Khó khăn trong việc dỡ bỏ các biện pháp hạn chế do Covid-19 là sự lựa chọn khó khăn. Nhiều chính phủ trên thế giới đang phải cân nhắc đưa ra lựa chọn khó khăn giữa việc đảm bảo sức khỏe cộng đồng và dỡ bỏ một số hạn chế trong bối cảnh đại dịch viêm đường hô hấp COVID-19 c̣n diễn biến phức tạp.

Cảnh vắng vẻ trên đường phố tại Washington D.C, Mỹ ngày 11/4/2020 khi lệnh hạn chế đi lại được ban bố do dịch COVID-19 bùng phát mạnh. Ảnh: THX/TTXVN
Cân bằng giữa các yêu cầu sức khỏe cộng đồng và áp lực duy tŕ nền kinh tế đang thúc đẩy nhiều quốc gia phải cân nhắc việc từng bước nới lỏng những biện pháp phong tỏa trong khi cố gắng ngăn chặn đại dịch COVID-19. Các biện pháp hạn chế mặc dù đă phát huy hiệu quả nhất định trong việc làm chậm sự lây lan của virus corona chủng mới (SARS-CoV-2) gây bệnh COVID-19, song cũng làm ḱm hăm những ngành kinh tế quan trọng và làm gián đoạn các hoạt động sinh kế của nhiều người dân.
V́ vậy, việc tính toán dỡ bỏ một vài hạn chế và cho phép nối lại các hoạt động xă hội trong giới hạn là một ưu tiên nghị sự của nhiều chính phủ trên toàn cầu, trong đó có Mỹ và các quốc gia châu Âu. Ư tưởng chính là đảm bảo sự quay trở lại b́nh thường của nền kinh tế trong phạm vi rủi ro được các cơ quan y tế công chấp nhận. Tuy nhiên, không có ǵ đảm bảo việc mở cửa trở lại các hoạt động kinh tế sẽ không đẩy t́nh h́nh vượt khỏi tầm kiểm soát. Do đó, một số chính phủ đang t́m kiếm các biện pháp pḥng vệ tối đa, tích cực tầm soát các mầm bệnh c̣n lại thông qua h́nh thức đẩy nhanh xét nghiệm sàng lọc.
Ở các nước thu nhập thấp và trung b́nh, việc mở cửa trở lại nền kinh tế cần được cân nhắc và tính toán cẩn trọng. Tại các nước này, số ca tử vong do COVID-19 cho đến nay chưa ghi nhận nhiều như các quốc gia phát triển khác như Mỹ, Tây Ban Nha, Italy, Pháp... Điều đó dường như đang khiến các nước này cân nhắc tiến tới giảm bớt các biện pháp hạn chế trong khu vực. Các chính phủ phải chịu áp lực giảm bớt những hạn chế đă gây tác động không nhỏ đến các nhóm xă hội dễ bị tổn thương, trong khi nguy cơ cơ sở hạ tầng y tế công cộng khó có thể đối phó với tỷ lệ lây nhiễm trong trường hợp gia tăng đột biến.
Lựa chọn giải pháp nào hiện vẫn là một chủ đề gây tranh căi. Hai nhà phân tích Ahmed Mushfiq Mobarak và Zachary Barnett-Howell từng tranh luận trên tạp chí Foreign Policy rằng có lư do để suy tính lại những biện pháp hạn chế, đồng thời phong tỏa có thể không phải là giải pháp hành động tốt nhất ở tất cả các quốc gia.
Dù đưa ra lập trường bảo vệ các biện pháp như vậy tại nhiều nước phát triển, hai chuyên gia này cảm thấy e ngại hơn trong việc thực thi rộng răi và không hạn chế ở các nước đang phát triển. Họ cho rằng hầu hết các quốc gia có thu nhập thấp đều có dân số trẻ hơn các quốc gia có giàu có song có tỷ lệ sinh thấp, nên hai nhóm nước này không chia sẻ rủi ro và lợi ích tương đồng từ các chiến lược được thực thi cho đến nay kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát trên quy mô toàn cầu.
Áp đặt phong tỏa ở các nước nghèo - nơi các gia đ́nh thường phải phụ thuộc vào lao động trụ cột để kiếm sống - có thể dẫn đến sự gia tăng các ca tử vong v́ thiếu ăn hoặc các bệnh có thể pḥng tránh được khác, chứ không phải v́ bệnh COVID-19. Mối quan tâm cũng tồn tại rất khác nhau giữa những tầng lớp người nghèo nhất.
Theo một số nghiên cứu, chính nguy cơ mất an ninh lương thực và thất nghiệp - không phải là sức khỏe và an toàn - mới là quan tâm hàng đầu của người nghèo ở các vùng nông thôn. Trong khi đó, các chuyên gia khác lo ngại rằng hầu hết các quốc gia có thu nhập từ mức thấp đến trung b́nh có thể phải đối mặt với viễn cảnh thiếu lương thực và không đủ nguồn cung cấp y tế trong trung hạn. Trong bối cảnh dịch bệnh, phản ứng đầu tiên của nhiều nước là đóng cửa biên giới và ngăn chặn xuất khẩu cho đến khi họ đảm bảo nhu cầu trong nước trước.
Giám đốc Đối tác và Chính sách Phát triển thuộc Ngân hàng Thế giới (WB) - bà Elka Pangestu, cảnh báo rằng nếu cuộc khủng hoảng COVID-19 tiếp diễn, nhiều khả năng sẽ xảy ra t́nh trạng thiếu nguồn cung thực phẩm. Các nước nghèo nhất phụ thuộc đáng kể vào nhập khẩu thực phẩm, sẽ chịu tổn thương nhiều nhất. Ước tính, các nước đang phát triển trung b́nh phụ thuộc khoảng 80% vào nguồn thực phẩm nhập khẩu, trong khi đối với các quốc gia dễ bị tổn thương hoặc ch́m trong xung đột, tỷ lệ này lên tới hơn 90%. Điều này khiến họ càng dễ bị tổn thương hơn trước những thay đổi chính sách của các quốc gia xuất khẩu.