
(Minh họa)
"Ra đi" mang nhiều ý nghĩa trong tiếng Việt. Có sự ra đi vĩnh viễn như của ông Nguyễn Phú Trọng, khi cái chết đã khép lại một chương sử với nhiều sự tranh cãi, mở ra những cánh cửa mà nhiều người thầm kín từng chờ đợi. Lại có sự ra đi tìm về sự tĩnh lặng, như của sư Thích Minh Tuệ, một hành trình buông bỏ những ham muốn vật chất, tìm về đất Phật, nhưng để lại một dấu hỏi lớn trong lòng những người chứng kiến và nỗi lo sợ từ chính quyền. Và cũng có sự ra đi xuất phát từ ước mơ và thất vọng, như của Chu Ngọc Quang Vinh, như một lời tuyên bố về sự thật và con đường tìm đến một tương lai khác, nơi mà không có sự đấu tố và áp bức nặng nề.
"Ra đi" trong bối cảnh đất nước Việt Nam hiện tại, không chỉ là một hành động di chuyển, mà còn là một biểu hiện của sự khát vọng tự do, sự bất lực, và cả những hệ lụy của một xã hội đầy rẫy những bất công.
Dấu chân ly trần của sư Thích Minh Tuệ
Sư Thích Minh Tuệ, người con của đất Việt, không phải là nhà sư duy nhất gây ra nhiều khó khăn cho chính quyền, nhưng lại là người khiến cho họ bị lúng túng nhiều nhất. Không có giáo trình nào dạy cho họ cách thức để đối phó lại với một người như ông. Ông không thuộc bất cứ giáo hội độc lập nào, khác với các nhà sư như Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ hay Thích Nhất Hạnh. Thích Minh Tuệ chỉ đơn độc trên con đường tu tập, không kêu gọi bất cứ ai đồng hành cùng với mình. Điều này làm triệt tiêu mối lo sợ lớn nhất của chính quyền: sự hình thành tổ chức
"mờ ám" nào phía sau.
Nguồn gốc của sư Thích Minh Tuệ cũng không có liên quan gì đến miền Nam, ông vốn là người ở Hà Tĩnh, không có bất cứ mối liên hệ nào với chế độ cũ hay người tỵ nạn CS. Ông thậm chí từng là bộ đội, công viên chức Nhà nước,
"một người trong số họ".
Bản thân sư Thích Minh Tuệ không phải là vấn đề, mà chính là sự ngưỡng mộ của công chúng đã dành cho ông. Sự xuất hiện của một người đã từ bỏ mọi ham muốn vật chất, sống một cuộc đời giản dị và thanh tịnh, đã tạo ra một làn sóng ngưỡng mộ sâu rộng, bắt nguồn từ việc ông đã hoàn toàn buông bỏ những dục vọng tầm thường. Ông không cần chùa chiền, cúng dường,
"livestream câu view", cũng chẳng cần bằng cấp hay xá lợi nào cả. Chỉ cần một chút nước uống và một bữa cơm chay mỗi ngày, ông đã chạm đến trái tim của rất nhiều người. Chính sự giản dị và thanh khiết đó đã tạo ra một đám đông người mến mộ mà chính quyền không hề mong muốn. Bởi lẽ, bất cứ chính quyền nào theo chủ nghĩa tôn thờ chủ nghĩa Lê-nin cũng đều lo sợ trước những đám đông không do họ kiểm soát chặt chẻ.
Từ khi xuất hiện vào đầu năm 2024, sau đợt trấn áp và kiểm soát hành trình đi
"khất thực" tu tập vô hại, đến cuối năm, sư Thích Minh Tuệ đã phải buộc rời quê hương đất tổ, đi qua ngả Lào để đến với miền đất Phật ở Ấn Độ. Lý do thực sự cho sự ra đi của ông vẫn còn là một ẩn số khi cuộc bộ hành của ông luôn có sự xuất hiện của Đoàn Văn Báu, một Thượng tá công an chìm, ngày đêm đi theo để giám sát với máy bộ đàm trên tay để liên lạc. Người ta chỉ có biết rằng, có một con người tự do và lương thiện phải buộc rời bỏ quê hương, mang theo một khúc ca buông bỏ không lời. Sự ra đi của ông không chỉ là sự mất mát của Phật giáo, mà còn là một câu hỏi lớn vang vọng về tự do và quyền con người, một vết hằn sâu trong tâm trí những người đã từng dõi theo và ngưỡng mộ ông, một nỗi đau âm ỉ trong lòng những người khao khát về một xã hội công bằng.

Thầy Thích Minh Tuệ. (Hình: Facebook)
Thích Chân Quang, sự ra đi nhục nhã của giới tu hành đã tha hóa
Cũng là
"ra đi" nhưng sự ra đi của Thích Chân Quang là một nỗi nhục nhã. Ông đã bị Giáo hội Phật giáo Việt Nam cấm không được thuyết giảng trong vòng hai năm vì những lời phát ngôn bị coi là trái với Phật Pháp. Với một nhà sư từng nổi tiếng nhờ những bài giảng gây ra nhiều tranh cãi lan truyền trên mạng, việc bị cấm khẩu rõ ràng là một hình phạt nặng nề nhất. Nhưng
"nghiệp" của ông này còn nặng hơn vậy. Cơ quan chức năng đưa ra tuyên bố cho rằng 3 bằng cấp của ông đều là giả mạo, và do đó các văn bằng cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ của ông cũng không còn giá trị. (
*lẽ ra phải cho truy tố ra tòa??)
Thích Chân Quang tuy đại diện của sự tha hóa trong giới tu hành được Nhà nước bảo trợ, nhưng đã từng đạt đến đỉnh cao danh vọng. Danh vọng đó không chỉ được công nhận từ Giáo hội
"quốc doanh", mà còn do cơ chế quản lý giáo dục còn nhiều lỗ hổng và sự sùng bái mù quáng của hàng ngàn Phật tử. Trong số những Phật tử đó, có hàng chục giáo sư, tiến sĩ thuộc ngành luật, những người đã góp phần xác lập ra vị thế của Thích Chân Quang trong giới học thuật.
Thích Chân Quang được hưởng một không gian sinh hoạt tôn giáo
"chính thống" và rộng mở, và trở thành một trong những người thành công nhất trong việc lợi dụng không gian đó để mưu lợi riêng cho cá nhân. Việc mưu lợi của ông không chỉ giới hạn trong không gian nhà chùa mà còn lan sang không gian Nhà nước. Khi đó, tư lợi của ông đã trở thành vấn đề công. Sự sụp đổ của ông là một sự sụp đổ của một hệ thống dung dưỡng và tiếp tay cho sự tha hóa của Giáo hội
"quốc doanh" này.

Thích Chân Quang. (Hình: VietnamNet)
Nguyễn Phú Trọng "ra đi", kẻ khóc người cười
Sự ra đi của ông Nguyễn Phú Trọng, một cái chết khép lại một chương lịch sử đầy những tranh cãi, đã khuấy động những cảm xúc trái chiều trong lòng những người con mang dòng máu Lạc Hồng. Có những giọt nước mắt vì tiếc thương, những lời ca tụng vang vọng từ kẻ đau buồn, nhưng cũng không ít nụ cười khuất lấp, một sự giải tỏa thầm kín từ những người mừng thầm. Sau những ngày quốc tang rình rang, từ đời tế thực đến cõi mạng, cái tên Nguyễn Phú Trọng đã dần dần trôi vào quên lãng. Cái chết của ông, tựa như một cơn mưa rào sau những ngày nắng hạn, đã mở ra những cánh cửa mà bao nhiêu người đang âm thầm chờ đợi từ lâu.
Là Tổng bí thư duy nhất nắm quyền đến ba nhiệm kỳ sau thời Lê Duẩn, ông đã tự tay tạo ra những tình huống ngoại lệ chưa từng có, trở thành một kẻ độc tài cá nhân với tầm ảnh hưởng áp đảo. Có thể ông Trọng không vướng vòng lao lý vì đã tham nhũng về tiền bạc, nhưng chắc chắn ông là người tham nhũng về quyền lực bậc nhất trong lịch sử ĐCSVN. Tự xưng là
"người gác đền tư tưởng" cho đảng, ông không ngần ngại xé bỏ những điều lệ đã định sẳn, để quyết nắm quyền cho đến nhiệm kỳ lần thứ ba.
"Người Cộng sản cuối cùng", như chính ông luôn tự nhận, đã đứng trên cả đảng cho đến khi trút ra hơi thở cuối cùng.
Nếu như cái chết của Tổng bí thư Lê Duẩn vào năm 1986 đã cởi trói cho đảng tiến hành công cuộc đổi mới, thì cái chết của ông Nguyễn Phú Trọng tựa như một lần cởi trói thứ hai, mở ra cơ hội cho những sự cải cách mới. Liệu rằng, những cải cách đó có trở thành hiện thực hay không, vẫn còn là một ẩn số.
Tô Lâm, sự ra đi với nỗi lo âu và chán nản về vận mệnh đất nước
Trong lịch sử gần một trăm năm của đảng CSVN chưa từng có một người đứng đầu nào xuất thân từ lực lượng an ninh hay công an… cho đến khi Tô Lâm trở thành Tổng bí thư vào ngày 3 tháng 8 năm 2024. Là con nhà nòi, Tô Lâm đã được đặt lên bệ phóng để đi xa hơn rất nhiều so với người cha Tô Quyền, vốn chỉ làm đến chức Cục trưởng Cục Trại Giam của Bộ Công An. Tốt nghiệp trường Đại học An Ninh Nhân Dân vào năm 1979, Tô Lâm dành gần như toàn bộ sự nghiệp công an của mình trong ngành an ninh, chuyên trách bảo vệ chế độ. Con đường thăng tiến của ông cất cánh vào năm 2016 khi ông trở thành Bộ trưởng Công an, và là thanh gươm đắc lực trong công cuộc
"đốt lò" nỗi tiếng của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, cho đến tận khi ông Trọng qua đời vào ngày 19 tháng 7 năm 2024 vừa qua.
Tô Lâm đã thể hiện sự đắc lực đến mức tên ông được réo lên như một trong những nhân vật chính bị cáo buộc bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Berlin (Đức) hồi năm 2017. Cơ quan điều tra Slovakia từng ban hành trát truy tố ông vào cuối tháng Ba năm nay, nhưng rồi lại cho hủy vào cuối tháng Năm, ít ngày sau khi ông được bầu làm Chủ tịch nước vào ngày 22 tháng 5. Sau sự ra đi của ông Trọng, ông Lâm trở thành người chiến thắng cuối cùng trong cơn tao loạn ở Ba Đình, nhưng cũng phải
"ra đi" khỏi chiếc ghế Chủ tịch nước, nhường cho Đại tướng Quân đội Lương Cường, tái xác lập vị thế
"tứ trụ" theo truyền thống của đảng.
Mặc dù vậy, Tổng bí thư Tô Lâm vẫn thừa hưởng chiếc áo quá rộng sau 12 năm ông Trọng liên tục xé rào tạo nhiều tiền lệ mới. Giờ đây, ông Lâm có thể đàng hoàng công du ra nước ngoài mà vẫn được đối xử như một vị nguyên thủ quốc gia, đang tranh thủ từng ngày để tạo ra dấu ấn riêng của mình. Trong khi vẫn sử dụng văn bản mẫu về đường lối của đảng và kế thừa di sản của ông Trọng trong các bài phát biểu, ông Lâm cũng không ngần ngại hô hào đất nước tiến vào
"kỷ nguyên mới" và quyết liệt cho thực hiện công cuộc
"tinh gọn bộ máy". Nếu thành công, ông Lâm sẽ là người đầu tiên làm được cái việc
"dời non lấp biển" này.
Sự
"ra đi" sau khi đã mất đi chiếc ghế Chủ tịch nước của ông Lâm đã phá vỡ thế thống trị“độc tôn mà ông Trọng đã tạo ra, nhưng lại khiến cho người dân cảm thấy chán nản và lo âu về niềm hi vọng đổi thay của vận mệnh quê hương khi sự chuyên quyền và đàn áp vần còn tiếp tục được thúc đẩy.

Tô Lâm và Lương Cường được ông Nguyễn Phú Trọng thăng hàm Đại tướng trong cùng đợt ngày 29 tháng Giêng, 2019. (Hình: Thông Tấn Xã Việt Nam)
Huy Đức, sự ra đi của tự do ngôn luận dòng chính
Nhà báo Huy Đức bị bắt là một sự kiện thật bất ngờ, khiến cho không gian thảo luận về chính trị ở Việt Nam mất đi một trong những tiếng nói có trọng lượng và chất lượng nhất. Huy Đức, tên thật là Trương Huy San, là một người thuộc về dòng chính khi toàn bộ sự nghiệp làm báo của ông đã gắn liền với những tờ báo chính thống. Ông cũng chưa từng có bất cứ sự cộng tác nào với báo chí nước ngoài hay báo chí độc lập.
Trong lịch sử Việt Nam sau năm 1975, Huy Đức đã ghi dấu ấn khá sâu đậm. Ông là một trong những nhà báo tài năng hàng đầu, từng làm việc ở những tờ báo có tầm ảnh hưởng lớn nhất như
Tuổi Trẻ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Sài Gòn Tiếp thị trong nhiều thập niên. Ông cũng là một trong những
blogger/Facebooker được đọc nhiều nhất từ những năm 2000 với bút danh là
Osin.
Chỉ có hai điều mà ông đã làm, vượt ra ngoài khuôn khổ chính thống: xuất bản hai tập của cuốn sách mang tính bước ngoặt
"Bên thắng cuộc" ở Mỹ vào năm 2012, một tác phẩm không thể bỏ qua đối với bất cứ ai muốn tìm hiểu về lịch sử hiện đại Việt Nam, và viết những bài phân tích sắc sảo trên blog/Facebook cá nhân. Huy Đức thận trọng đến mức không cho bất cứ ai có cơ hội cáo buộc ông là người
"có tổ chức" và
"nhận tiền nước ngoài", cách thức mà chính quyền thường gán cho các nhà báo độc lập như
Phạm Đoan Trang, hay
Phạm Chí Dũng. Nếu có điều gì khiến cho dư luận đồn đoán, thì chỉ là những tin đồn về việc ông thuộc về phe phái nào đó trong đảng, mặc dù những lời đồn đó chưa bao giờ được chứng minh cả.
Cái án
"lợi dụng các quyền tự do dân chủ" vẫn đang treo lơ lửng trên đầu Huy Đức, một sự trớ trêu. Bởi lẽ, nếu Việt Nam thực sự có tự do dân chủ để ra tay lợi dụng, thì người ta phải cảm ơn những người như Huy Đức, những người đã góp phần tạo ra không gian tự do đó bằng chính tiếng nói và ngòi bút của mình. Việc ông bị bắt giữ là một đòn giáng mạnh vào tự do ngôn luận và sự đa dạng của các tiếng nói trong xã hội Việt Nam.
Vụ án Trương Mỹ Lan, bóng tối của quyền lực và dấu hỏi không có lời giải đáp
Vụ án Trương Mỹ Lan, SCB, Vạn Thịnh Phát, một câu chuyện mà có lẽ thường dân sẽ không bao giờ thấu tỏ, dù đã đi qua phiên phúc thẩm và kết thúc với bản án tử hình. Chỉ riêng việc hình dung con số sai phạm khổng lồ lên tới 415,000 tỷ VN đồng, tương đương khoảng 16 tỷ USD đã là một thách thức quá lớn với bất cứ một người Việt nào. Có lẽ chỉ có tỷ phú Phạm Nhật Vượng mới có thể đem ra để so sánh nỗi, thậm chí vượt trội hơn. Khoản tiền mà bà Lan phải bồi thường cho SCB còn là một con số phi thực tế hơn nữa: 677,000 tỷ VN đồng, tức là khoảng 27 tỷ USD. Với 440 mã tài sản chưa được định giá trong tổng số hơn 1,000 mã tài sản của bà Lan, không ai có thể xác định được tổng số tài sản thực sự mà bà đang đứng tên sở hữu là bao nhiêu. Và làm như thế nào bà có thể chuyển đi 4.5 tỷ USD, cho chuyển dịch 16 tỷ USD qua lại qua biên giới trong suốt nhiều năm trời? Ở một đất nước mà tổng sản phẩm nội địa (GDP) cả năm chỉ hơn có 400 tỷ USD? Đây quả thật là điều không thể tin nỗi được, giống như con voi tìm cách chui lọt lỗ kim.
Vụ án Trương Mỹ Lan vẫn là một dấu chấm hỏi lớn trong một hệ thống pháp luật đầy bất công và bí ẩn.

Bà Trương Mỹ Lan không thoát khỏi án tử hình. (Hình: Tuoitre)
Ra đi không ngoảnh lại: số phận bi thương của Y Quynh Bđăp và những người ly hương
Mỗi năm, có hàng trăm, hàng ngàn người Việt chọn con đường ly hương. Họ là những người bị bức hại, tìm cách ra đi bằng nhiều con đường khác nhau, dù hợp pháp hay bất hợp pháp, nhưng trong tâm khảm luôn mang một nỗi niềm: sẽ không có ngày trở về. Cho đến khi trát dẫn độ gõ tận cửa, một sự thật tàn nhẫn đã ập đến.
Y Quynh Bđăp là một trong những người như vậy. Là một người Thượng theo đạo Tin Lành ở Tây Nguyên, ông trải qua không ít lần vào tù ra tội chỉ vì những sinh hoạt tôn giáo và những lời dám nói thật của mình. Y Quynh Bđăp là một ví dụ điển hình cho sự đàn áp của chính quyền nhắm vào các cộng đồng tôn giáo và sắc tộc thiểu số. Đi tỵ nạn ở Thái Lan từ năm 2018, có lẽ Y Quynh Bđăp chưa từng nghĩ rằng, sẽ có ngày phải đối mặt với nguy cơ bị cho dẫn độ về nước để chịu bản án 10 năm tù về tội khủng bố, liên quan đến sự kiện xả súng ở Đắk Lắk hồi năm 2023. Yêu cầu dẫn độ của Việt Nam đã được tòa án sơ thẩm ở Bangkok chấp thuận, nay chỉ còn chờ phán quyết từ tòa phúc thẩm, một sự mong manh giữa tự do và ngục tù.
Vụ tấn công hai trụ sở ủy ban xã ở Đắk Lắk năm 2023 vẫn còn là một bức màn nhiều uẩn khúc chưa có lời giải, đặc biệt là về động cơ gây án. Yêu cầu dẫn độ Y Quynh Bđăp không khác gì sử dụng dùi cui và thuốc súng để giải quyết xung đột, một phương pháp tàn nhẫn và thiển cận vốn quen thuộc của những kẻ thống trị độc tài.

Y Quynh Bdap. (Hình: Human Right Watch.org)
Giác mơ "ra đi" của Chu Ngọc Quang Vinh
"Cuối cấp 2 là tôi được tiếp cận với văn hóa phương Tây cao trào nhất. Dần dần, tôi phát hiện thấy, những gì mình được học ở trường bấy lâu nay không hoàn toàn là sự thật, chỉ biết lừa gạt dân, nên tìm mọi cách để sau này được ra sống ở nước ngoài". Chu Ngọc Quang Vinh, cậu học trò dám nói lên những nổi suy tư và ước mơ thầm kín của nhiều người, đã trở thành nạn nhân của một cuộc đấu tố không chút thương tiếc.
Văn hóa đấu tố những người như Quang Vinh không phải là chuyện ngẫu nhiên. Mọi thứ đều có quy luật tác động đến, kể cả sự vận động của miệng lưỡi. Đằng sau phong trào đấu tố Quang Vinh và cả trường Fulbright, là một cơ chế trừng phạt và khen thưởng được thiết kế chỉ để bảo vệ tính chính danh của chế độ bạo quyền. Ai dám xúc phạm chế độ thì phải chịu sự trừng phạt, ai bảo vệ chế độ thì được xét ban thưởng. Ngay cả khi các dư luận viên không ra tay, những công dân (hay thần dân) dưới chế độ xã hội chủ nghĩa cũng tự thấy có nhu cầu để tiến hành cuộc đấu tố.
Phần thưởng cho những
"hồng vệ binh" tự nguyện này không nhất thiết phải là bằng khen của Mặt Trận Tổ Quốc, mà có thể chỉ đơn giản là chiếc áo màu đỏ, biểu tượng cho lòng trung thành (dù có thể chỉ là giả tạo) có tác dụng bảo vệ cho họ khỏi mọi sự nghi ngờ về
"bản lĩnh chính trị". Trong một xã hội nhị nguyên
"theo hoặc chống", chiếc áo màu đỏ ấy có giá trị như một lá bùa hộ mạng. Chu Ngọc Quang Vinh thực ra chỉ là một trong rất nhiều nạn nhân của cấu trúc quyền lực ngông cuồng này. Đó là lý do vì sao mà người Việt Nam sẽ còn tiếp tục mơ đến
"giấc mơ Mỹ" và tiếp tục ra đi, không một chút do dự.