Hệ thống tiêu chí và kết quả đánh giá của “Bảng xếp hạng sức mạnh quân sự quốc gia” này chỉ có giá trị giải trí và tham khảo chứ không hề được sự công nhận của các chuyên gia hoặc tổ chức quân sự trên thế giới.
Chỉ là nguồn tin có tính giải trí và tham khảo
Trong 3 ngày qua, một số trang tin điện tử và báo mạng Việt Nam đă đăng tải một thông tin nước ngoài về bản danh sách 68 nước có thực lực quân sự hàng đầu thế giới, trong đó Việt Nam xếp hạng thứ 25. Nguồn tin trích dẫn được giới thiệu là của GFP - “Tổ chức xếp hạng sức mạnh quân sự toàn cầu”. Trên thực chất đây là một nguồn tin không đáng tin cậy, chỉ mang tính chất tham khảo, giống như một số trang tin quốc pḥng do các cá nhân hoặc một nhóm yêu thích quân sự lập ra, các tiêu chí b́nh chọn do họ tự đặt ra, không đại diện cho một tổ chức quân sự hoặc một tạp chí quốc pḥng có uy tín.
Lần theo nguồn gốc của thông tin, bảng xếp hạng của GFP có địa chỉ Website
http://www.globalfirepower.com. Ở phần giới thiệu trang có ghi rơ ḍng chữ: “Past of the MilitaryFactoryNetwo rk-Material presented throughtout this website is for historical and entertainment value”, tạm dịch là: “Thuộc một bộ phận trang MilitaryFactory - Tin, ảnh giới thiệu trên web này có giá trị lịch sử và giải trí”.
Như vậy, trang gốc của nó là MilitaryFactoryNetwo rk, địa chỉ
http://www.militaryfactory.com. Trên trang này cũng được chú thích rất rơ bằng tiếng Anh: “Material presented throughout this website is for historical and entertainment value and should not to be construed as usable for hardware restoration, maintenance or general operation. Please consult manufacturers for such information”. Câu này có ư nghĩa: “Các bài viết tŕnh bày trên Web này có giá trị lịch sử, giải trí và không được coi là có giá trị cho việc sửa chữa, phục hồi, bảo dưỡng hoặc vận hành vũ khí trang bị. Hăy tham khảo nhà sản xuất về những thông tin này”.
Mặc dù tiềm lực quốc pḥng của Việt Nam đă được nâng cao nhưng chúng ta không nên ảo tưởng về sức mạnh của ḿnh
Những thông tin trên đă giải thích rơ ràng là 2 trang này không khẳng định thông tin của ḿnh là nguồn chính thống để người đọc có thể trích dẫn, tham khảo, phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học và biên soạn tài liệu, v́ vậy thông tin trên đó không thể coi là nguồn tư liệu có giá trị tin cậy. Điều này có thể chứng minh qua việc chúng ta hầu như không thấy có một tờ báo hay trang mạng về quân sự có uy tín trên thế giới như Jane’ Defence Weekly của Anh hay tạp chí Kanwa Defence Review - Canada hoặc Defence News của Mỹ trích dẫn thông tin từ trang này cả.
Giới thiệu về tiêu chí b́nh chọn
GFP đă dựa trên 8 tiêu chí gồm 40 danh mục để đánh giá sức mạnh quân sự của 68 quốc gia mà họ thu thập được, cụ thể như sau:
1. Nguồn lực con người: Tổng dân số, dân số có thể huy động, dân số đủ tiêu chuẩn nhập ngũ, nhân khẩu hàng năm đến tuổi nhập ngũ, số lượng quân nhân tại ngũ, số lượng quân dự bị.
2. Lực lượng lục quân: Số lượng xe tăng, thiết giáp, pháo tự hành, pháo xe kéo, pháo hỏa tiễn (Rocket), pháo cối cá nhân, tên lửa chống tăng vác vai và xe vận tải.
3. Lực lượng không quân: Tổng số máy bay phản lực, trực thăng và số lượng sân bay.
4. Hải quân: Tổng số tàu thuyền, trong đó bao gồm: số lượng hàng không mẫu hạm, tàu hộ vệ (gồm cả tàu hộ vệ hạng nhẹ), tàu khu trục, tàu tuần dương, tàu ngầm, tàu tuần tiễu ven bờ, tàu quét/rải lôi, tàu đổ bộ.
5. Nguồn lực dầu mỏ: Tổng sản lượng (nếu có khai thác), lượng nhập khẩu, lượng dự trữ.
6. Khả năng huy động hậu cần: Sức lao động, số lượng thương thuyền có thể huy động, số lượng cảng khẩu và eo biển, chiều dài đường quốc lộ và đường sắt.
7. Kinh tế: Ngân sách quốc pḥng trong năm, nợ nước ngoài, dự trữ ngoại tệ, GDP tính theo sức mua b́nh quân.
8. Địa lí: Diện tích quốc gia, chiều dài bờ biển, chiều dài đường biên giới, chiều dài tuyến đường thủy.
Một mặt chúng ta mua sắm thêm trang thiết bị, mặt khác đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc pḥng trong nước
Những hạn chế trong tiêu chí đánh giá
Thoạt nh́n những thống kê trên có vẻ đầy đủ và chi tiết nhưng trên thực tế nó c̣n rất nhiều khiếm khuyết nghiêm trọng, ảnh hưởng đến việc đánh giá.
Thứ nhất: Vơi các tiêu chí đánh giá như trên, bảng xếp hạng này không thể coi là “Bảng xếp hạng sức mạnh quân sự quốc gia” mà phải gọi là “Bảng xếp hạng tiềm lực quốc pḥng”. Tiềm lực quốc pḥng là khái niệm dùng để chỉ sức mạnh quốc pḥng của một quốc gia, bao hàm trong nó là sức mạnh quân sự (của quân đội) và nguồn lực tổng hợp của quốc gia có thể huy động cho chiến tranh. Điều đó thể hiện trong bảng xếp hạng trên ở các tiêu chí: Nguồn lực con người, nguồn lực dầu mỏ, khả năng huy động hậu cần, kinh tế, địa lí…
Thứ hai: Bảng xếp hạng chỉ tính tổng số mà không thống kê và phân tích nhiều danh mục đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến sức mạnh quân sự của một quốc gia, bao gồm: số lượng vũ khí mang tính chiến lược (ví dụ như: máy bay ném bom chiến lược, tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo); số lượng tên lửa liên lục địa; số lượng đầu đạn hạt nhân và vệ tinh quân sự. Đây là những yếu tố then chốt, có ảnh hưởng quyết định đến sức mạnh quân sự của 1 quốc gia, một nước sở hữu vũ khí hạt nhân chắc chắn là mạnh hơn rất nhiều so với nước có hàng ngàn loại vũ khí thông thường. V́ vậy, gọi nó là “Bảng xếp hạng sức mạnh quân sự quốc gia theo vũ khí thông thường” cũng không đúng mà coi là “Bảng xếp hạng tiềm lực quốc pḥng trong chiến tranh thông thường” cũng không được.
Thứ ba: Việc chỉ thống kê số lượng, mà trong thống kê cũng không quy định tiêu chuẩn giăn nước tối thiểu, gộp cả những tàu tác chiến ven bờ có lượng giăn nước 200-300 tấn, dẫn đến đánh giá rất thiếu chính xác, thiệt tḥi cho những nước sở hữu ít tàu loại này. Đơn cử ví dụ: về tiêu chí hải quân, họ đánh giá Top 3 về số lượng tàu thuyền là Trung Quốc dẫn đầu với 972 tàu, Triều Tiên xếp thứ 2 với 708 tàu, Thái Lan đứng thứ 3 với 598 tàu, c̣n Mỹ đứng thứ 5 với 290 tàu? Điều đó xuất phát từ nguyên nhân Trung Quốc, Triều Tiên, Thái Lan mỗi nước có hàng trăm tàu tuần tiễu, tàu quét lôi và tàu tên lửa vài trăm tấn (ví dụ: riêng tàu tên lửa lớp 022, lượng giăn nước 220 tấn, Trung Quốc đă có khoảng gần 100 chiếc, c̣n Mỹ chỉ có vài chục tàu tác chiến ven bờ nhưng mỗi tàu có lượng giăn nước tới 4000 tấn). Chỉ cần đưa thêm tiêu chuẩn tàu phải có lượng giăn nước từ 1000 tấn trở lên, kết quả bảng xếp hạng sẽ khác ngay.
Thứ tư: Nếu đă đưa ra tiêu chí đánh giá về tiềm lực quốc pḥng, việc thiếu chỉ số năng lực công nghiệp quốc pḥng đă khiến nhiều nước có thực lực quân sự kém xếp hạng trên nhiều cường quốc về quân sự. Không thể phi lư hơn khi các nước thực lực không mạnh, công nghiệp quốc pḥng kém phát triển như: Ai Cập (hạng 14), Indonesia (15), Thái Lan (20), Mexico (21), Việt Nam (25) có thể xếp trên Thụy Điển (26), Saudi Arabia (27), Triều Tiên (28) và Tây Ban Nha (30). Đây là những nước đă chế tạo thành công vũ khí hạt nhân, hoặc tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (Triều Tiên), hoặc chế tạo được và đang sở hữu hàng không mẫu hạm, tuần dương hạm hàng vạn tấn (Tây Ban Nha), đóng được tàu ngầm AIP tiên tiến nhất trên thế giới, chế tạo máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4 Gripen như Thụy Điển.
Cần tỉnh táo nhận thức Việt Nam đang ở vị thế nào và cần phải làm ǵ để tăng cường tiềm lực quốc pḥng, huy động nguồn lực tổng hợp của quốc gia để bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Kết luận:
Như vậy, chúng ta có thể thấy hệ thống tiêu chí và kết quả đánh giá của bảng xếp hạng này là như thế nào, nó chỉ có giá trị giải trí và tham khảo chứ không hề được sự công nhận của các chuyên gia hoặc tổ chức quân sự trên thế giới. Cần phải nhận thức đúng đắn về vấn đề này, tránh tuyên truyền không chính xác, “ru ngủ” người Việt Nam, tuyên truyền hộ hoặc thậm chí là tiếp tay cho địch.
Chúng ta cần làm rơ để người Việt Nam không ngộ nhận và ảo tưởng vào sức mạnh quân sự của ḿnh, dẫn đến lơ là, mất cảnh giác. Qua những phân tích trên chúng ta phải tự nhận thấy, xét theo những tiêu chí đánh giá thực lực quân sự, Việt Nam ta đang ở vị trí nào và cần phải làm những ǵ để tăng cường tiềm lực quốc pḥng, nâng cao sức mạnh quân sự, huy động nguồn lực tổng hợp của quốc gia để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Theo An Ninh Thủ Đô