Economist tính toán về tăng trưởng nóng trong nhóm các nền kinh tế mới  nổi, trong đó có Việt Nam, bằng 6 chỉ số và đưa ra một số kết luận.  
  Khi khái niệm "thị trường mới nổi"được Antoine  van Agtmael, và sau đó là Ngân hàng Thế giới đưa ra 30 năm trước, các  nền kinh tế này với chỉ chiếm 1/3 GDP toàn cầu (tính theo ngang giá sức  mua). 
  
 Đến nay, các nước này đă chiếm hơn 1 nửa GDP toàn  cầu, và các thị trường mới nổi đóng góp tới hơn 4/5 tăng trưởng GDP  thực của toàn thế giới trong 5 năm qua.
Dù vậy, nhiều chuyên gia  vẫn có xu hướng gom các nước này lại với nhau, tách biệt với các nền  kinh tế phát triển. Tin tức về lạm phát tăng cao, các khoản vay tràn lan  và ḍng vốn ào ạt khiến người ta tin rằng tất cả các nền kinh tế mới  nổi đều đang tăng trưởng quá nóng. Trên thực tế, chỉ một số nước tăng  trưởng nóng, và một số nước khác tăng trưởng vừa phải. 
Tờ 
Economist đă chỉ ra các nước tăng trưởng nóng nhất trong số các nền kinh tế mới nổi.
 
 Biểu đồ cho thấy xếp hạng của 27 nền kinh tế mới  nổi có nguy cơ tăng trưởng quá nóng. Economist sử dụng 6 chỉ số để so  sánh các nền kinh tế. Các chỉ số sau đó được cộng lại để lấy một chỉ số  chung. 100 điểm đồng nghĩa với nền kinh tế đó tăng trưởng quá nóng theo  tất cả các chỉ số.
 Bắt đầu với lạm phát. T́nh trạng lạm phát tại các  nền kinh tế mới nổi tăng nhanh hơn tại các nước phát triển, ước tính  trung b́nh khoảng 6,7% trong tháng 5. Mức độ chạy từ 1,7% tại Đài Loan  tới hơn 20% tại Việt Nam, Venezuela và Argentian.
 Hầu hết nguyên nhân khiến lạm phát tăng trng năm  qua là giá lương thực tăng cao, khiến chi phí lương thực chiếm phần  nhiều hơn trong thu nhập so với các nước giàu. V́ vậy, nếu giá lương  thực ổn định, lạm phát sẽ giảm cuối năm nay.
 
 Lạm phát lơi (không tính giá thực phẩm và năng  lượng) tại Trung Quốc chỉ tăng 2,4% nhưng nghiêm trọng hơn tại Brazin  với 5,5% và 8% tại Ấn Độ. Khi tăng trưởng mạnh mẽ mà năng lực sản xuất  c̣n hạn chế và thị trường lao động kém, lạm phát thực phẩm có thể tác  động mạnh đến lương và nhiều loai giá cả khác.
 
 Chỉ số thứ 2 được Economist so sánh là tỷ lệ tăng  trưởng GDP trung b́nh từ năm 2007 so với 10 năm trước đó. Tăng trưởng  tại Argentina, Brazil, Ấn Độ và Indonesia đă vượt xa xu hướng dài hạn,  nhưng vẫn thấp hơn xu hướng tăng tại Hungary, CH Séc, Nga và Nam Phi.  Tăng trưởng tại Trung Quốc cũng thấp hơn xu hướng. 
Thị trường  lao động thắt chặt cho thấy một vài nền kinh tế đă tăng trưởng thiếu bền  vững. Nhờ các biện pháp cải cách, tiềm năng tăng trưởng GDP của một  nước có thể tăng dần qua thời gian. Tại Argentina, Brazil, Indonesia và  Hồng Kông tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn nhiều so với mức trung b́nh 10 năm.  Tỷ lệ thất nghiệp tại Brazil thấp kỷ lục và lương th́ tăng cao.
 
 Hiện tượng thứ 4 của tăng trưởng quá nóng là dư nợ  tín dụng, yếu tố có thể dẫn tới bong bóng tài sản cũng như lạm phát.  Phương pháp tính dư nợ tín dụng tốt nhất là so sánh tăng trưởng tín dụng  ngân hàng với GDP danh nghĩa.
 
 Việc tăng trưởng cho vay tại các ngân hàng nhanh  hơn GDP tại các nền kinh tế mới nổi là b́nh thường khi khu vực tài chính  tăng trưởng, nhưng tín dụng vượt GDP đang ở mức báo động tại Argentina,  Brazil, Hồng Kông và Thổ Nhĩ Kỳ. Tăng trưởng khoản vay khu vực tư nhân  cao hơn GDP danh nghĩa khoảng 20% trong năm qua tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hồng  Kông. 
 Thế nhưng chẳng phải nước mới nổi nào cũng ngập  thanh khoản. 10/27 nước mới nổi, bao gồm Nga, Nam Phi, Ai Cập, Chile,  tín dụng tăng trưởng chậm hơn so với GDP. Tăng trưởng tín dụng tại Trung  Quốc đă giảm một nửa trong năm qua và hiện nay khá cân xứng với tăng  trưởng GDP.
 
 Yếu tố thứ 5 được xem xét là tỷ lệ lăi suất  thực, hiện đang ở mức âm tại hơn một nửa các nền kinh tế. Điều này có  thể phù hợp với những nơi có nhu cầu yếu, nhưng tại các nền kinh tế tăng  trưởng nhanh chóng như Argentina, Ấn Độ, Việt Nam và Hồng Kông, lăi  suất thực âm làm thổi bùng lên tăng trưởng tín dụng và lạm phát. 
Ngược  lại, lăi suất thực gần 6% của Brazil cao nhất thế giới. Lăi suất cho  vay cơ bản của Trung Quốc ở mức dương nhưng chịu áp lực trước các chính  sách thắt chặt gần đây khi ngân hàng trung ương tăng yêu cầu dự trữ bắt  buộc, giới hạn tăng trưởng tín dụng.
Cuối cùng là cán cân văng  lai. Thâm hụt tài khoản văng lai lớn là dấu hiệu cho thấy kinh tế tăng  trưởng quá nóng, nhu cầu trong nước vượt quá nguồn cung. Vấn đề này tại  Thổ Nhĩ Kỳ khá căng thẳng, thâm hụt lên tới 8% GDP trong năm nay từ mức  2% năm 1999. Thâm hụt tài khoản văng lai tại Brazil hay Ấn Độ cũng cho  thấy nhu cầu nội địa đang tăng quá nhanh.
 
 Tính tổng 6 yếu tố trên, 
Economist  chỉ ra 7 điểm nóng tăng trưởng trên thế giới: Argentina, Brazil, Hồng  Kông, Ấn Độ, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam. Argentina là nước duy  nhất với 6 chỉ số đều ở mức đỏ, nhưng Brazil và Ấn Độ cũng không kém  mấy. 
 Trung Quốc, thường là tâm điểm lo lắng về tăng  trưởng quá nóng, lại ở ngưỡng khá an toàn, nhờ các biện pháp thắt chặt  chính sách tiền tệ mạnh tay. Nhóm nước Nga, Mehico và Nam Phi đang ở  trong ngưỡng an toàn, rủi ro tăng trưởng quá nóng khá thấp.
 Nhóm các nước tăng trưởng quá nóng với lăi suất  thực âm cần điều chỉnh nâng lên. Chính sách tài khóa tại nhiều nước hiện  nay cũng lỏng lẻo. Thâm hụt ngân sách đă giảm nhẹ so với năm 2009 nhưng  chủ yếu bởi tăng trưởng cao khiến nguồn thu từ thuế tăng lên. Nh́n  chung, 6/7 nền kinh tế đang có thâm hụt ngân sách khá cao (Ấn Độ thâm  hụt tới 8% GDP), duy nhất ngân sách của Hồng Kông thặng dư. Nếu bỏ qua  các cảnh báo th́ có thể sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Nguồn Gafin.vn