Phẩm chất số 8 là công minh. Không cần nói ra, ai cũng biết công minh là đối xử với mọi người một cách công bằng và minh bạch, trước sau như một. Phẩm chất công minh đòi hỏi người lãnh đạo phải tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo pháp quy chứ không phải theo những mối liên hệ cá nhân và bè phái. Chế độ cộng sản không xem công minh là quan trọng. Chính vì thế mà khi Liên Xô đổi mới, Gorbachev giương cao ngọn cờ “Glasnost” mà thực chất là công minh hóa.
Nhưng ở nước ta trong thể chế hiện tại, tất cả các mối liên hệ chịu sự chi phối của thân thế, quyền lực và Đảng. Dân gian vẫn nói “Nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế”. Quan tòa xét xử dựa vào cái gọi là “nhân thân” hơn là lý luận tội trạng. Người ngoài Đảng lúc nào cũng bị thiệt thòi hơn Đảng viên. Đó là chưa kể đến nạn địa phương chủ nghĩa. Một người vào trung ương liền kéo theo đàn em, đàn anh địa phương theo để kết bè kết cánh. Hệ quả là tất cả những hành xử đều dựa vào thân thế, bè phái. Hễ cứ đến kỳ đại hội Đảng là có những trò đánh đấm nội bộ và họ sử dụng báo chí cho mục tiêu đó. Nhìn bề ngoài người ta sẽ nghĩ báo chí có tự do nêu lên những cá nhân “tiêu cực”, nhưng dần dần người dân biết quá rõ rằng đó là những trò đánh đấm để tranh quyền tranh chức. Lãnh đạo mà không công minh, hành xử trước sau bất nhất thì làm sao huy động được quần chúng. Không ngạc nhiên khi thấy người dân xem lãnh đạo như là những người đóng kịch. Mà họ đóng kịch rất kém. Họ đóng kịch để làm như tuân theo pháp luật nhưng trong thực tế là họ đứng trên pháp luật. Lãnh đạo Việt Nam ngày nay là những người thiếu tầm nhìn xa, thiếu tính liêm chính, không chịu dấn thân, vô trách nhiệm, thiếu tính quyết đoán, không cởi mở, dốt và thiếu công minh.
Phẩm chất số 9 là văn minh. Trong thế giới hiện đại người lãnh đạo không chỉ là một công dân Việt Nam mà còn là một công dân toàn cầu. Điều này đòi hỏi người lãnh đạo phải xuất hiện một cách lịch thiệp, phải biết hành xử một cách có văn hóa và văn minh với đồng nghiệp ngoại quốc. Nếu người ta biết chơi golf, lãnh đạo cũng nên biết tham dự. Nếu người ta nói được tình hình quốc tế, lãnh đạo cũng phải biết tham gia câu chuyện và có chính kiến. Lãnh đạo nên ăn nói lưu loát. Tuy không cần nhưng sẽ rất tốt nếu lãnh đạo biết một ngoại ngữ. Chúng ta thấy hình ảnh của nữ thủ tướng Thái Lan, một người có học hành nghiêm chỉnh, ăn mặc đơn giản nhưng lịch thiệp, nói tiếng Anh lưu loát, rất gần dân nhưng khi gặp lãnh đạo nước ngoài bà cũng có khả năng trao đổi một cách tự nhiên.
Còn lãnh đạo nước ta? Chỉ nhìn qua cách ăn mặc và đi đứng chúng ta cũng dễ dàng thấy lãnh đạo nước ta chưa … văn minh và thiếu những nét văn hóa tối thiểu. Chúng ta biết rằng lãnh đạo ta thường xuất thân miền quê, ít ra nước ngoài, nên họ chưa quen với những cách ứng đối văn minh. Thử nhìn ông Nguyễn Chí Vịnh, ông Đinh La Thăng, hay rất nhiều lãnh đạo khác chúng ta thấy họ ăn mặc rất xuề xòa, quần áo chẳng chẳng đâu vào đâu, caravat thì hờ hững hoặc sai kiểu cách, tóc tai bù xù, tất cả tạo nên những con người trông rất phản cảm. Có người mà tôi nghĩ trong đời họ chưa bao giờ dùng đến cái lượt chải đầu! Họ thể hiện rất rõ cái tính kém văn minh và kém văn hóa. Chúng ta biết rằng lãnh đạo nước ta không có học nhiều nhưng lại có bằng cấp rất cao. Chúng ta biết rằng phần lớn những cái bằng đó chỉ là mua bán chứ không phải do miệt mài học tập mà có. Do đó, khi gặp người cùng trình độ, họ ứng xử một cách thấp kém hơn, lép vế hơn. Họ cũng rất kém tiếng Anh. Nhìn ông Phạm Gia Khiêm bên cạnh bà Clinton thì chúng ta xấu hổ cho ngài ngoại trưởng Việt Nam biết dường nào. Do đó, lãnh đạo Việt Nam ngày nay là những người thiếu tầm nhìn xa, thiếu tính liêm chính, không chịu dấn thân, vô trách nhiệm, thiếu tính quyết đoán, không cởi mở, thiếu trình độ, thiếu công minh và có phần kém văn hóa.
Phẩm chất số 10 là biết thương người. Làm lãnh đạo phải biết khổ nỗi khổ của người dân, phải biết chia sẻ vui buồn với người dân. Điều kỵ nhất là lãnh đạo vô cảm, quan liêu. Một lãnh đạo vô cảm là lãnh đạo thiếu nhân tính. Thương dân theo cái nhìn cá nhân của tôi là gần dân khi dân gặp hoạn nạn hoặc thiên tai. Lãnh đạo Mỹ sẵn sàng trì hoãn một chuyến công du để đi thăm dân trong lúc hoạn nạn. Chúng ta đã thấy các chính khách Thái Lan và Singapore tiếp cận dân như thế nào trong lúc họ gặp nạn. Họ không màu mè, không đi cứu trợ hay thăm dân chỉ để chụp được một tấm ảnh đẹp, họ tỏ ra là những người biết khổ cái khổ của dân.
Còn các lãnh đạo nước ta thì hoàn toàn không có dấu hiệu nào để gọi là thương dân. Tuần vừa qua, chúng ta thấy trong khi dân nước lũ tràn về làm ảnh hưởng nghiêm trọnng đến mùa màn của nông dân ở một số tỉnh ở miền Tây, nhưng có lãnh đạo nào ghé thăm đâu. Ông tổng bí thư thì bận chuẩn bị cho chuyến đi thăm thiên triều. Còn các vị khác thì im hơi lặng tiếng, chẳng ai có lời hỏi han, chẳng ai thân hành xuống xem tình hình ra sao. Nhưng họ có ra chỉ thị! Trước đó, ngay cả một trận lũ lụt lịch sử ở miền trung, có lãnh đạo ghé thăm ăn mặc chỉnh chu, có người che dù, đứng trên gò đất cao chỉ trỏ, giống y như hình thực dân ngày xưa đi thị sát tình hình. Một hình ảnh rất phản cảm mà giới blogger đã nói nhiều. Việc lãnh đạo xa dân chẳng có gì là bí mật. Ông Phan Minh Tánh là cựu ủy viên trung ương Đảng cũng nói “giữa dân và lãnh đạo có một số khoảng cách trong vấn đề này, gây ra ít nhiều bức xúc trong xã hội”. Bức xúc? Tôi nghĩ nói thế là còn lịch sự. Phải nói là khinh. Dân rất khinh lãnh đạo. Dân khinh lãnh đạo vì họ là những người thiếu tầm nhìn xa, thiếu tính liêm chính, không chịu dấn thân, vô trách nhiệm, thiếu tính quyết đoán, không cởi mở, thiếu trình độ, thiếu công minh, kém văn hóa và không hề biết thương dân.
Lãnh đạo Việt Nam ngày nay làm ngược lại hoàn toàn những gì cụ Hồ căn dặn. Chẳng những không làm theo lời dạy của cụ Hồ, nhưng họ lại rất thích lấy hình tượng và những lời giáo huấn của cụ Hồ ra để giảng dạy người khác. Đó là hình ảnh của một thế hệ lãnh đạo đạo đức giả và dối trá.
Nhưng tại sao lãnh đạo Việt Nam ngày nay bất tài và dối trá như thế? Tôi nghĩ cần phải nhìn vào sự xuất thân và quá trình trưởng thành của họ thì sẽ thấy được nguồn gốc của vấn đề và có câu trả lời. Những người lãnh đạo Việt Nam ngày nay đều là đảng viên Đảng CSVN. Họ được dạy một cách khá thuần thục về chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản thực chất là một tôn giáo, nhất là Thiên chúa giáo La Mã. Đảng Cộng sản thực chất là một giáo hội. Đặc tính giáo hội của Đảng có thể nhìn thấy từ cơ cấu tổ chức đến hoạt động. Thiên chúa giáo có đức giáo hoàng, Đảng CS có tổng bí thư. Thiên chúa giáo có hội đồng giám mục, Đảng CS có ban bí thư. Thiên chúa giáo có hội giám mục, Đảng CS có bí thư tỉnh ủy. Thiên chúa giáo có cha, Đảng CS có bí thư chi bộ. Thiên chúa giáo có tín đồ, Đảng CS có đảng viên. Thiên chúa giáo xem người ngoại đạo là “người lương”, Đảng CS xem người ngoài Đảng là … quần chúng. Quần chúng không đáng tin cậy vì quần chúng nói chung là có tội hay có tiềm năng có tội. Trong cái tôn giáo đó, tín đồ (đảng viên) phải tuyệt đối tin vào giáo huấn của Đảng, không được chất vấn. Họ được dạy về đấu tranh giai cấp. Họ được dạy về đấu tranh bằng vũ lực. Chính vì thế mà ngôn ngữ của họ là “cướp”, “dành”, “giựt”. Họ nói huỵch tẹt rằng “cướp chính quyền”. Suy bụng ta ra bụng người, họ từng cướp chính quyền bằng vũ lực, nên họ nghi ngờ cái quần chúng ngoài Đảng cũng có ý đồ tương tự. Đó là lý do họ đàn áp người dân khi người dân biểu tình phản đối Tàu Cộng (chữ của GS Vũ Cao Đàm mà tôi nghĩ là chính xác) và áp đặt một chế độ công an trị. Đó là mô hình tổ chức và hoạt động của Mao Trạch Đông và Stalin.
Được tôi luyện và trưởng thành trong cái môi trường tôn giáo Mao – Stalin như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy giới lãnh đạo Việt Nam:
Thiếu tầm nhìn – Vì họ quan tâm đến sự sống còn của Đảng chứ không phải của dân tộc hay đất nước.
Thiếu tính liêm chính – Vì họ sống trong môi trường dối trá, dựa vào quan hệ cá nhân. Tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô Gorbachev nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.
Không chịu dấn thân cho đất nước – Họ chỉ biết dấn thân cho Đảng, cho cá nhân vì lý tưởng của họ là sự tồn vong của Đảng.
Vô trách nhiệm – Tôn giáo còn có trách nhiệm, nhưng lãnh đạo ngày nay không có trách nhiệm vì hệ thống tổ chức chồng chéo giữa Đảng và nhà nước. Đảng ra lệnh nhà nước làm nhưng Đảng không chịu trách nhiệm!
Thiếu tính quyết đoán – Lớn lên trong môi trường của Đảng và tổ chức họ không hề có ý tưởng độc lập và quyết đoán.
Không cởi mở – Vì giáo điều của Đảng là phải nghi ngờ người ngoài Đảng nên họ lúc nào cũng có thái độ nghi ngờ quần chúng, nghi ngờ trí thức.
Thiếu trình độ – Họ không có tự do học hỏi những gì ngoài giáo điều của Đảng nên khó có thể có trình độ cao và rộng.
Thiếu công minh – Sống và làm việc trong môi trường Đảng như là một hội kín thì không thể nào có sự minh bạch được.
Kém văn hóa – Văn hóa của họ là văn hóa Đảng, văn hóa làng xã, mà trong đó mọi người xuề xòa với nhau, bênh vực nhau. Nên khi ra ngoài họ không thoát được cách hành xử của văn hóa ao làng.
Không hề biết thương dân – Đảng xem dân là những người có tiềm năng phản trắc, nên họ lúc nào cũng nhìn dân bằng cặp mắt nghi ngờ. Không thể nào đòi hỏi họ thương dân. Tổng thống Nga Vladimir Putin nói thẳng hơn “Những ai còn tin vào những gì cộng sản nói là không có cái đầu. Những ai làm theo lời của cộng sản là không có trái tim”.
Ở nước ta có những khẩu hiệu vô lý nhưng chẳng ai đặt câu hỏi. Một trong những khẩu hiệu thuộc loại vô lý đó là “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý”. Người dân diễu cợt hỏi trong một đất nước chẳng có ai làm công cả thì thử hỏi làm sao khá nổi! Nhưng suy nghĩ kỹ câu khẩu hiệu đó chúng ta thấy một sự giả dối. Đảng lãnh đạo, nhưng Đảng không hề chịu trách nhiệm trước dân. Bao nhiêu oan khiên từ thời Cải cách ruộng đất, Cải tạo công viên chức VNCH, đánh tư sản mại bản … Đảng vẫn không đứng ra chịu trách nhiệm. Nhà nước thực chất là từ Đảng, xuất thân từ Đảng. Nói “nhà nước quản lý” chính là Đảng quản lý. Nhân dân làm chủ cái gì trong khi Đảng quản lý tất cả? Trong thực tế chế độ nước ta là chế thực dân kiểu Đảng trị. Chế độ này rất khác với chế độ thực dân kiểu cũ hay kiểu mới mà người cộng sản thích phê phán và kêu gọi đánh phá. Trong chế thực dân kiểu Đảng trị, người dân không có quyền gì cả. Tất cả, từ lập pháp đến hành pháp đều do Đảng độc quyền. Người dân chỉ là người nô lệ kiểu mới mà thôi. Người dân lao động ngày đêm không đủ ăn nhưng chỉ để làm giàu thêm cho mấy ông quan tham có thẻ Đảng.
Trong chế thực dân kiểu Đảng trị và môi trường bán tôn giáo bán chính trị, không có chỗ đứng cho người có thực tài. Người có tài là người ưa thích tự do, thích chất vấn, thích tìm cái mới. Họ sẽ không thể nào và không bao giờ chịu sự trói buộc bởi một ý thức hệ nào vĩnh viễn, càng không chịu sự chi phối của các giáo lý đoội lốt nội quy của Đảng. Họ càng không thể chấp nhận chủ nghĩa cộng sản theo kiểu Mao – Stalin, bởi trong thực tế chủ nghĩa đó chống lại tinh thần khai sáng tri thức. Nhưng ở nước ta, muốn lãnh đạo thì phải có thẻ đảng. Thế là những người có thực tài và yêu chuộng tự do không có vai trò trong việc lãnh đạo. Ngược lại, những người tham gia Đảng để gọi là lãnh đạo là những người bất tài, cơ hội, những người chỉ muốn vâng lệnh chứ không có khả năng suy nghĩ độc lập. Thế là cái chính sách có thể nói là quái đản đó là một cách loại bỏ những nhân tài ưu tú của đất nước. Đó chính là lý do tại sao nước ta dù lúc nào cũng có người tài, nhưng trong cái cái cơ chế hội kín của Mao – Stalin pha màu tư bản đỏ như hiện nay thì người tài hoàn toàn bất lực.
Vài người hy vọng một cách huyền bí rằng trong thời đất nước suy đồi sẽ có một “minh quân”, một “nhân tài xuất chúng” sẽ xuất hiện. Trong bối cảnh và cơ chế Mao – Stalin hiện nay đó chỉ là một giấc mơ lãng mạn. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy giới trí thức đang quay lưng với những lời kêu gọi của Đảng và nhà nước. Chúng ta cũng không ngạc nhiên tại sao đất nước đã thống nhất 36 năm nhưng lòng người thì chưa thống nhất.
Do đó, tuy câu trả lời tại sao Việt Nam nghèo hèn là do thiếu lãnh đạo có tài, nhưng căn cơ sâu xa của câu trả lời chính là … Đảng. Đảng CSVN và chủ nghĩa cộng sản chính là nguyên nhân dẫn đến lãnh đạo bất tài. Lãnh đạo bất tài làm cho đất nước đi chệch hướng, tổn thất về con người trong thời chiến, kinh tế lụn bại, đạo đức xã hội suy đồi. Vấn đề là VN không có một đảng chính trị khác ngoài Đảng CSVN. Đó cũng là một bất hạnh cho dân tộc. Bởi vậy tôi nghĩ Đảng CSVN phải tự mình cải cách, phải tuyệt đối từ bỏ mô hình Mao – Stalin. Chỉ khi nào thoát khỏi mô hình Mao – Stalin và thiết lập dân chủ thì may ra nước ta mới có cơ hội thoát nghèo. Và thoát hèn.