
Căn pḥng bệnh tầng 6, Bệnh viện Ung Bướu, buổi chiều âm u tháng Mười Hai.
Người phụ nữ nằm đó, tóc rụng gần hết, da xanh xao, ánh mắt vẫn sáng nhưng mệt mỏi. Lê Thị Mai – 40 tuổi, giáo viên cấp hai – đă chống chọi với UT vú giai đoạn cuối suốt hơn một năm qua. Mỗi đợt hóa trị là một lần rút cạn sức lực, là những đêm cô co quắp trong pḥng tắm, nôn đến không c̣n ǵ để nôn, chỉ có nước mắt chảy ra thay lời.
Hơn một năm qua, người chồng – ông Phạm Văn Khải, giám đốc một công ty vật liệu xây dựng – ngày càng thưa lui những lần vào viện. Lúc đầu c̣n giả vờ bận, sau th́ thẳng thừng:
“Anh không chịu nổi cái cảnh này nữa, Mai à. Em biết rồi đấy, anh c̣n công việc, c̣n phải sống.”
Và rồi, một ngày, ông công khai dọn ra ngoài sống cùng cô thư kư trẻ tên Trâm – xinh đẹp, trẻ hơn Mai đến gần 20 tuổi. Người trong họ tộc biết chuyện đều x́ xào, chê trách, nhưng ông Khải th́ chẳng mảy may bận tâm. “Người sắp chết rồi c̣n ràng buộc làm ǵ!” – ông từng lỡ lời buột miệng trong một cuộc nhậu, và lời đó sau này như nhát dao tự đâm vào tim ḿnh.
Với ông Khải, Trâm là ánh sáng giữa tuổi trung niên lụi tàn. Cô chiều chuộng, biết điều, lại luôn khen ông phong độ, bản lĩnh. Trái ngược với Mai – người vợ ngày càng gầy yếu, u uất, và chẳng c̣n là “đối tác” hấp dẫn trong mắt một người đàn ông đang thèm sống cuộc đời sung sướng.
“Cô ấy c̣n trẻ, đẹp, biết yêu chiều tôi, không như bà Mai suốt ngày chỉ biết than thở với bệnh tật.” – ông Khải biện minh với bạn bè.
Rồi ông bán luôn căn nhà hai vợ chồng từng ở, lấy tiền tậu chung cư cao cấp cho Trâm. C̣n Mai? Ông đưa cho chị một khoản tiền gọi là “chia tay êm đẹp”, rồi dứt áo. Đến giấy tờ ly hôn, ông cũng ép chị kư khi chị đang truyền nước biển.
Mai kư. Lặng lẽ. Không khóc.
Bởi hơn ai hết, chị biết, t́nh yêu đă chết từ lâu trong ḷng người đàn ông từng thề sẽ đi cùng chị suốt đời. Cái đau của bệnh tật giờ đây không đáng ǵ so với sự phản bội này.
Không phải ai cũng bỏ Mai đi. Trong những ngày cuối đời, chị vẫn có một người bên cạnh – ông Tư Phúc – hàng xóm cũ, từng là bạn thân của bố Mai. Gọi là “ông”, nhưng thật ra Tư Phúc chỉ hơn chị 8 tuổi, sống độc thân, làm nghề sửa máy may dạo. Bao năm qua, ông vẫn lặng lẽ giúp đỡ Mai từ khi chồng chị bỏ đi.
Từng ly cháo nóng, từng hộp thuốc lấy từ thiện, từng đêm ông ngồi ngủ gục ở hành lang bệnh viện chờ Mai nôn xong để d́u vào nằm… Không ai biết, nhưng có lẽ chính Tư Phúc là lư do khiến Mai vẫn gượng sống thêm được hơn nửa năm nữa.
Một ngày trước khi mất, Mai gọi luật sư riêng tới. Bà Hạnh – bạn cũ của chị – lặng lẽ xuất hiện và cùng Mai kư vào một bản di chúc.
Không ai biết nội dung. Chỉ có hai người chứng kiến kư tên.
Buổi sáng sương lạnh, di ảnh Mai đặt trên bàn tang lễ. Ông Khải bước vào, tay nắm chặt Trâm. Nhưng ánh nh́n của mọi người đều né tránh, hoặc khinh miệt.
Trâm thầm rít qua kẽ răng:
“Ông làm ǵ mà dẫn tôi tới đây? Bà ta chết rồi c̣n ǵ?”
Ông Khải đáp lạnh băng:
“Bà ấy vẫn là vợ tôi trên giấy tờ. Dù ly thân, nhưng tôi vẫn có trách nhiệm. Vả lại… tài sản bà ấy c̣n nhiều lắm, đừng khinh thường.”
Nửa câu sau, Trâm mới hiểu. Đó là lư do thật sự khiến ông Khải có mặt.
Ngay sau tang lễ, luật sư Hạnh xuất hiện, cùng bản di chúc được công chứng và mở ngay tại buổi lễ – theo nguyện vọng người quá cố.
“Bản di chúc này được lập ngày 12 tháng 12, dưới sự chứng kiến của tôi và ông Tư Phúc, đúng pháp luật. Nội dung như sau:
Toàn bộ số tiền tiết kiệm, 2 căn nhà đứng tên tôi, và 1 miếng đất nông nghiệp trị giá 6 tỷ đồng – tôi để lại cho người có tên là Phúc – người đă chăm sóc tôi những tháng cuối đời.”
Mọi người ồ lên.
C̣n ông Khải th́ trợn tṛn mắt:
“Cái ǵ? Cô ấy lấy đâu ra đất? Tiền đâu mà có đến 6 tỷ?”
Luật sư điềm tĩnh nói tiếp:
“Đó là phần tài sản Mai thừa kế từ cha mẹ ruột – được giữ riêng, không chung với ông. Theo pháp luật, là tài sản riêng. Bà Mai cũng để lại một lá thư cuối cùng.”
Lá thư được luật sư đọc chậm răi, rành mạch:
“Gửi anh Khải – người tôi từng yêu hơn cả bản thân.
Khi anh đọc lá thư này, có thể anh sẽ giận tôi. Nhưng đây là tiếng nói cuối cùng tôi dành cho người từng là chồng ḿnh.
Tôi biết, anh bỏ tôi không chỉ v́ bệnh, mà v́ trong ḷng anh, tôi không c̣n giá trị. Anh từng nói, tôi là ‘gánh nặng’. Vậy th́ hôm nay, tôi xin giải thoát anh khỏi gánh nặng ấy – cả thể xác lẫn tâm hồn.
Tôi để lại tài sản cho người đă ở bên tôi những ngày cuối, không phải v́ t́nh yêu nam nữ, mà v́ ông ấy cho tôi biết: tôi vẫn xứng đáng được trân trọng, dù không c̣n mái tóc hay làn da hồng hào.
Tôi chỉ tiếc, chúng ta từng có những năm tháng hạnh phúc, và tôi đă yêu anh đến ngu muội.
Chúc anh sống hạnh phúc với lựa chọn của ḿnh – nếu anh có thể.”
Trâm nổi đóa, đẩy ghế đứng dậy, gằn giọng:
“Ông bảo là bà ta chẳng c̣n ǵ, giờ th́ sao? Chúng ta cặp với nhau v́ cái ǵ hả?”
Ông Khải lắp bắp:
“Anh… không biết… Anh tưởng bà ấy không có ǵ…”
Ngay tối hôm đó, Trâm dọn đồ bỏ đi. Không nhắn một tin.
Ông Khải về căn hộ rộng thênh thang, rượu nồng xộc lên óc, gọi điện cho luật sư yêu cầu khiếu kiện di chúc, nhưng bà Hạnh cười nhẹ:
“Không thể. Di chúc đúng luật, có chứng thực, nhân chứng. Ông nên học cách chấp nhận đi.”
Mấy ngày sau, người ta thấy ông Khải lang thang quanh nghĩa trang, đứng trước mộ Mai suốt mấy giờ, rồi gục đầu xuống bia đá mà khóc như một đứa trẻ.
Tư Phúc không nhận lấy tài sản.
Ông kư giấy nhường lại toàn bộ đất và nhà cho một tổ chức từ thiện mang tên Mai – nơi sẽ mở lớp học miễn phí cho trẻ em nghèo.
Trên bảng hiệu dựng lên sau đó, có ḍng chữ:
“Trung tâm học tập Mai An – Nơi bắt đầu từ một người phụ nữ bị bỏ rơi, nhưng không đánh mất t́nh yêu thương.”
VietBF@sưu tập