V́ thế mà :
(a) Thái Lan sẽ duy tŕ khoảng cách 1.000 mm cho những tuyến sẵn có và dự định xây mới những tuyến về hướng các nước láng giềng Myanmar, Lào (Vientiane và Pakse) và Kampuchia theo khoảng cách đó,
(b) Kampuchia sẽ duy tŕ khoảng cách 1.000 mm,
(c) đường sắt Lào tương lai Vientiane, Luang Prabang – Tường Vân (một huyện giữa Đại Lư và Côn Minh, tỉnh Vân Nam) sẽ có khoảng cách 1.435 mm để có thể liên thông với mạng Trung Quốc,
(d) ở Việt Nam chỉ có tuyến Quan Triếu – Kép – Hạ Long là có khoảng cách 1.435 mm và tuyến Đồng Đăng – Kép – Hà Nội tạm thời là đường kép (dual gauge) với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm.
Mạng đường sắt Việt Nam bị kẹt giữa hai khối quốc gia có hai khoảng cách đường rầy khác nhau, chúng tôi xin đề nghị chính sách sau đây :
(a) canh tân và xây mới tất cả những tuyến chở hành khách theo khoảng cách 1.000 mm (nếu cần th́ nắn lại tuyến đường sẵn có để gia tăng an toàn và vận tốc),
(b) xây mới tất cả những tuyến chở hàng theo khoảng cách 1.435 mm11,
(c) khi có nhu cầu của phát triển kinh tế địa phương th́ canh tân và xây mới tất cả các tuyến thành đường đôi (double track), mỗi đường dành cho một hướng12,
(d) xây mới tuyến Phnom Penh – TP Hồ Chí Minh – Vũng Tầu (cảng Thị Vải) đường kép với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm13,
(e) canh tân tuyến Hà Nội – Lào Cai thành đường kép với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm14,
(f) xây mới những tuyến liên thông với Lào, Vũng Áng – Vinh – Vientiane và Đà Nắng – Pakse, theo khoảng cách 1.435 mm.
II–2. Điện hóa
Một tầu chạy bằng động cơ Diesel có thể chạy trên một tuyến đă được điện hóa. Nhưng một tầu chạy bằng động cơ điện chỉ có thể chạy trên những tuyến đă được điện hóa thích hợp với động cơ và lối câu điện của tầu.
Những động cơ điện thích hợp với việc kéo một đoàn tầu là động cơ một chiều. Nhưng, với những tiến bộ của điện tử cường độ cao, xu hướng là dùng điện xoay chiều một pha có tần số công nghiệp 50 hay 60 Hz và người ta đă xác định điện áp tối ưu kinh tế là 25.000 V. Loại điện này đă trở thành một tiêu chuẩn quốc tế bất thành văn của ngành đường sắt.
So với một đoàn tầu Diesel th́ một đoàn tầu điện sử dụng năng lượng hữu hiệu hơn, chi phí vận hành ít hơn, chi phí bảo hành cũng ít hơn. Trên phương diện kỹ thuật th́ những động cơ điện có công suất lớn và có thể biến đổi mau nên thích hợp với những đoàn tầu nặng chạy trên những tuyến có độ dốc cao. Điện có thể được sản xuất từ nhiều nguồn năng lượng cơ bản khác nhau, không ô nhiễm ở nơi tiêu thụ, thích hợp với chuyên chở hành khách ở đô thị và những đường hầm dài. Nhưng đầu tư cho những thiết bị sản xuất điện, biến thế và kéo dây cáp cung cấp điện cho đoàn tầu cần đến nhiều vốn. Điện hóa một tuyến đường chỉ có lợi khi chu kỳ tầu đi lại trên tuyến đó đủ cao để chứng minh vốn đầu tư15.
Trong t́nh trạng thiếu điện hiện nay, chúng tôi xin đề nghị
(a) chờ ngày có đủ tài chính để điện hóa những tuyến đường có chu kỳ đi lại cao và tạm thời dùng động cơ Diesel để kéo tầu chở hàng và tầu chở khách liên tỉnh,
(b) nếu điện hóa một tuyến đường sắt th́ dùng điện 25.000 V, 50 Hz, một pha.
Lẽ cốt nhiên những tầu chở khách ở đô thị sẽ chạy bằng điện.
II–3. Những vấn đề kỹ thuật khác
UNESCAP nhận xét các đường hầm hiện nay của ta đủ rộng để thích ứng với tiêu chuẩn UIC–B và chúng ta không có vấn đề liên thông v́ tiết diện xe với các nước láng giềng16. Tiêu chuẩn UIC–B là tiêu chuẩn tiết diện xe của những đoàn tầu siêu tốc Âu Châu và những đoàn tầu chở công–tê–ne tiêu chuẩn ISO17.
Sức chịu tải ở trục xe của một đường sắt tùy ở vận tốc đ̣an tầu, diện tích những tà–vẹt, bộ gắn tà–vẹt với thanh rầy, kết cấu của ba–lát,... sức chịu tải của những cây cầu và khối lượng mỗi mét của thanh rầy. Để tiện việc quản lư cung cấp và lưu trữ những thanh rầy, ở Âu Châu người ta mua và đặt những thanh rầy 60 kg/m. Lúc thanh rầy c̣n mới, người ta đặt ở các tuyến đường của mạng đường sắt cần đến sức chịu tải ở trục xe cao nhất. Sau đó, nhân chương tŕnh bảo quản thường xuyên, người ta thay thế những thanh rầy đă bị yếu ở những tuyến cần sức chịu tải cao nhất để lắp chúng ở những tuyến cần sức chịu tải yếu hơn. Những thanh rầy này đủ để chịu tải những đoàn tầu chở những công–tê–ne ISO 20 feet với vận tốc 120 km/giờ.
Chiều dài tối đa của một đoàn tầu tùy ở chiều dài của bến tầu dùng để chất hàng, sức kéo của đầu tầu, sức mạnh của phanh và sức bền của móc kéo toa tầu.
Ở những vận tốc trên 100–120 km/giờ người ta chuyển tín hiệu vào buồng lái để bảo đảm người lái tầu có th́ giờ nhận định và phản ứng kịp thời. Nhưng mỗi nước, mỗi mạng đường sắt có một mă truyền tin khác nhau. Một tầu muốn liên thông phải có một hệ mềm dịch những tín hiệu sang tiêu chuẩn hệ thông truyền tin của ḿnh. Việc này không khó mấy nhưng sinh ra chi phí bội đáng lư có thể miễn được.
Chúng tôi xin đề nghị :
(a) những tuyến đường tương lai tiếp tục thích ứng với tiêu chuẩn UIC–B cho những đoàn tầu chạy bằng động cơ Diesel,
(b) khi nào có điều kiện điện hóa th́ chúng ta sẽ liệu đổi tuyến, nâng cao các cầu và/hay đào cao thêm những đường hầm18,
(c) dùng những thanh rầy loại 60 kg/m khi canh tân và xây mới những tuyến đường sắt ở nước ta,
(d) thiết kế hệ thống đường sắt, ga tuyển lựa (classification yard hay là marshalling yard) cũng như các khí cụ lưu động để có thể sắp xếp những đoàn tầu dài chừng 700–750 mét,
(e) trang bị đoàn khí cụ lưu động bằng những toa tầu có thể chịu tải 60 tấn nghĩa là có thể chở dễ dàng hai công–tê–ne TEU19,
(f) lắp đặt trên tất cả các tuyến đường và tất cả các đầu tầu một hệ thống chuyển tín hiệu vào buồng lái với một mă truyền tin duy nhất.
***
So với một mạng đường ô–tô cùng công suất, tính theo tấn–kilômét, th́ mạng đường sắt ở những vận tốc không quá 100–120 km/giờ cần đến vốn đầu tư từ ba đến năm lần ít hơn và chi phí vận hành sẽ kém hơn ít nhất hai lần20. So với một mạng đường ô–tô cùng cự ly, tính theo kilômét, th́ mạng đường sắt có công suất cao hơn đến mức không thể so sánh được. So với một tuyến đường sắt siêu tốc (vận tốc từ 250 km/giờ trở lên) th́ một tuyến đường sắt cao tốc (vận tốc 100–120 km/giờ) cùng cự ly rẻ hơn nhiều về vốn ban đầu cũng như về chi phí vận hành và một tuyến đường sắt giao thông đô thị cùng cự ly không những rẻ hơn mà lại có công suất, tính theo hành khách–kilômét, cao hơn rất nhiều.
Về tiềm năng cách mạng công nghệ th́ công nghệ đường sắt siêu tốc đă đạt hạn chế của nó. Những thiết bị cung cấp điện cho tầu, truyền tin và an toàn đă đạt mức gần hoàn hảo rồi21. Nếu muốn xây một tuyến đường sắt siêu tốc th́ chúng ta chỉ có thể mua của nước ngoài theo dạng EPC (Engineering Procurement Construction, gọi nôm na là ch́a khóa trao tay) hay giỏi lắm là mua thiết kế của họ và tự xây. Trên phương diện tiến bộ công nghệ chúng ta sẽ không hưởng được ǵ. Ngược lại, công nghệ vận tải bằng đường sắt và công nghệ đường sắt đô thị vẫn c̣n nhiều tiềm năng tiến bộ. Chúng ta vẫn c̣n kịp tham gia đóng góp vào những tiến bộ đó để trở nên một quốc gia công nghệ tiên tiến.
V́ những lợi ích kinh tế và những tiềm năng tiến bộ công nghệ đó cho đất nước mà chúng tôi ngỡ ngàng không thấy thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đả động ǵ đến ngành đường sắt trong bài "3 khâu đột phá chiến lược của Chính phủ" của ông22.
Đặng Đ́nh Cung
1. "Quốc hội không thông qua dự án đường sắt cao tốc Hà Nội – TP Hồ Chí Minh"
http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=0&article=177254
2. "Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng: Chưa đủ điều kiện làm đường sắt cao tốc"
http://www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2011/8/264477/
3. Ở nước ta, v́ nhu cầu GT–VT chưa được thỏa măn rất lớn, một đường ô tô hay một cây cầu vừa mới khánh thành xong là đă quá tải. Một nước Phi Châu nọ không có một đường trải đá nào nhưng có một xa lộ, rộng và đẹp như đại lộ Nguyễn Văn Trỗi ở TP Hồ Chí Minh, dài một chục cây số bắt đầu từ phi trường quốc tế và kết thúc ở ven ruộng ngoài thủ đô. Hai bên đường chỉ có dinh tổng thống và những biệt thự xây từ hồi Pháp thuộc và đă xuống cấp. Ở Pháp, một ông vua ngoại quốc nọ tài trợ (với tiền túi cá nhân hay tiền ngân sách Nhà Nước, chúng tôi không biết và không muốn biết) xây một đường ngoặc từ một xa lộ công cộng đến lâu đài của ông.
4. Phải có thời gian lâu như vậy là do những định luật kinh tế vi mô (microeconomy) mà bạn đọc có thể tham khảo trong các sách giáo khoa (tỷ dụ Robert Pindyck, Daniel Rubinfeld: "Microeconomics", Prentice Hall, 2008).
5. Theo ước tính của chúng tôi th́ tuyến đường sắt Singapore – Malaysia – Thái Lan – Lào (hay Myanmar) đến miền Đông Trung Quốc sẽ tốn nhiều vốn để nâng cấp hơn là vốn để liên thông mạng đường sắt Việt Nam với Thái Lan qua Kampuchia và chi phí vận tải qua tuyến đó sẽ cao hơn là qua tuyến Singapore – Malaysia – Thái Lan – Việt Nam. Đây chỉ là quan điểm cá nhân cần được xác định với những thông số cụ thể.
6. Tiểu ban chuyên môn của ISO chuyên về những công–tê–ne là TC–104 và những tiêu chuẩn chính mang mă số ISO 668 (1995) et ISO 1496–1 (1990).
7. "Việtnam : Căn cứ hậu cần của Đông Nam Á ? Phần 2 Đề nghị một mô h́nh hậu cần Việt Nam"
http://www.diendan.org/viet nam/haucan-vn-2/
8. Khoảng cách đường rầy hẹp cho phép tuyến đường có thể quay ṿng với một bán kính nhỏ. Với khoảng cách 1.000 mm th́ bán kính đường ṿng có thể là 45 mét nếu tầu chạy rất chậm. Với khoảng cách quôc tế 1.435 mm th́ bán kính phải lên tới ít nhất 60 m, thường th́ cũng phải 100 m nếu tầu chạy rất chậm. Các tấu siêu tốc th́ cần đến bán kính 7.000 m nếu muốn chạy 350 km/giờ. Ở những vùng núi non hiểm trở, so với những tuyến có bán kính đường ṿng lớn th́ những tuyến có bán kính nhỏ sẽ theo uẩn khúc sườn núi dễ hơn làm cho phải xây ít cầu và đào ít hầm hơn. Ngoài ra, với khoảng cách hẹp th́ nền đường cũng hẹp hơn.
9. Chuyển xe hay chuyển tầu là một việc tốn của, tốn công và tốn th́ giờ. Nếu các nước đều có cùng một khoảng cách đường rầy th́ tầu sẽ có thể chạy trên tất cả mạng đường sắt của tất cả các nước đó mà không cần phải chuyển hàng từ xe này sang xe khác.
10. Áp dụng tiêu chuẩn quốc tế mới nhất th́ sẽ hưởng thụ công nghệ hiện đại nhất, cho phép tham khảo nhiều nhà thầu và bên đấu thầu đă có nhiều kinh nghiệm nên có thể đề nghị những sản phẩm hay dịch vụ có chất lượng cao với giá tối thiểu.
11. Ở bên Nhật có 24.000 km đường sắt. Ngoại trừ 4.000 km đường siêu tốc Shinkansen (Tân Cán Tuyến) với khoảng cách đường rầy theo tiêu chuẩn quốc tế 1.435 mm, những tuyến đường khác đều có khoảng cách 1.067 mm, nghĩa là chỉ hơn có 67 mm khoảng cách hiện nay ở các nước MRS. Thế mà ngành đường sắt Nhật Bản vẫn nổi tiếng là có công suất, vận tốc trung b́nh và độ an toàn cao.
12. Nói chung th́ việc chuyên môn hóa những đường, về khoảng cách đường rầy cũng như về hướng đi, sẽ bảo đảm an toàn và tính đều đặn của lịch tŕnh các chuyến tầu.
13. Để tầu Kampuchia và tầu Việt Nam đều có thể chạy trên tuyến đó.
14. Tuyến Hà Khẩu (đối diện với Lào Cai) – Côn minh sẽ là tuyến duy nhất của Trung Quốc c̣n giữ khoảng cách 1.000 mm. Nhưng cũng có tin Trung Quốc đang nghiên cứu nâng cấp tuyến Hà Khẩu – Côn minh lên khoảng cách 1.435 mm.
15. Người ta ước chừng phải ít nhất mười chuyến mỗi ngày th́ mới bơ điện hóa. Tuy nhiên, con số đó cần được xác định rơ hơn cho mỗi dự án cụ thể.
16. "Trans Asian Railway Route Requirements: Development of the Trans Asian Railway in the Indo China and Asean Subregion – Volume 3 – The Trans Asian Railway in Cambodia, Southern China, the Lao People's Democratic Republic, Myanmar, Thailand (North and East) and Viet nam"
http://www.unescap.org/ttdw/Publicat...3/Vol3full.pdf
17. Tiết diện xe của tiêu chuẩn UIC–B là rộng 3,15 m và cao 4,32 m.
18. Một tuyến điện hóa có dây cáp điện treo ở trên đường rầy. Chiều cao của tiết diện công tŕnh phải cộng thêm cỡ của đường dây cáp đó.
19. Theo tiêu chuẩn ISO th́ trọng lượng tối đa một công–tê–ne 20 feet là 24 tấn và trọng lượng tối đa một công–tê–ne 40 feet là 30 tấn.
20. Những số liệu này cần được xác định cho mỗi dự án cụ thể.
21. Vận tốc một tầu hỏa có thể vô tận. Nhưng, lực ma sát tăng theo lũy thừa ba của vận tốc, vận tốc thương mại sẽ không bao giờ vượt 500 km/giờ. Nói rằng sẽ xây một tuyến đường với vận tốc 650 km/giờ là huênh hoang.
22. "3 khâu đột phá chiến lược của Chính phủ"
http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20110731/Thu tuong neu nhiem vu cua Chinh phu nhiem ky moi.aspx
DD Forum