- Nho sinh phải mất rất nhiều công phu học và vất vả gian nan. Cực khổ nhất là phải chờ hai ba năm mới có kỳ thi. Khi đi thi thí sinh lại phải mang theo lều, chơng, thức ăn, lặn lội xa xôi lên kinh thành.
Giáo dục khoa cử ở Việt Nam có từ thời nhà Lư, ḱ thi đầu tiên vào năm 1075 dưới thời vua Lư Nhân Tông. Đến năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lật đổ triều Tây Sơn và lập nên triều Nguyễn, dù là một triều đại trong thời ḱ cận đại nhưng nhà Nguyễn vẫn duy tŕ Nho học bởi tư tưởng Nho giáo vẫn c̣n là công cụ cai trị hữu hiệu cho một triều đ́nh phong kiến.
Trường học thời nhà Nguyễn là nơi học sinh đến để học*chữ Nho*và*Nho giáo. Ở nông thôn cũng như thành thị trước khi khoa cử bị băi bỏ vào đầu*thế kỷ 20 đều có những*thầy đồ*mở trường tư tại gia dạy học.
Thầy đồ làng.
Thầy đồ đa số là những vị quan về hưu hoặc những người chỉ đỗ*tú tài*tự ư mở lớp chứ không có sự giám sát của chính quyền. Một người thầy hay chữ có thể có đến hàng ngh́n học sinh theo học. Với số đông như vậy thầy giáo thường chọn lấy một người học tṛ giỏi giang hơn cả mà giao phó trách nhiệm làm*trưởng tràng, giúp thầy trông coi các môn đệ. Ngoài ra lại có*cán tràng*và*giám tràng*hiệp lực.
Trẻ con muốn nhập học th́ thường mang*xôi,*gà*đến biếu thầy và làm lễ*khai tâm, cúng*Khổng Tử để xin làm đệ tử.
Ở những làng giàu có th́ một phần*công điền*gọi là "học điền" có thể được dùng để lấy tiền gạo nuôi thầy đồ trong làng,*c̣n ở những làng không có phương tiện th́ chỉ nhà giàu mới có tiền cho con theo học mà thôi.
Ngoài ra c̣n có một số cơ sở giáo dục thuộc nhà*chùa, tuy không với mục đích dạy học tṛ để thi đỗ nhưng cũng góp phần vào việc đào tạo một số người.
Triều đ́nh th́ ở cấp*huyện*trở lên mới tham gia trong việc giáo dục. Thấp nhất là trường huyện có quan huấn đạo (hàng thất phẩm) dạy. Lên tới*phủ*th́ quan Giáo thụ (hàng lục phẩm) rồi Đốc học (hàng tứ phẩm) ở trường tỉnh trông coi.
Kể từ năm*1803*th́ ở*Huế*mở trường*Quốc Tử Giám*để các con quan và những người trúng tuyển ở các tỉnh vào thụ giáo các quan tế tửu và tư nghiệp.
Trường*Quốc học Huế.
Về tổ chức khoa thi, đời vua Gia Long chỉ tổ chức thi Hương, nhưng đến đời vua Minh Mạng*khoa cử được chỉnh đốn lại và năm*1828*mở thi Hội, rồi thi Đ́nh để chọn tiến sĩ.
Vua Minh Mạng cũng ra thêm học vị Phó bảng năm*1829*để chọn đỗ thêm người. Đặc biệt, việc thay đổi thời này là việc bỏ Đệ nhất giáp, học vị Trạng Nguyên, Bảng nhăn không c̣n trên khoa bảng nữa. Những thay đổi ở đời Minh Mạng kéo dài măi đến năm 1919, thể chế khoa bảng chính thức bị băi bỏ.
Năm 1887, thực dân Pháp xâm lược ở nước ta, người Pháp đă tổ chức ra một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương, cách tổ chức thi cử,giáo dục từ đó cũng thay đổi theo. Trong giai đoạn đầu (1862-1917) ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có sự tồn tại song song giữa một chế độ khoa cử kiểu Nho giáo, và chế độ giáo dục của Pháp ở Nam Kỳ.
Như vậy, nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng áp dụng h́nh thức thi cử theo lối nho giáo tồn tại cả ngàn năm. Cùng nh́n lại khoa cử, giáo dục thời Nguyễn:
Nho sĩ thời Nguyễn.
Trường thi Nam Định năm 1897.
Cảnh lều chơng đi thi.
Giám khảo coi* thi.
Bảng vàng.
Sĩ tử và thân nhân nghe xướng danh.
Tổng đốc thay mặt nhà vua ban yến tiệc cho các tân khoa.
Tân khoa dự tiệc.
Tân khoa dạo phố.
Lê Trang - Hữu Phước
Theo Infornet