Tại sao Quan Âm t́m đồ đệ cho Đường Tăng đều là người phạm luật trời? Nhiều người luôn thắc mắc khi đọc "Tây Du Kư", đó là, trên thiên đ́nh có bao nhiêu người tài giỏi, tại sao Quan Âm Bồ Tát lại chỉ chọn những người từng vi phạm luật trời để làm đồ đệ bảo vệ Đường Tăng đi thỉnh kinh?
Người đầu tiên là Tôn Ngộ Không (Tề Thiên Đại Thánh) là đại đồ đệ của Đường Tăng trong "Tây Du Kư". Tôn Ngộ Không là con khỉ sinh ra từ một ḥn đá. Sau đó được Bồ Đề Tổ Sư thu nhận và dạy dỗ, đồng thời truyền cho hầu tử 72 phép Địa sát biến hoá thần thông quảng đại. Sau khi nổi loạn ở Thiên Cung và bị Phật Tổ giam cầm dưới ngọn núi Ngũ hành 500 năm, Tôn Ngộ Không được giải thoát và đi theo Đường Tăng.
Tạo h́nh thầy tṛ Đường Tăng trong "Tây Du Kư" phiên bản 1986. Ảnh: Sohu
Đồ đệ thứ 2 là Trư Bát Giới, (Thiên Bồ Nguyên Soái), người chỉ huy hơn 8 vạn thuỷ binh ở thiên đ́nh, tu luyện thành thạo 36 phép Thiên cang của Đạo giáo. Trong đó nổi tiếng với phép cải tử hoàn sinh. Tuy nhiên, v́ trêu ghẹo Hằng Nga, vi phạm quy tắc của thiên đ́nh và bị đày xuống trần gian.
Đồ đệ thứ 3 là Sa Tăng. Khi ở Thiên Đ́nh, Sa Tăng là Quyển Liêm đại tướng trên thiên đ́nh, chỉ v́ nhỡ tay làm vỡ chiếc cốc lưu ly mà bị Ngọc Hoàng đày xuống làm yêu quái ở Lưu Sa Hà nơi hạ giới.
Đệ tử thứ tư là Bạch Long Mă. Bạch Long Mă chính là Tam Thái Tử của Tây Hải Long Vương. Vào ngày cưới, sau khi phát hiện vợ ḿnh là là Công Chúa Vạn Thánh qua lại với Cửu Đầu Trùng, Bạch Long Mă đă đốt cháy viên ngọc Dạ Minh Châu, vốn là món quà cưới được Ngọc Hoàng ban tặng. Cũng chính v́ vậy mà Bạch Long phạm tội với Ngọc Hoàng và Thiên Đ́nh, bị đem ra xét xử và xích lại giam giữ. Nhưng Bạch Long ngày càng ngỗ ngược, nên đă trốn ra ngoài giết chết ngựa của Đường Tăng, sau này được Quan Âm Bồ Tát hàng phục và trở thành ngựa Bạch Mă, pḥ tá thầy tṛ Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh.
Cả 4 người đều phạm luật trời, nhưng Quan Âm lại chọn họ làm đệ tử để bảo vệ Đường Tăng đi thỉnh kinh? "Tây Du Kư" ẩn chứa rất nhiều chi tiết bí ẩn mà có lẽ dành cả một đời nghiên cứu, giải mă vẫn chưa hết trong số đó có tên 4 đồ đệ của Đường Tăng gồm có: Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng và Bạch Long Mă.
Bốn đồ đệ của Đường Tăng là Tôn Ngộ Không, Sa Ngộ Tĩnh, Trư Ngộ Năng và Ngộ Kư (tức Bạch Long Mă) đều có chung một chữ "Ngộ". Trong Phật giáo, chữ "Ngộ" có nghĩa là "Giác Ngộ" và là một điều tối quan trọng đối với người tu luyện.
"Ngộ" bao gồm cả sự lĩnh hội về pháp lư mà sư phụ đă chỉ dạy, có thể nhận thức mọi thứ theo cái nh́n của một người tu luyện, hiểu biết về những mối quan hệ trong xă hội, gia đ́nh, cũng như nhận thức về nghiệp bệnh và ma nạn mà người đó phải trải qua.
Chữ "Không" trong Tôn Ngộ Không: Chữ "Không" có nghĩa là xả bỏ tất cả tâm chấp trước và dục vọng. Được sinh ra từ một ḥn đá, Ngộ Không vốn không có thân thể người thường và được hiện thân thành một con khỉ. Tuy không có bất kỳ kinh nghiệm nào của con người và không có nhiều quan niệm của người thường, nhưng Ngộ Không là một người học hỏi nhanh chóng và tinh thông.
Chữ "Năng" trong Trư Ngộ Năng: Chữ "Năng" là nói đến những tâm tính bản năng, tính tham và dục: tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc và tham nịnh nọt cho được lợi về ḿnh. Khí giới của họ Trư v́ thế phải bắt buộc là đinh ba, là cào cỏ, để mà vơ vào cho nhiều, cho vừa ḷng tham dục. Bát giới là sự tập hợp những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người. V́ thế mà pháp danh của Bát giới là Ngộ năng.
Chữ "Tĩnh" trong Sa Ngộ Tĩnh: Chữ "Tĩnh" là nói về tâm thanh tịnh và trong sạch. Nó cũng mang ư nghĩa là loại trừ đi nhân tâm. Tĩnh để mà khắc chế cái động, cái chưa thanh tịnh; tĩnh để mà kham nhẫn, chịu đựng.
Chữ Kư trong Ngộ Kư: Ngộ Kư (chữ kư có nghĩa chạm trổ, ghi chép) là chạm trổ trên chữ Ngộ, thể hiện vai tṛ pḥ giá trên con đường đi t́m Chân Lư. Bạch Long Mă là chú ngựa thần có xác thân cương kiện, giúp Đường Tăng tới được Lôi âm. Bạch Long Mă cùng sư huynh chiến đấu yêu quái và bảo vệ hành lư khi Sa Tăng bị bắt.
Trong cuốn tiểu thuyết "Tây Du Kư", mỗi chi tiết, mỗi cái tên đều ẩn chứa những nội dung đáng chú ư. Nếu xét về nghệ thuật dụng tên, bốn đồ đệ của Đường Tăng đều có tên gọi biểu trưng cho một đặc tính thường thấy của thân và tâm trong mỗi người chúng ta trên hành tŕnh đến chân lư. Trong Phật giáo, "ngu si, tham lam, sân hận" được liệt vào tam độc, chỉ khi bỏ được những thứ này th́ con người mới có thể trở thành một người đủ tư cách. Và tam độc này tương ứng với 3 giới địa ngục, ác thần và thú dữ.
Cái gọi là "tham" ám chỉ Trư Bát Giới. V́ tham ăn tham uống ở hội bàn đào đến ḷng tham sắc đẹp Hằng Nga mà bị đày xuống trần gian. Ngay cả khi ở hạ giới th́ Bát Giới cũng không thể thay đổi thói quen tham lam sắc đẹp và ham lợi nhỏ của ḿnh.
Về "ḷng thù hận", đó chính là Tôn Ngộ Không. Từng là vua của núi rừng, tính cách phóng khoáng nhưng sẵn sàng phá phách, đánh giết người v́ ḷng căm thù và sự tức giận.
Sự "si" trong tính cách của Sa Tăng. Sau khi bị đày xuống sông Lưu Sa Hà, để trả thù thiên đ́nh, Sa Tăng thường quấy rối dân làng gần đó, thậm chí c̣n ăn thịt người khiến ai cũng hoảng sợ. Nhưng bản thân Sa Tăng rất nhớ cuộc sống trên thiên đàng, điều này đă trở thành một nút thắt trong tim mà không bao giờ có thể mở ra.
Sau khi thu nhận để tử, Đường Tăng đều ban pháp danh cho họ: Tôn Ngộ Không, Sa Ngộ Tĩnh, Trư Ngộ Năng và Ngộ Kư (tức Bạch Long Mă). Pháp danh của họ khi kết hợp lại với nhau như thông điệp về sự giác ngộ thoát khỏi "tham, sân, si" trong bản chất con người, đối mặt với khuyết điểm trong ḷng và sửa chữa chúng, đạt được mục tiêu hợp nhất thân tâm.
Đặc biệt, h́nh ảnh kết hợp của thầy tṛ Tam Tạng lại ẩn giấu một ư nghĩa quan trọng và sâu sắc hơn khi tượng trưng cho chí tu hành, quyết vượt qua bao nhiêu khó khăn để đạt tới thành công.
VietBF@ sưu tập