Trong khi đang có các tranh căi và đối đầu về chủ quyền ở Biển Đông, một số nhà quan sát lên tiếng cảnh báo hiện tượng người Hoa ở hải ngoại, nhất là các nước Á châu, có thể phải hứng chịu làn sóng dân tộc chủ nghĩa không lường trước được.
Philip Bowring, cựu chủ biên tạp chí Far Eastern Economic Review chuyên các vấn đề khu vực (nay đă đ́nh bản), vừa có bài phân tích về khía cạnh này. BBCVietnamese.com mời quư vị tham khảo.
Cây bút kỳ cựu này cho rằng người Trung Quốc ở nước ngoài, nhất là các nước Đông Nam Á, cần quan ngại về thái độ hung hăng của chính quyền trong nước họ tại Biển Đông và cẩn trọng khi có bất cứ biểu hiện ǵ về ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh.
Một điều mà người nào cũng hiểu là “Ăn cây nào rào cây ấy” – người sinh sống ở nước nào không kể sắc tộc đều được trông đợi trung thành với quốc gia sở tại.
So sánh với các nước khác trong khu vực, người gốc Hoa ở Philippines được cho là hội nhập tương đối tốt.
Người Hoa bắt đầu vào Philippines số lượng lớn từ nhiều thễ́ kỷ nay và thông qua hôn nhân với người bản địa họ dần dần thâm nhập vào trong xă hội, tới nỗi ngày nay nhiều khi khó có thể phân biệt được đâu là người gốc Hoa, chí ít là qua tên gọi.
Thí dụ cựu tổng thống Cory Aquino, thân mẫu tổng thống hiện tại, là người gốc Hoa với họ là Cojuangco, nhưng nghe tên không th́ khó có ai biết điều này.
Không bỏ nguồn gốc
Một điều đáng chú ư là thế hệ người Hoa mới sang định cư ở các quốc gia khác trong chừng mực nào đó vẫn c̣n gắn bó chặt chễ với mẫu quốc.
Lư do th́ có nhiều, như để làm ăn, hay để giữ trung lập trong các chủ đề gây tranh căi có liên quan Trung Quốc. Một doanh nhân Philippines gốc Hoa mới đây được dẫn lời nói:
“Cha tôi là Trung Hoa c̣n cha dượng là Philippines. Hai ông hiện đang có căi cọ. Việc của chúng tôi là t́m cách hàn gắn bất đồng”.
Thân mẫu tổng thống Aquino là người gốc Hoa
Cộng đồng người Hoa đối diện nhiều đe dọa, nếu như Bắc Kinh bị cho là có thái độ hằn thù với quốc gia sở tại hay sử dụng người Hoa ở nước ngoài để chống lại quốc gia đó.
Người ta c̣n nhớ t́nh h́nh những năm 1965-1966, khi người gốc Hoa thiệt mạng nhiều nhất trong các vụ thanh trừng các nhóm thân cộng sản ở Indonesia.
Tương tự, ở Malaysia năm 1969, làn sóng bạo động của phe cộng sản một thập niên trước đó đă khiến người dân quay sang tấn công người gốc Hoa.
Liệu những ǵ xảy ra với người Hoa ở Việt Nam sau khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam năm 1979 có nằm trong trào lưu này hay không?
Philip Bowring cho là có, và viết thêm rằng nhiều người Hoa buộc phải ra đi lúc đó.
Trung Quốc và sự trỗi dậ́y về kinh tế của quốc gia này khiến t́nh h́nh trở nên phức tạp tại các nơi mà dân nhập cư gốc Hoa đă hội nhập đáng kể.
Nếu như ai đó bị ảnh hưởng bởi làn sóng bài Trung Quốc, th́ đó trước hết sẽ là các doanh nghiệp bản địa nhỏ, gốc Hoa.
Sử sách
Trong một bài viết khác, phân tích gia Philip Bowring nhận định rằng cách thức dạy sử của Trung Quốc, nhất là trong các trường học, đă gây khó khăn cho việc giải quyết bất đồng về biển đảo.
Sách lịch sử của Trung Quốc, theo ông, đang có xu hướng bị thay đổi để biện minh cho các hoạt động bành trướng của nước này.
Vụ liên quan Băi cạn Scarborough là một ví dụ. Băi này nằm cách Luzon của Philippines 135 hải lư, nhưng cách Hoa Lục tới 350 hải lư.
“Cả hai luồng chứng cứ mà Trung Quốc đưa ra – “người Trung Quốc đă đặt chân tới đó đầu tiên” và “Trung Quốc có bằng chứng lịch sử” – đối với nhiều vùng biển đảo đều không thực sự thuyết phục.”
Nó c̣n nằm trong khu vực Đặc quyền kinh tế của Philippines.
Để minh chứng cho tuyên bố chủ quyền của ḿnh, bất chấp các chi tiết địa lư rành rành ở trên, Trung Quốc quay sang sử dụng cái mà nước này gọi là “bằng chứng lịch sử”.
Bằng chứng mà Bắc Kinh đưa ra là băi cạn, mà Trung Quốc gọi là Hoàng Nham đảo, cùng vùng biển xung quanh, đă được mô tả trong một bản đồ Trung Quốc có từ thế kỷ 13.
Chi tiết một tàu thủy của người Trung Quốc đă cập vào Hoàng Nham và ghi nhận sự tồn tại của băi đá này trở thành một trong các chứng cứ về chủ quyền.
Trung Quốc cũng chứng minh chủ quyền đối với nhiều ḥn đảo bằng cách thức như vậy. Bắc Kinh cũng lớn tiếng tuyên truyền về nhà hàng hải Trịnh Ḥa thế kỷ 15, mà Trung Quốc coi là người khai phá nhiều vùng biển mới.
Tuy nhiên, cây viết Bowring chỉ ra rằng lịch sử cho thấy người Trung Quốc thực ra tới Biển Đông muộn hơn so với người nhiều dân tộc khác như người Indonesia, người Mă Lai, Philippines, và cả người Việt.
Người Indonesia có lịch sử viễn dương vượt xa người Trung Quốc: họ đă tới chiếm cứ ḥn đảo lớn thứ ba thế giới là Madagascar, cách Indonesia 4.000 dặm cả ngh́n năm trước các chuyến đi của đô đốc Trịnh Ḥa.
Nay ngôn ngữ và ḍng nhân chủng của Madagascar có tới 50% là gốc gác Malay.
Tóm lại cả hai luồng chứng cứ mà Trung Quốc đưa ra – “người Trung Quốc đă đặt chân tới đó đầu tiên” và “Trung Quốc có bằng chứng lịch sử” – đối với nhiều vùng biển đảo đều không thực sự thuyết phục.
Philip Bowring cho rằng Trung Quốc có sức mạnh để ép buộc các quốc gia khác phải lắng nghe tuyên bố chủ quyền của ḿnh.
Thế nhưng Bắc Kinh cần dừng lại để lắng nghe phản ứng của các nước khác trước khi quá muộn.
Theo BBC