Các doanh nghiệp Mỹ không ngạc nhiên và lo lắng về phí bôi  trơn ở Việt Nam nhưng nếu không minh bạch hóa và không cải thiện, Việt  Nam sẽ làm đánh mất cơ hội thu hút những nhà đầu tư hàng đầu của Mỹ, ông  Hank Tomlinson, chủ tịch Pḥng Thương mại Mỹ chia sẻ.                                                
LTS: Bàn tṛn trực tuyến  với chủ đề "Để Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn FDI thế hệ mới" đă  diễn ra hôm 25/4 với sự tham gia của 4 vị khách mời bao gồm: Tiến sĩ  Nguyễn Đ́nh Cung, phó Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lư kinh tế  trung ương, ông Tomaso Andreatta, Phó Chủ tịch Pḥng Thương mại châu Âu  (EuroCham), ông Hank Tomlinson, Chủ tịch Pḥng Thương mại Mỹ (AmCham)  và ông Đậu Anh Tuấn, Phó trưởng Ban Pháp chế, Pḥng Thương mại và Công  nghiệp Việt Nam (VCCI).
 
  Phí "bôi trơn" đánh mất cơ hội mời gọi FDI lớn
  Nhà  báo Phạm Huyền: Trong nghiên cứu môi trường đầu tư cấp tỉnh mới đây có  cung cấp một số con số khá nhạy cảm và cũng rất đáng lo ngại đó là có   từ 20-40% các doanh nghiệp FDI đă phải bỏ phí bôi trơn để làm các thủ  tục kinh doanh  như thông quan hay đấu thầu. Thưa ông Đậu Anh Tuấn, là một thành viên  trong nhóm nghiên cứu này, cá nhân ông có thấy bất ngờ về tỷ lệ này  không và khi công bố con số đó ông có lo ngại rằng h́nh ảnh về môi  trường đầu tư ở Việt Nam sẽ trở nên xấu đi trong con mắt của các nhà đầu tư quốc tế?
  Ông Đậu Anh Tuấn:  Thực ra điều chúng tôi băn khoăn và e ngại là phải đảm bảo cuộc điều  tra phản ánh được trung thực các ư kiến cảm nhận của các doanh nghiệp về  môi trường đầu tư vào Việt Nam. Những năm vừa qua nhóm nghiên cứu luôn  t́m hiểu về các chỉ số của sự minh bạch để đưa ra kết quả chính xác  nhất.
  Nhiều nghiên cứu về FDI tại Việt Nam trước đây đă chỉ ra  rằng chi phí không chính thức là một yếu tố đáng lưu tâm ở Việt Nam. Tôi  không nghĩ tô hồng thực tế là một giải pháp hay để thu hút đầu tư. Nhận  ra được những vấn đề c̣n tồn tại th́ Chính phủ và chính quyền các cấp  có những giải pháp khắc phục mới là cách giải quyết tốt nhất để cải  thiện h́nh ảnh về môi trường đầu tư tại Việt Nam.
  Nghiên cứu của  VCCI và VNCI giúp Chính phủ nhận rơ hơn về những vấn đề cần khắc phục,  hiểu được sự khác nhau về chi phí không chính thức ở các lĩnh vực như  thủ tục đăng kí kinh doanh, hợp đồng... Kể cả sự khác nhau về khoản chi  phí này ở các loại h́nh doanh nghiệp khác nhau, xuất xứ khác nhau, quy  mô khác nhau, rồi t́m hiểu xem mô h́nh "một cửa"... Từ đó, Chính phủ có  những cách để giảm những chi phí không chính thức này cho các doanh  nghiệp.
  Trong bối cảnh chung như thế, chúng tôi t́m ra những  tỉnh, thành phố đă làm tốt trong việc giảm chi phí không chính thức và  tăng tính minh bạch cho môi trường kinh doanh và sẽ chia sẻ với các tỉnh  thành phố khác để học hỏi, rút kinh nghiệm. Điều quan trọng là Chính  phủ trung ương có thể nhận ra và có những chính sách phù hợp cho thực  trạng này.
  
Không cải thiện minh bạch, Việt Nam sẽ mất FDI lớn
  Nhà báo Phạm Huyền:  Mỹ là một quốc gia có hệ thống pháp luật rất nghiêm minh. Tôi băn khoăn  không rơ, khi nghe những con số "nhạy cảm" như vậy th́ ông Hank  Tomlinson, đại diện cho các doanh nghiệp Mỹ có những suy nghĩ ǵ? Liệu  điều này có làm chùn bước các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ  vào Việt Nam hay không, thưa ông?
                   |      
             | Ông Hank Tomlinson |      
    
Ông  Hank Tomlinson: Tôi cho rằng, kết quả đó không gây nhiều ngạc nhiên cho  cộng đồng doanh nghiệp chúng tôi về vấn đề môi trường minh bạch so với  các nước khác, cũng không phải là vấn đề các doanh nghiệp quá lo lắng.  Tuy nhiên, những chi phí không chính thức đối với doanh nghiệp Mỹ là vấn  đề rất lớn.  Theo Đạo luật về đầu tư ra nước ngoài của Mỹ, các doanh  nghiệp Mỹ không được phép trả những khỏan chi phí không chính thức. Nếu  môi trường kinh doanh của Việt Nam không minh bạch, phải trả những  khoản chi phí không chính thức th́ Việt Nam sẽ mất đi 
cơ hội thu hút được những doanh nghiệp lớn của Mỹ.
  Chúng  tôi rất hoan nghênh những động thái gần đây trong việc cải thiện môi  trường kinh doanh, nhất là sau khi Việt Nam tham gia WTO và kư kết một  số cam kết trong khu vực. Tuy nhiên về vấn đề minh bạch môi trường kinh  doanh, chúng tôi thấy một số ngành sản xuất rất quan trọng đang nằm ở  một số vài doanh nghiệp nhà nước. Tôi cho rằng, các doanh nghiệp này  không phải tuân thủ một số nguyên tắc minh bạch, công bằng trong kinh  doanh như các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài nên không  phải cạnh tranh b́nh đẳng.
  Một trong những giải pháp giúp Việt  Nam phát triển hơn là Việt Nam nên nhanh chóng cổ phần hóa các doanh  nghiệp nhà nước để tạo ra một môi trường cạnh tranh b́nh đẳng hơn. Việt  Nam biết cách làm thế nào trong tương lai cải thiện môi trường kinh  doanh. Singapore là một ví dụ rất tốt trong việc phát triển và cải thiện  tính minh bạch cho môi trường kinh doanh, đó là một ví dụ mà Việt Nam  có thể tham khảo.
  
Mong chờmột nguồn cung nội địa tốt hơn
  Nhà  báo Phạm Huyền: Thưa bạn đọc, một vấn đề được mong chờ nhất khi thu hút  FDI vào Việt Nam là hiệu ứng lan tỏa cho nền kinh tế. Các doanh nghiệp  trong nước sẽ được hưởng lợi ǵ khi các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt  Nam? Đó có thể là chuyển giao công nghệ,  kinh nghiệm quản lư hay các  mối quan hệ làm ăn, làm vệ tinh, phụ trợ.
  Công ty Canon  đă  t́m hiểu hơn 20 doanh nghiệp Việt Nam nhưng không t́m được đối tác  nào có thể cung ứng ốc vít cho họ. Công ty may Esquel Hồng Kông tới đầu  tư tại Việt Nam cũng phải nhập khẩu gần như 100% nguyên liệu từ  Trung  Quốc bởi các nguyên phụ liệu tại Việt Nam không thể đáp ứng được, kể cả  là chỉ may. Xin hỏi ông Tomaso và ông Hank, các doanh nghiệp thành viên  EuroCham và AmCham có gặp phải những khó khăn tương tự như vậy không?
  Ông Tomaso Andreatta:  Tất nhiên ở Việt Nam chúng tôi cũng thường gặp khó khăn trong việc t́m  những đối tác cung cấp các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Những doanh  nghiệp nước ngoài sản xuất sản phẩm công nghiệp tới Việt Nam thường bắt  đầu xây dựng những dây chuyền lắp ráp, sau đó họ thường thuyết phục các  nhà cung cấp linh kiện cho họ chuyển tới gần các xí nghiệp lắp ráp của  họ, đồng thời, họ cũng t́m kiếm các nhà cung cấp linh kiện, các bộ phận  cho họ từ trong nước.
  Như trường hợp của Piagio lúc đầu cũng gặp  khó khăn tại Việt Nam nhưng sau 2 năm, cùng sự hỗ trợ từ các nhà cung  cấp linh kiện Trung Quốc th́ họ đă có mức nội địa hóa trên 80%. Ví dụ về  Piagio có thể cho thấy mức độ lan tỏa của các doanh nghiệp FDI đối với  nền công nghiệp trong nước như thế nào.
  
                 |      
             Từ phải sang: Ông Đậu Anh Tuấn, ông Tomaso Andreatta và nhà báo Phạm Huyền 
 |      
    
  Thực  tế cho thấy Việt Nam vẫn đang thiếu những nhà cung cấp sản phẩm trung  gian, ví dụ như chưa có những nhà sản xuất nhựa chất lượng cao hay thép  chất lượng cao, vải vóc cũng chỉ có một số nhà cung cấp vải có chất  lượng vừa phải chứ không phải là chất lượng cao.
  Việt Nam cũng  đă có chính sách tiến bộ thúc đẩy sản xuất nội địa, như xây dựng những  cụm công nghiệp. Đă có một số cụm công nghiệp có nhiều nhà sản xuất  trong một chuỗi sản xuất tập hơn, nhưng đúng là Việt Nam chưa có lợi thế  về vấn đề này. Những nhà sản xuất nội địa chỉ phát triển sản xuất khi  có yêu cầu từ nhà cung cấp lớn.
  
Ông Hank Tomlinson: Tôi  xin phát triển thêm ư kiến của của ông Tomaso, người Việt Nam có tinh  thần kinh doanh rất mạnh. Trong một thời gian nữa, Việt Nam có thể phát  triển mạnh lên, đủ cung ứng cho nước ngoài thay v́ phải nhập khẩu như  bây giờ.
  Để thu hút được những nhà đầu tư toàn cầu có công nghệ  cao th́ chúng ta phải chú trọng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ  có tính cạnh tranh, có chất lượng cao, giá cả hợp lư. Những doanh  nghiệp lớn trên toàn cầu khi đầu tư th́ họ thường so sánh, lựa chọn  những nơi nào có nguồn cung ổn định với giá cả và chất lượng tốt. Và nếu  có những nguồn cung nội địa tốt th́ họ sẽ không nhập khẩu từ các nước  khác.
  Tỷ lệ nội địa của Việt Nam chưa hợp lư v́ năng lực sản  xuất nội địa của Việt Nam c̣n yếu. Trong khi chúng ta lại nhấn mạnh tới  yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng các nguồn cung cấp nội địa.
  Có  một số yếu tố nữa cũng ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của nền kinh tế  Việt Nam. Đó là chính sách kiểm soát giá cả một số mặt hàng. Đối với các  nhà đầu tư nước ngoài, khi không được quyết định giá cả, không thu hồi  được các khoản đầu tư của họ từ dự án ở Việt Nam th́ đương nhiên họ sẽ  không cảm thấy tự tin và khó đưa ra quyết định đầu tư vào đây.
  
                 |      
             | Ông Nguyễn Đ́nh Cung và ông Hank Tomlinson |      
    
  Quay  lại ư tưởng của Tomaso, cuộc thi Olympic kinh doanh, những doanh nghiệp  nước ng̣ai sẽ đến Việt Nam khi doanh nghiệp cung cấp nội địa mạnh lên,  họ phải cạnh tranh th́ mới mạnh lên được.
  
Ưu đăi thuế chỉ giữ chân FDI trong thời gian ngắn
  Nhà  báo Phạm Huyền: Thưa ông Đậu Anh Tuấn, vậy trong các kiến nghị của FDI  về môi trường đầu tư của Việt Nam, ông có phát hiện ǵ nổi bật từ  tiếng  nói của cộng đồng FDI?
  Ông Đậu Anh Tuấn: Qua cuộc  điều tra năm 2010 với 7.300 doanh nghiệp trong nước và hơn 1000 doanh  nghiệp FDI, chúng tôi thấy một trong những khuyến nghị được nhấn mạnh là  tăng tính minh bạch của môi trường kinh doanh. Đây là một hành tŕnh  rất dài và khó khăn.
  Trong 2 năm liên tiếp 2009 và 2010, chúng  tôi thấy có sự sụt giảm đáng lo ngại về tính minh bạch. Tỷ lệ doanh  nghiệp cho biết họ tiếp cận thông tin khó khăn hơn và cần nhiều quan hệ  hơn để tiếp cận thông tin trong hoạt động kinh doanh của ḿnh.
  Trong  khi đó, qua phân tích của chúng tôi th́ tính minh bạch có tác động lớn  nhất đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, kéo theo tác động  lớn đến số lượng các doanh nghiệp được thành lập, số vốn mà doanh nghiệp  bỏ ra và lợi nhuận mà họ thu được.
  Đối với khu vực FDI, như các  khách mời đang nói, một điều hấp dẫn là chi phí thấp của môi trường đầu  tư ở Việt Nam. Chúng tôi thấy rơ ràng, phát triển kinh tế dựa vào loại  doanh nghiệp FDI này không phải là một chiến lược bền vững, v́ chi phí  lao động, nguyên liệu đều có xu hướng gia tăng. Theo quy luật, các nhà  đầu tư chủ yếu dựa vào chi phí thấp sẽ t́m kiếm một địa điểm đầu tư  khác. Những ưu đăi tài chính, thuế, đất đai mà FDI đang nhận chỉ giúp  giữ chân FDI một thời gian ngắn thôi, chúng tôi cho rằng, có thể dùng  nguồn lực này cải thiện những vấn đề khác quan trọng hơn như nguồn nhân  lực, hạ tầng mà mọi thành phần cùng hưởng lợi.
  Điểm thứ ba mà  tôi thấy đáng lo ngại là chất lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu  của nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư ở ngành giá trị thấp. Trong khi đó, các  doanh nghiệp nước ngoài c̣n đánh giá chất lượng lao động thấp hơn nữa.  Số lượng doanh nghiệp nước ngoài hài ḷng về chất lượng lao động chỉ  bằng một nửa so với doanh nghiệp trong nước. Chỉ khoảng hơn 21% doanh  nghiệp nước ngoài hài ḷng với chất lượng đào tạo nghề của Việt Nam.
  Như  vậy nếu nhà đầu tư FDI cho rằng chất lượng lao động chưa đáp ứng được  đ̣i hỏi của họ th́ mục tiêu của Việt Nam mong muốn thế hệ nhà đầu tư  chất lượng cao th́ sẽ tuyển dụng lao động như thế nào? Nếu t́nh trạng  ách tắc hàng hóa khi thông quan, chi trả chi phí chính thức phổ biến cản  trợ xuất khẩu hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho FDI có giá trị gia tăng  thấp. Điều ǵ sẽ xảy ra với FDI có giá trị gia tăng cao hơn?
  Vấn  đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và việc thực thi hợp đồng tương đối yếu  kém đang cản trở việc t́m kiếm các đối tác là các nhà cung cấp trong  nước. Đây cũng là khó khăn rất lớn với các nhà đầu tư về công nghệ và  các lĩnh vực giá trị cao trong thời gian tới.
  Tôi cho rằng, đây  là những vấn đề lớn mà Việt Nam cần phải giải quyết trong thời gian tới  để có thể thu hút một thế hệ FDI chất lượng, có giá trị gia tăng cao và  tạo ra những sức lan toả lớn để thay đổi nền kinh tế.
  
Mời độc giả đón đọc phần cuối của buổi trực tuyến vào ngày mai.
  Diễn đàn Kinh tế Việt Nam