă hội”.
 
  Tốt nghiệp ra trường, ông Thịnh về lại  cơ quan cũ và tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm truyện tiếu lâm dân gian ở  quê hương. Không biết bao nhiêu đôi lốp xe đă ṃn vẹt v́ rong ruổi cùng  người nghiên cứu văn hóa. Cũng không ít chiếc xe đạp đă “tàn đời” v́  cơng trên ḿnh một người nhiệt huyết. Vậy mà người ấy, cho đến giờ vẫn  dẻo dai, khỏe mạnh và không hề thuyên giảm nhiệt huyết.
 
  Ông Thịnh chia sẻ: “Anh bảo, có xứ nào  nhiều làng cười như xứ Kinh bắc chúng tôi không? Cả Việt Nam, chỉ Quảng  Trị có làng nói Trạng Vĩnh Hoàng, làng cười Văn Lang ở Phú Thọ, c̣n lại  tất 14 làng cười nằm trọn ở xứ Kinh bắc hết! Tôi cứ đi miên man, đến  làng nọ người ta lại giới thiệu tới làng kia, cứ như thế mà thành kho  tàng truỵên tiếu lâm đặc sắc”.
 
  Năm 1988, ông Thịnh cho xuất bản cuốn  “Truyện làng cười xứ Bắc - 14 làng cười truyền thống” (Sở Văn hoá Thông  tin Hà Bắc xuất bản) và đă gây được thiện cảm với nhiều làng cười. Sau  đó, hễ nhớ được những truyện mới là không ít làng nhắn ông về viết để  giữ lại. Ông là người gắn bó với những làng cười, nên hiểu cặn kẽ họ như  ḷng bàn tay, và theo ông mỗi làng lại có một sự độc đáo riêng, cái hay  riêng.
 
  Ví như nghệ thuật nói tức của cười Nội  Hoàng rất từ từ, bà con cứ sống. C̣n ở Đông Loan, bà con la cà, trà dư  tửu hậu, phát triển nói tức rất cập nhật. Theo nhà nghiên cứu Trần Quốc  Thịnh, người dân có thể nói khoác, nói tức để chọc cười bất kể lúc nào  và, không phải chỉ nói với người, đôi khi người ta nói với cả loài vật  và cách nói đó cũng là nghệ thuật.
 
  Hiện nay ông Thịnh đang chú tâm vào  phục hồi chèo cổ truyền thống Việt Nam, để đề nghị Unesco công nhận, lấy  chèo chiếng Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên) làm chuẩn. Sau khi tôi  chào ông ra về, có thể ông sẽ lại ngồi lên xe đạp, rong ruổi về một vùng  quê nào đó, rất thanh thản và lạc quan. Như thế cũng là một kiểu sống,  một kiểu làm việc và đâu có ít ư nghĩa. Đôi lúc tôi nghĩ, ông sẽ không  bao giờ biết buồn, bởi trong ông có cả một kho cười!
  
Dương Khánh Thảo