Kennedy, tổng thống Mỹ đã bị bắn hai phát, phát đầu tiên sượt qua cổ ông và một phát bắn vào đầu. Phát đạn thứ hai đã lấy mạng của Kennedy. John Fitzgerald Kennedy, Tổng thống Hoa Kỳ thứ 35, đã bị ám sát vào thứ 6, ngày 22 tháng 11 năm 1963, tại Dealey Plaza, Dallas, Texas. Cái chết của Kennedy đánh dấu lần thứ 4, một vụ ám sát Tổng thống Mỹ thành công.
Ủy ban các vụ ám sát Hoa Kỳ (HSCA) kết luận vào năm 1979 rằng vụ ám sát Kennedy "là kết quả của một âm mưu". Họ xác định rằng sự tồn tại của một tiếng súng khác dựa trên những phân tích các bản ghi âm và do đó "...một xác suất cao có sự tham gia của hai tay súng bắn vào Tổng thống".
Mặc dù cái chết của J. F. Kennedy là do một vụ ám sát gây ra, nhưng nghiên cứu tài liệu mới nhất tiết lộ rằng tình trạng của sức khỏe của tổng thống đã "góp phần" vào sự thành công của vụ ám sát này.
Vào thời điểm đó, tổng thống đã mặc một chiếc nịt lưng ngực (corset) bó sát và dựng người thẳng đứng trong xe. Khi phát súng đầu tiên làm thương ở cổ, áo nịt lưng ngực này đã ngăn tổng thống cúi người xuống. Phát súng thứ hai bắn vào đầu và phát này đã lấy mạng Kennedy.
Nếu không có chiếc áo nịt ngực này, tổng thống Kennedy đã có thể cúi người xuống sau phát đạn đầu tiên sượt cổ ông. Và như vậy tổng thống Kennedy đã thoát chết và lịch sử thế giới chắc chắn sẽ phải viết lại.
Thật vậy, John F. Kennedy là niềm tự hào của nước Mỹ, đẹp trai và trẻ trung, một anh hùng hải quân, một tổng thống nổi tiếng và tốt bụng. Ngay cả phần lớn người hâm mộ của ông cũng không biết sau nụ cười thân thiện của ông ẩn giấu nhiều căn bệnh.

Tình trạng sức khỏe của người đàn ông số 1 nước Mỹ là thông tin có thể gây rủi ro cho an ninh quốc gia, và thậm chí có thể là một thảm họa của cả thế giới nếu rơi vào tay địch. Do đó, trong cuộc đời của John F. Kennedy và sau khi ông qua đời, gia đình ông cẩn thận giữ hồ sơ về những tài liệu này, và chỉ bây giờ, người nhà ông mới cho phép chúng ta tiếp cận.
Một loạt các bệnh bắt đầu từ hai tuổi (năm 1919) nhiễm trùng và hệ thống miễn dịch suy yếu khiến Kennedy phải dành nhiều thời gian nằm trong bệnh viện. Kennedy được điều trị do thiếu máu, các vấn đề xuất huyết, các triệu chứng giống như cúm tái phát. Ông cũng gặp vấn đề với tiêu hóa, bị viêm đại tràng mãn tính, thường xuyên bị tiêu chảy và đau quặn bụng.
Một trong những căn bệnh nghiêm trọng và quyết định nhất là bệnh Addison đe dọa đến tính mạng, tình trạng suy thượng thận mạn tính gây ra rối loạn chuyển hóa và đau lớn. Bệnh Addison, còn có tên suy tuyến thượng thận nguyên phát hoặc suy thượng thận, là một dạng rối loạn xảy ra khi tuyến thượng thận hoạt động không hiệu quả và sản xuất không đủ lượng hormone cần thiết. Hai tuyến thượng thận nhỏ nằm trên đỉnh thận. Tuyến thượng thận thường sản sinh ra hormone cortisol và aldosterone. Khi mắc bệnh Addison, tuyến thượng thận sẽ sản xuất rất ít cortisol và aldosterone. Nếu không có 2 hormone này, muối và nước của cơ thể sẽ bị đào thải ra bên ngoài thông qua nước tiểu, điều này sẽ khiến huyết áp giảm xuống rất thấp. Đồng thời, lượng kali sẽ tăng nhanh đến mức nguy hiểm. Hiện nay, vẫn chưa có phương pháp hiệu quả nào để phòng ngừa bệnh Addison.

Rối loạn hấp thu hoặc sử dụng thuốc quá mạnh, kích thích steroid, có thể góp phần làm tăng tình trạng loãng xương, đau lưng, đau lưng mãn tính, khiến cuộc sống của ông tồi tệ hơn trong những năm đại học. Chấn thương đầu tiên của đốt sống bị suy yếu do loãng xương tiến triển, khi ông học Harvard và khi chơi bóng đá. Theo các nguồn tin khác, cơn đau lưng dữ dội của ông ngày càng tăng bắt đầu trong thời gian phục vụ hải quân. Cơn đau lưng quá lớn đến nỗi nó đã ngăn ông di chuyển trong công việc hàng ngày, chẳng hạn như cúi xuống buộc dây giày của mình.
Ngoài các loại thuốc cho bệnh Addison, Kennedy còn liên tục uống thuốc giảm đau, thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc kích thích và thậm chí ông phải uống thuốc giảm đau nhiều lần trong ngày, thậm chí giữa chương trình hay họp báo.

Ông đã trải qua nhiều cuộc phẫu thuật: lần đầu tiên là vào tháng 6 năm 1944, nhưng không đạt được kết quả nào. Tổng thống đã phẫu thuật nhiều lần, nhưng đều thất bại. Và trong ngày lịch sử thứ 6, ngày 22 tháng 11 năm 1963, ông đã bị bắn chết vì sau khi bị một viên đạn bắn sượt cổ, ông không thể cúi xuống để tránh viên thứ hai, viên đạn đã lấy đi sinh mạng của ông.
Nhiều sử gia lại cho rằng nếu JFK còn sống sau sự kiện ở Dallas, thì cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã có một kết thúc bớt khốc liệt hơn cho cả hai phía. James Blight và Janet M Lang, hai chuyên gia về chính sách ngoại giao của JFK, cho rằng thế giới sẽ trở nên hòa bình hơn rất nhiều, và chiến tranh Lạnh sẽ kết thúc vào năm 1969 (thay vì 20 năm sau) nếu như Kennedy không bị ám sát.
Kennedy đã cam kết tranh cử tổng thống vào năm 1964 và dựa trên lý thuyết của các nhà sử học, ông có cơ hội chiến thắng cao.
Đánh giá mức độ ủng hộ của ông ở mức 58% ngay trước vụ ám sát (ngay sau khi ông làm tổng thống 1.000 ngày tại văn phòng). Con số đó cao hơn so với xếp hạng tương tự của Richard Nixon, Ronald Reagan, Bill Clinton, George W. Bush và Barack Obama, năm tổng thống đã giành được chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu tái cử.
Ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa vào cuối năm 1963 là Thượng nghị sĩ Barry Goldwater. Ông ta là bạn của Kennedy và đã bỏ cuộc đua một thời gian ngắn sau cái chết của Kennedy, và quay lại cuộc đua bởi muốn đánh bại người ông không thích, Lyndon Johnson.
Cuộc bầu cử giữa Kennedy và Goldwater sẽ được quyết định bởi hai vấn đề lớn xuất hiện trong năm 1964: dân quyền và Việt Nam. Trên các bản ghi âm được thực hiện trong Nhà Trắng ngay trước khi qua đời, Kennedy nói với các cố vấn rằng ông mong đợi một chiến dịch tái tranh cử khó khăn vì sự ủng hộ của ông đối với các quyền dân sự.
Tổng thống Kennedy đã giới thiệu Đạo luật Dân quyền (Civil Rights Act) lịch sử vào tháng 6 năm 1963. Nó đã bị ngưng trệ tại Quốc hội khi Kennedy qua đời.
Các đoạn băng âm thanh tương tự từ ngày 19 tháng 11 năm 1963 cũng cho thấy những lo ngại của Kennedy về cuộc khủng hoảng ở Việt Nam khi ông hỏi hai trợ lý trở về từ châu Á.
Người anh em của tổng thống, Robert Kennedy, đã thực hiện một cuộc phỏng vấn cho Thư viện Kennedy vào tháng 4 năm 1964, kể lại suy nghĩ về Việt Nam vào trước thời điểm tổng thống chết, ông nói rằng Việt Nam không thể rơi vào tay Cộng sản.
Nếu bạn mất Việt Nam, tôi nghĩ mọi người đã khá rõ ràng rằng phần còn lại của Đông Nam Á sẽ sụp đổ, ông Kennedy nói.
Chỉ ba tuần trước khi Tổng thống Kennedy chết, tổng thống Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm đã bị giết trong một cuộc đảo chính quân sự được Hoa Kỳ gián tiếp hỗ trợ. Vào tháng 8 năm 1963, Kennedy đã nói trong một cuộc đối thoại ghi âm khác rằng Quốc hội sẽ nổi điên nếu phát hiện ra một cuộc đảo chính được đề xuất ở Việt Nam, nhưng Quốc hội sẽ điên rồ hơn nếu Việt Nam bị mất.
Tình hình xấu đi nhanh chóng ở Việt Nam sau cái chết của Kennedy và vào tháng 8 năm 1964, Quốc hội đã thông qua một cuộc bỏ phiếu gần như nhất trí Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, cho phép Tổng thống Johnson có thể đưa một lượng lớn quân đội Hoa Kỳ tới Việt Nam mà không cần tuyên chiến.
Năm 2009, nhà làm phim Koji Masutani đã đảm nhận chủ đề Kennedy và Việt Nam trong Virtual JFK: Vietnam If Kennedy Had Living. Bộ phim dựa trên một cuốn sách và nghiên cứu đáng kể về chủ đề của các học giả tại Brown và Đại học Toronto, người đã xem xét một lượng lớn dữ liệu của chính quyền Kennedy.
Masutani và các nhà nghiên cứu kết luận rằng Kennedy sẽ tìm kiếm một giải pháp ngoại giao nhiều hơn Johnson, người đã đưa thêm quân đội vào Chiến tranh Việt Nam năm 1964, và Kennedy muốn rời khỏi Việt Nam hoàn toàn vào năm 1966.
Lý thuyết của họ là Kennedy có một mô hình hành vi, được thiết lập để xử lý các khủng hoảng như tình huống Vịnh Con Lợn và Tên lửa Cuba, thường khiến tổng thống đi ngược lại lời khuyên của các cố vấn quân sự của ông để tìm giải pháp ngoại giao.
Các tài liệu lập kế hoạch từ ngày 20 tháng 11 năm 1963 cho thấy rằng Hoa Kỳ đã hy vọng sẽ đưa tất cả các nhân viên quân sự ra khỏi Việt Nam vào cuối năm dương lịch 1965, trừ khi có những trường hợp ngoại lệ.
Nhưng từ cuộc đảo chính ông Ngô Đình Diệm tới thời điểm ám sát, tổng thống Kennedy suy nghĩ sẽ xử lý Việt Nam như thế nào vẫn còn là một bí ẩn.