- Khi Mao Trạch Đông lên nắm quyền vào năm 1949, mục tiêu trước mắt của ông là thiết lập lại 1 nước Trung Quốc "lớn hơn Trung Quốc của triều đại nhà Thanh", một đế chế của người Măn Châu lâu dài trong lịch sử Trung Quốc.
Giáo sư John Lee, đại học Sydney
Tờ Bưu điện Hoa Nam ngày 2/3 đăng bài phân tích của học giả John Lee, một giáo sư, giảng viên tại Trung tâm Nghiên cứu an ninh quốc tế, đại học Sydney và là 1 học giả không thường trú tại viện Hudson ở Washington DC, Hoa Kỳ. Tác giả khẳng định, yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông chủ yếu dựa vào một tuyên bố lịch sử không rơ ràng với đường "lưỡi ḅ" chín đoạn và khẳng định nó có chủ quyền "không thể tranh căi" với gần như toàn bộ Biển Đông.
Trong bài phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu các vấn đề chiến lược - quốc tế ở Washington mới đây, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe khẳng định rằng, Tokyo sẽ không tha thứ cho các hành động leo thang gây hấn của Trung Quốc ngoài Senkaku khiến Tổng thống nước chủ nhà phải kêu gọi hai bên b́nh tĩnh, kiềm chế.
Tuy nhiên, sẽ khó khăn hơn rất nhiều đối với Nhật Bản để thuyết phục Trung Quốc kiềm chế. Sự "quyết đoán" của Trung Quốc trong các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh phản ánh một tham vọng khai thác tài nguyên đáy biển hoặc để đạt được một chiến lược mở rộng cửa ngơ ra Tây Thái B́nh Dương. Tham vọng bành trướng lănh thổ của giới chức Trung Quốc càng về sau càng lớn hơn trước.
Khi Mao Trạch Đông lên nắm quyền vào năm 1949, mục tiêu trước mắt của ông là thiết lập lại 1 nước Trung Quốc "lớn hơn Trung Quốc của triều đại nhà Thanh", một đế chế của người Măn Châu lâu dài trong lịch sử Trung Quốc. Nhưng nhà Thanh bị các cường quốc phương Tây tấn công là một thực tế lịch sử mà giới chức Trung Quốc dường như không muốn thừa nhận.
Theo John Lee, Mao Trạch Đông đă đạt được mục tiêu của ḿnh sau khi "giải phóng ḥa b́nh các nước cộng ḥa Đông Turkestan", bây giờ là Tân Cương vào năm 1949 và "giải phóng Tây Tạng" năm 1950, làm tăng kích thước lănh thổ Trung Quốc lên hơn 1/3 diện tích lănh thổ so với thời kỳ trước đó.
Kể từ đó về sau, mỗi một nhà lănh đạo lên kế nhiệm đều theo đuổi tham vọng mở rộng lănh thổ lớn hơn người tiền nhiệm. Ví dụ dễ thấy nhất, theo SCMP, trước năm 1968 - thời điểm công bố kết quả nghiên cứu trữ lượng dầu mỏ rất lớn dưới đáy Biển Hoa Đông, Bắc Kinh gần như không quan tâm ǵ tới Senkaku, nhóm đảo mà sau này họ gọi là Điếu Ngư.
Một ví dụ nữa gần hơn và rơ hơn cả về tham vọng bành trướng lănh thổ của Trung Quốc đó là yêu sách đ̣i "chủ quyền" với gần như toàn bộ diện tích Biển Đông dựa vào đường "lưỡi ḅ" 9 đoạn mơ hồ mà Bắc Kinh đưa ra năm 2009.
Từng giữ vai tṛ là một cường quốc chi phối cả khu vực Đông Á trong hàng ngàn năm lịch sử phong kiến, giới chức Trung Quốc dường như đă coi đó là thành tích lịch sử và khó chấp nhận 1 giai đoạn bị các nước phương Tây đô hộ.
Sau này, trong tranh chấp lănh thổ với các quốc gia láng giềng nhỏ hơn, nếu Trung Quốc rút khỏi những tranh chấp trên sẽ bị giới chức nước này xem như một thất bại nhục nhă chứ không phải một bước đi nhằm đảm bảo an ninh, ḥa b́nh, ổn định lâu dài trong khu vực.
Cái gọi là "trỗi dậy ḥa b́nh" hiện nay của Trung Quốc là t́m cách phục hồi "một quá khứ vinh quang", điều này có nghĩa là thay đổi trật tự khu vực chứ không phải khẳng định một trật tự hiện có. Bởi vậy, Mỹ và Nhật Bản sẽ phải hạn chế các lựa chọn chiến lược và quân sự của Trung Quốc.
theo gd