Giữa tháng 2 năm 1975, tôi lái xe từ đồn Kiến-Đức, Quảng-Đức lên thăm Đại Tá Biệt Động Quân Phạm Duy Tất tại căn cứ Non-Nước, khoảng 10 cây số bắc Kontum. Đêm đó hai thày tṛ tôi nằm bên nhau, hàn huyên tới khuya.
Tôi được Đại Tá Tất cho đọc bản cung từ của một hồi chánh viên. Bản cung từ này do Đại Úy Dũng của Trung-tâm Thẩm Vấn, Quân đoàn 2 thiết lập. Người hồi chánh là một Thượng Sĩ trưởng mũi thám sát của Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 CSBV. Anh ta khai rằng, hai tháng nữa sẽ có một cuộc tấn công đại qui mô của Cộng Quân nhằm giải phóng thị xă Ban Mê Thuột. Anh ta c̣n kê khai ra những tổn thất của Sư đoàn 320 CSBV trong trận đánh 34 ngày đêm vây hăm Plei Me tháng 7& 8 năm 1974. Trận này Trung đoàn 48/SĐ 320 chủ công đă bị thiệt hại rất nặng, mỗi đại đội chỉ c̣n khoảng 17, 18 cán binh. Đơn vị đó phải về hậu cứ gần biên giới Việt Miên để bổ sung quân số rồi chuyển vùng hoạt động. Đêm đó tôi có nói với Đại Tá Tất rằng,
-“Thằng 48 đă bị tôi đánh xiểng liểng hai lần. Kỳ này Tư Lệnh cho tôi về pḥng thủ Ban-Mê-Thuột, tôi sẽ có dịp ‘cưa’ với nó một lần nữa. Đại Tá yên chí! Nếu tôi chưa chết th́ Ban-Mê-Thuột chưa lung lay. Tôi cam đoan với Đại Tá như vậy!”
Tôi thực ḷng mong muốn được về giữ thành phố này. V́ cha mẹ, vợ con, anh em tôi, và gia đ́nh binh sĩ đơn vị tôi sinh sống trong thành phố này. Ông Tất cười cười trả lời,
-“Cậu đừng lo! Ông Phú (Tư Lệnh QĐ2) đă giao cho ông Tường (Tư Lệnh SĐ23/BB) lo vụ này rồi!”
Tôi cũng được ông Tất cho biết rằng Sư đoàn 23/ BB sẽ án ngữ tại Buôn Blech, có thể dễ dàng di động giữa Ban-Mê-Thuột và Pleiku. Tiếp đó Đại Tá Tư Lệnh “bật mí” cho tôi một tin vui: Vài tháng nữa TĐ82/BĐQ của tôi sẽ được tăng cường để có quân số trên 800 người, với một hệ thống ngang 16 máy truyền tin, gồm đủ Trinh-Sát, Viễn-Thám cùng một đại đội chỉ huy và bốn đại đội tác chiến. Tiểu đoàn tôi sẽ xuất phát khỏi Liên đoàn 24 BĐQ để làm lực lượng xung kích dưới quyền Tư Lệnh Mặt Trận Kontum.
Hôm sau, trước khi từ giă Đại Tá Tất, tôi có đi quanh một ṿng thăm Trung Tá Lê Tất Biên, liên đoàn trưởng LĐ 23 BĐQ và vài người bạn đang tham gia pḥng thủ vùng Bắc-Kontum. Thiếu Tá Thi, liên đoàn phó LĐ 23 BĐQ hướng dẫn tôi đi quan sát vị trí bố quân của liên đoàn. Tôi thấy mặt trận ở đây có vẻ c̣n yên tĩnh hơn vùng Ngă Ba Tam Biên Nam (Cao Miên, Nam Kỳ, Trung Kỳ) mà tôi đang trấn giữ. Trên đường về Quảng-Đức, tôi ghé Ban-Mê-Thuột thăm hậu cứ tiểu đoàn, rồi về nhà nghỉ với vợ con tôi một đêm. Buổi sáng ngày kế đó, tôi vào tiệm Phở Tây-Hiên, ăn điểm tâm trước khi lên đường. Lúc tôi sắp lên xe th́ người lính già Dương Đức Mai (cựu Trung Tá liên đoàn trưởng LĐ22 BĐQ, mới giải ngũ) xuất hiện giữa phố, dơ tay vẫy,
-“Chào người hùng Plei-Me. Ghé tệ xá cho tôi hỏi thăm đôi lời đi ông Quan Tư!”
Tôi và bác Mai là chỗ rất thân t́nh. Chúng tôi đă nhiều năm làm việc chung ở BCH BĐQ QK2. Tôi theo chân bác, vào thăm nhà bác. Nhà bác ở kế hàng rào sân vận động Ban-Mê-Thuột. Vào tới sân, Trung Tá Dương Đức Mai, thật nghiêm nghị, hỏi tôi,
-“Theo ư cậu, tụi VC có dám đánh Ban-Mê-Thuột hay không?”
Vừa nâng niu những gị lan rực rỡ trên giàn, tôi vừa hùng hồn cam đoan với người chỉ huy cũ,
-“Bác cứ yên chí lớn! Ông Tường sẽ bảo vệ Ban-Mê-Thuột, ông Tất nói vậy, bác đừng lo!”
-“Thế ông gia, bà gia và vợ con cậu không di chuyển đi đâu sao?” Bác Mai nh́n tôi, dọ dẫm.
-“Có thể địch sẽ tấn công, nhưng chắc chúng không làm nên sự việc ǵ đâu. Gia đ́nh tôi c̣n ở đây, đủ hết, cha mẹ, anh em, vợ con tôi, vợ con binh sĩ tiểu đoàn tôi.” Tôi cầm tay bác, trấn an bác,
Tới đây th́ bác Mai có vẻ yên tâm. Tối trước, khi thấy bố vợ tôi âu lo v́ những tin đồn địch sẽ tấn công, tôi nói với ông cụ rằng, một cặp chỉ huy dày dạn chiến trường Tường và Luật đủ bảo đảm cho sự đứng vững của thành phố nhỏ bé này rồi (Chuẩn Tướng Lê Trung Tường Tư Lệnh/SĐ 23 BB & Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Darlac). Nghe tôi mạnh miệng, bố vợ tôi mới hết lo lắng. Bố vợ tôi cũng là một cựu Trung Tá của Sư đoàn 23 Bộ Binh vừa giải ngũ được một năm. Ông cụ và bác Dương Đức Mai là bạn khá thân. Sau khi chuyện tṛ một lúc, tôi bắt tay từ giă người cựu liên đoàn trưởng Biệt Động Quân Dương Đức Mai, rồi lên đường.
Vài ngày sau, ở Kiến Đức, tôi chợt nhớ ra rằng, bản cung hồi chánh đă cũ, và nếu đúng theo diễn tiến mà anh Thượng Sĩ của Trung đoàn 48/SĐ 320/ Điện-Biên đă khai, th́ giữa tháng Ba tới, địch sẽ triển khai chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột. Tôi lại nghe tin A2 phổ biến từ Pḥng Nh́, Quân đoàn 2 thông báo những chỉ dấu chuyển quân của Việt Cộng từ biên giới Việt Miên về vùng ven căn cứ biên pḥng Bản-Don. Mối quan tâm của tôi là, gia đ́nh tôi và gia đ́nh binh sĩ Tiểu đoàn 82 BĐQ đều ở Ban- Mê-Thuột. Tôi vội thảo gấp một cái công điện gởi thẳng cho hai nơi, một cho Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Biệt Động Quân Quân- khu 2 đang ở Kontum, một cho Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 2 ở Pleiku. Tôi xin thượng cấp cho phép Tiểu đoàn 82 BĐQ được rời Kiến-Đức, Quảng-Đức để về pḥng thủ Ban-Mê-Thuột. Tôi biết rất rơ về Trung đoàn 48 SĐ 320 CSBV, đơn vị chủ công sẽ đánh Ban Mê Thuột. Tôi tin tưởng rằng đơn vị tôi đủ sức đương đầu với chúng. Trong quá khứ, đơn vị tôi đă hai lần chạm trán với trung đoàn CSBV này ở căn cứ 711 Pleiku (tháng Tư, 1974) và ở căn cứ biên pḥng Plei-Me (tháng 7 & 8, năm 1974). V́ đây là điện văn riêng, nên tôi không gởi theo hệ thống dọc qua bộ chỉ huy Liên đoàn 24 BĐQ và qua bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Đức mà chúng tôi đang tăng phái. Nhưng Trung Tá Hoàng Kim Thanh, liên đoàn trưởng LĐ 24 BĐQ rơ chuyện này, v́ tôi có tâm sự với ông, ông rất thông cảm hoàn cảnh của tôi. Tôi chờ đợi từng ngày. Không ai trả lời bức điện thỉnh cầu của tôi.
Những khi hành quân xa, tôi thường đặt đài tiếp vận để tiện liên lạc với hậu cứ. Những tiểu đoàn bạn, đôi khi cả bộ chỉ huy liên đoàn cũng vào tần số đài này nhờ chuyển tin. Sáng ngày 9/3/75 đài tiếp vận “Tam Quái 82″ của tôi đặt trên căn cứ hoả lực Núi Lửa, Đức-Lập báo cáo rằng địch đang pháo kích vào chi khu Đức-Lập. Tới gần trưa th́ chính căn cứ Núi Lửa cũng bị địch pháo kích và tấn công bằng bộ binh. Xế chiều, tôi nghe anh Binh nh́ trưởng toán tiếp vận báo cáo bằng bạch văn lời cuối,
-“Thiếu Tá ơi! Tam Quái chắc tiêu ma đợt này rồi Thiếu Tá ơi!”
Sau đó tôi không c̣n nghe được ǵ nữa. Tôi thường gọi mấy anh Biệt Động Quân của Tiểu đoàn 82 giữ máy tiếp vận trên đỉnh Núi Lửa là “Tam Quái”. Chỉ v́ toán này gồm ba anh lính có tật, một anh cà thọt, một anh điếc, và một anh thong manh. Anh điếc nấu cơm, hai anh kia trực máy truyền tin. Những năm sau này, quân số thiếu hụt, những người có tật cũng bị bắt đi quân dịch, mà Biệt Động Quân lại thiếu người, nên rất dễ dăi vấn đề tuyển quân. Biệt Động Quân nhận tất cả quân nhân bổ sung từ bất cứ nguồn nhân lực nào. Chúng tôi được bổ sung quân số từ Trung Tâm Nhập Ngũ Số 3 chuyển qua BCH BĐQ QLVNCH, TTHLBĐQ Dục Mỹ, TTHL Lam Sơn, Đơn Vị 2 Quản Trị Địa Phương, Quân Lao, kể cả Lao Công Phục Hồi. Tôi không chê bất cứ ai tŕnh sự vụ lệnh về phục vụ đơn vị ḿnh. Thong manh, cà thọt, mẻ sứt, kể cả ma túy, ś-ke tôi nhận tuốt. Những quái nhân này ở tiểu đoàn tôi chỉ ít lâu sau đă thành những con người mới. Người nào có việc nấy, tôi cứ áp dụng lời khuyên của người chỉ huy cũ, Trung Tá Bùi văn Sâm,
“Viên đạn nào cũng bắn vào đầu địch.Chỉ cần người lính chịu bóp c̣ là được rồi. Xấu trai mà dám bóp c̣, c̣n hơn đẹp trai mà ra trận chưa nghe súng nổ, mắt đă láo liên. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn!”
V́ thế mà quân số tiểu đoàn tôi lúc nào cũng đông hơn tiểu đoàn khác. Lính cà thọt không chạy nhanh được, cho họ làm tiền đồn. Cà thọt đóng chốt th́ khỏi lo mất chốt. Lính thong manh, không canh gác được th́ cho trực truyền tin, nấu cơm. Lính điếc th́ cho tải đạn cối 81 ly, cối 60 ly, SKZ 57 ly. Lính điếc mà bắn cối hay SKZ th́ nhất! Điếc đâu cần bịt lỗ tai! Ś-ke nghiện ngập cũng dễ chữa thôi! Tôi lúc nào cũng dùng lời khuyến dụ êm ngọt trước, dùng vơ lực sau. Anh nào không nghe lời nhỏ nhẹ bỏ nghề chích choác th́ tôi mời vào connex nằm chơi. Ngày này qua ngày khác, chỉ có món nước đường do Thiếu úy Hoàng, Đại đội trưởng đại đội công vụ tiếp tế. Những ngày đầu thiếu thuốc, dân choác khổ sở, vật vă vô cùng. Dăm ba ngày sau quen dần, quen dần. Người nghiện nặng cách mấy cũng chỉ một tuần là phải từ giă ống chích, kim tiêm, khỏi bịnh! Theo lời dạy của cổ nhân,”Dụng nhân như dụng mộc”, tôi sắp xếp người của tôi vào công việc phù hợp với họ; trên dưới đề huề, thương nhau. Những năm sau cùng, không khí sinh hoạt trong đơn vị tôi (Tiểu đoàn 82 BĐQ) là thế đấy! Tin Tam Quái trên Núi Lửa bị mất liên lạc làm cả ban tham mưu tiểu đoàn buồn rầu.
Sáng 10/3/75, bộ chỉ huy liên đoàn báo cho tôi biết tin địch pháo kích vào tiền cứ Liên đoàn 24 BĐQ ở Ban Mê Thuột. Tiền cứ này nằm sát trại Thiết-Giáp trên đường đi Bản-Don. Thiếu Tá Hồng, chỉ huy tiền cứ đă bị thương. Sau đó là tin chiến xa VC bắt đầu tấn công vào trung tâm thị xă. Tin tức đứt đoạn v́ không có đài tiếp vận và tiền cứ liên đoàn đă mất liên lạc. Đêm đó đài BBC loan tin Ban Mê Thuột thất thủ. Tôi và cả ban tham mưu tiểu đoàn bàng hoàng, v́ hậu cứ cũng như gia đ́nh binh sĩ của tiểu đoàn tôi đều ở Ban Mê Thuột. Ngày 11/3/75 tôi nghe được tiếng Đại Tá Phạm duy Tất trên tần số. Ông Tất đang bay trên trời Ban Mê Thuột và gọi tôi. Tôi hỏi ông về địch t́nh, về phản ứng của Chuẩn Tướng Lê trung Tường. Đại Tá Tất buồn rầu trả lời,
-“Ông Tường không đủ sức ngăn chúng nó toa ơi! Bây giờ chỉ c̣n hy vọng thằng Dậu cố gắng cứu văn t́nh thế. Không biết có được hay không.”
Trung Tá Lê quư Dậu là liên đoàn trưởng Liên đoàn 21 Biệt động Quân. Ông Dậu mới lên chỉ huy liên đoàn được hai, ba tháng, thay thế cho Trung Tá Lang (Lang Trọc) vừa giải ngũ. Tôi cố nài nỉ ông chỉ huy trưởng,
-“Trường-An cho phương tiện bốc tôi về Ban-Mê-Thuột đi! Trường-An ơi! Vợ con tôi ở đó! Vợ con lính của tôi ở đó!”
Trường-An là danh hiệu truyền tin của Đại Tá Phạm duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Quân khu 2. Lúc đó tôi nghẹn lời, bên tôi người sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn, Trung úy Đăng mắt cũng đỏ hoe. Tôi tỉnh người khi nghe ông Tất hứa hẹn, “Rồi! Ta sẽ nói lại với Số 1 (Thiếu tướng Phú) để bốc Thái-Sơn về.” Thái-Sơn là tên riêng của tôi, tôi mang tên này từ khi c̣n phục vụ ở Tiểu đoàn 11 Biệt Động Quân, thời 1967-69.
Được lời như cởi tấm ḷng. Tôi quyết định rút trung đội tiền đồn của Đại đội 4/82 trên đồi Bù-Row cách 3 cây số hướng bắc về. Tôi cũng gọi sĩ quan đại đội trưởng một đại đội của Tiểu đoàn 63 Biệt động Quân đang tăng cường cho tôi lên gặp tôi. Tôi dặn ḍ anh kỹ càng những điều phải làm để pḥng thủ Ngă Ba Kiến-Đức thay cho Đại đội 1/82 BĐQ của Thiếu úy Nguyễn văn Học, nếu chúng tôi có trực thăng bốc đi. Tiếp đó tôi cho tiểu đoàn chuẩn bị hai ngày cơm vắt, vũ khí, đạn dược sẵn sàng. Sau khi lệnh chuẩn bị hành quân của tôi được thông báo tới mọi cấp trong đơn vị, tôi nghe tiếng bàn tán xôn xao trong các túp lều và bên giao thông hào. Niềm háo hức hân hoan lộ rơ trên những khuôn mặt sạm nắng. Những người lính gốc Rhadé, Jarai dưới quyền tôi đă lâu, nên qua nụ cười, ánh mắt của họ, tôi hiểu rằng lúc đó họ đang vui sướng vô cùng.
Suốt ngày 12/3/75, tôi không nghe tiếng Đại Tá Tất trên máy, nhưng tôi liên lạc được một phi công đang quan sát trên trời Ban Mê Thuột. Tôi nhờ anh ghi nhận và chuyển cho tôi những ǵ anh nh́n thấy dưới chân anh. Tôi mô tả con đường Hàm-Nghi cạnh nhà thờ Vinh-Sơn, là nơi gia đ́nh tôi cư ngụ và khu hậu cứ Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân. Sau hồi lâu quan sát, anh cho tôi biết rằng cả hai nơi đều nằm trong màn khói đen mù mịt. Buồn quá, tôi ngồi trước cửa hầm, ôm cây đàn guitar. Tay tôi chỉ bấm một cung Mi Thứ; tôi lần ṃ một bài t́nh ca buồn. Nhớ lại lần đầu, sáu năm trước, tôi và người bạn cùng đơn vị đi đón em gái anh ta lúc học sinh Trung Học Tổng Hợp Ban-Mê-Thuột tan trường. Sau đó mẹ tôi từ Hội An vào gặp bố mẹ cô ta. Mẹ tôi xin cô ta về làm dâu họ Vương. Bây giờ nàng đang bị kẹt trong vùng đạn lửa, một nách ba đứa con thơ, lại thêm bụng mang dạ chửa. Tôi ngồi thừ người trước cửa hầm trú ẩn của tiểu đoàn trưởng. Tôi không cảm thấy cái lạnh của sương đêm. Trời sáng lúc nào tôi không hay. Vừng dương bắt đầu le lói. Lại thêm một ngày. Bên tôi là những cây hoa móng tay. Mấy ngày rồi không ai tưới, hoa lá đă vàng vọt úa màu. Bên những cây hoa này, hai đứa con gái tôi đă đứng chụp h́nh. Con tôi cũng chỉ xấp xỉ cao cỡ những cây hoa đó. Sau Noël 1974, tôi đă đón vợ tôi và hai đứa con gái lớn lên tiền đồn này chơi vài ngày. Hai đứa bé suốt ngày chỉ quanh quẩn bên những cây hoa móng tay. Chợt những bông hoa móng tay trước mắt tôi như mờ dần đi. Một giọt nước mắt nóng rơi trên mu bàn tay. Đầu óc tôi phừng phừng. Hai bàn tay tôi xoắn vào nhau, giày ṿ lẫn nhau. Tôi muốn đập phá, la hét, kêu gào để trút bỏ niềm đau đớn, phẫn uất đang nung nấu tâm can. Nước mắt cứ tiếp tục lăn trên má, qua môi, xuống miệng. Tôi oán trách ông Trời. Tôi oán trách Đại Tá Tất. Tôi oán trách Tướng Tường. Tôi oán trách Trung Tá Dậu. Tôi tự oán trách tôi.
Chuẩn úy Lê văn Phước (ban 3) len lén đến bên tôi. Phước đưa cho tôi cái khăn bông ướt,
-“B́nh tĩnh lại Thiếu Tá! Đài BBC nói Ban Mê Thuột thất thủ rồi! Đánh nhau nhanh như vậy chắc là ít người chết. Nhà hai bác ở xa khu quân sự, hi vọng chị và các cháu không hề hấn ǵ.”
Cái khăn ướt làm mặt tôi bớt nóng. Tôi đứng lên bước hững hờ xuống khu pháo binh cũ, hướng bắc của bộ chỉ huy tiểu đoàn. Từ đây tôi có thể nh́n thấy một vùng rừng rậm xanh ŕ trải dài về hướng chân trời. Xa lắm, nơi chân mây hướng đông bắc là Ban Mê Thuột, nơi đó có gia đ́nh tôi, gia đ́nh của những người lính Kinh, Thượng, Jarai, Rhadé, Bana dưới quyền tôi.
Hai ngày dài buồn thảm nối tiếp trôi qua, tôi không nghe được tin tức ǵ của Ban-Mê-Thuột. Chiều 15 tháng Ba dân chúng từ buôn Bù-Binh hướng nam, nối đuôi nhau đi về Ngă Ba Kiến-Đức. Gùi sau lưng, con trước ngực, họ từng đoàn lếch thếch qua mặt đồn tôi đóng, để về Nhơn-Cơ. Không rơ v́ lư do ǵ, gần tối đoàn người dội ngược trở lại. Tôi cho đám dân tị nạn này tạm nghỉ qua đêm trong cái nhà tranh Câu Lạc Bộ của tiểu đoàn, sát chân đồi, bên lề đường.
Sáng sớm 16/3/75, trung đội tuần đường của Đại đội 1/TĐ 82 BĐQ vừa tới đầu khúc cua chữ “S” cách Kiến-Đức hơn 3 cây số th́ đại liên 12,7 ly choang choác nổ ḍn. Ông Thượng Sĩ Y Ngon Near bị pḥng không bắn chết nơi đầu dốc. Trung đội tuần đường tháo chạy ngược về hướng Kiến- Đức. Từ giờ này đoạn tỉnh lộ Kiến-Đức, Nhơn-Cơ bị cắt. Xác ông tiểu đội trưởng Y Ngon Near bị bỏ rơi nằm ch́nh ́nh giữa lộ. Ngay lúc đó pháo địch từ hướng tây bắc nă khoảng gần 100 viên đại bác 105 ly trên đồi Kiến-Đức. Lúc đạn địch rơi, tôi đang thăm khu dân tỵ nạn để hỏi han họ lư do tại sao họ không về Nhơn-Cơ chiều hôm trước. Bây giờ th́ rơ ràng rồi: địch chặn đường! Lúc này Thiếu Tá Hoàng đ́nh Mẫn, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 81 BĐQ báo cáo rằng chiến xa địch đang từ hướng Phước Long tiến về Bù Binh, nơi ông đang đóng quân. Liên đoàn cho lệnh ông Mẫn rút về với tôi. Tối đó Tiểu đoàn 81/BĐQ được tôi chia cho phần nhiệm vụ pḥng thủ mặt đông Ngă Ba Kiến-Đức, án ngữ hướng về Nhơn-Cơ. Đêm 16/3/75 Trung Tá liên đoàn trưởng ra lệnh cho Thiếu Tá Mẫn nỗ lực vượt qua nút chặn của Cộng Quân để về pḥng thủ quận Nhơn-Cơ.
Suốt ngày 17/3/75, đạn 12,7 ly nổ rền trời nơi khúc quanh có xác Thượng Sĩ Ngon. Tiểu đoàn 81 BĐQ không tiến được bước nào. Đêm xuống, con cáo già khóa 2 Đồng-Đế, Hoàng đ́nh Mẫn cho đơn vị chui ḷn trong rừng, đánh một ṿng rộng về hướng nam, xa hẳn vùng Việt-Cộng đóng chốt để t́m đường vào phi trường Nhơn-Cơ. Ông Mẫn đă khôn khéo tránh né đụng độ, và đă hoàn thành nhiệm vụ bắt tay được Thiếu Tá Khánh, quận trưởng Kiến-Đức ở căn cứ Nhơn-Cơ buổi sáng ngày hôm sau.
Mờ sáng 18/3/75, súng cối 82 ly của địch từ hướng tây lại tái pháo kích vào BCH TĐ 82 BĐQ. Từ tuần lễ nay, đồi Bù Row bỏ ngỏ. Địch đă quay lại chiếm lĩnh cao điểm này. Từ đây, DKZ 75 của chúng liên tục đánh phá khu trung tâm đồi chỉ huy của tiểu đoàn. Thêm vào đó, đạn đại bác 105 ly từ đằng xa phía bắc, nă không ngừng trên nửa ngọn đồi hướng bắc, nơi những ụ súng pháo binh đă bỏ hoang từ khi pháo đội 105 ly của SĐ 23 BB rút đi. Tôi phải bỏ cái hầm chỉ huy đă sập, rồi tụt xuống ngă ba Quốc lộ 14. Tôi dùng một cái hầm nhỏ của Đại đội 1/82 bên đường làm hầm chỉ huy. Tôi không cho lệnh phản pháo tức thời như vẫn làm thường lệ khi bị địch pháo kích. Tôi cùng toán hộ tống chạy thẳng lên đỉnh ngọn đồi hướng tây do Đại đội 2/82 trấn giữ. Từ đây tôi có thể chấm chính xác 3 vị trí cối 82 ly và nơi phụt khói 75 ly của địch. Tôi cho trung đội Pháo binh Biên-Pḥng đang ở với tôi và Pháo binh Diện Địa Nhơn Cơ mười phút để lột vỏ 400 quả đạn và chuẩn bị yếu tố tác xạ trên bốn vị trí tôi đă chấm. Đại đội 2/82 được lệnh di chuyển tiến đánh hai khẩu cối 82 ly đặt gần, ngay sau lưng một ngọn đồi trọc hướng tây. Đại đội 2/82 đang thiếu đại đội trưởng. Sau Tết Âm Lịch vài ngày, Trung úy Danh (k24 VB) bị sốt rét đi nằm nhà thương nên Đại đội 2/82 tạm thời do Chuẩn úy Gấm cầm đầu. Trung úy Đăng xin tôi cho anh chỉ huy Đại đội 2/82 trong lần ra quân này.Tôi ái ngại,
-“Chú nghĩ sao mà xin đi đánh cú này?”
-“Vợ con em ở hậu cứ. Hậu cứ mất rồi. Em c̣n ǵ đâu? Thiếu Tá cho em trở lại đại đội cho quên chuyện gia đ́nh.” Đăng nghẹn ngào,
-“Ừ! Cậu đă muốn thế th́ tôi cũng okay! Thôi đi đi!” Tôi tần ngần,
Tôi đứng trên đồi nh́n theo bóng dáng cao gầy của Đăng đang lẫn vào rặng cây xanh. Hồi 1969-70, khi tôi c̣n làm Ban 2 và Trinh Sát Liên đoàn 2 BĐQ th́ Chuẩn úy Đăng là trung đội trưởng ở Tiểu đoàn 22 BĐQ dưới quyền một anh bạn cùng khóa của tôi. Khi tôi nhận chức Tiểu đoàn trưởng TĐ82 BĐQ th́ Đăng đang là Trung úy đại đội trưởng của Tiểu đoàn 22 BĐQ. Khi đó anh có gặp và xin tôi nhận anh về làm việc với tôi. Tôi từ chối v́ đơn vị tôi đă đủ sĩ quan đại đội trưởng. Sau đó Đăng bị thương; anh bị đứt một khúc ruột, chờ ra hội đồng y khoa để chuyển sang bộ binh, thương binh loại 2 yểm trợ. Đăng lại gặp tôi và t́nh nguyện làm sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn cho tôi để anh c̣n được tiếp tục ở lại phục vụ binh chủng Biệt Động Quân. Lần này tôi chấp thuận. Đăng xin xuất viện về làm việc dưới quyền tôi đă được gần một năm.
Khi cánh quân của Đại đội 2/82 báo cáo c̣n cách mục tiêu gần hai trăm mét th́ tôi cho lệnh pháo binh khai hỏa. Đạn đi! Mỗi mục tiêu một trăm quả hỗn tạp. Và chỉ năm phút sau khi đạn rơi, tiếng M16 nổ rộ như pháo ran chêm vào là những tiếng M 79. Khói súng và bụi che mờ một nửa ngọn đồi. Thoáng chốc, hai khẩu cối 82 ly đă đổi chủ, từ trung đoàn E 271/T10 của QK6/CSBV sang Đại đội 2/TĐ 82 BĐQ. Tôi chợt nghe AK và đại liên nổ rền trong thung lũng. Tôi hỏi Đăng,
-“Ê! Delta! ngoài tiếng AK c̣n tiếng đại liên. Đại liên của cậu hay của địch vậy?”
-“Của tụi nó đó Thái Sơn! Em đâu có đem theo M 60!”
-“Delta đây Thái Sơn! Cuốn gói! Đừng về đường cũ! Hăy theo hướng ba ngàn hai trăm! Tôi với thằng An B́nh đón cậu trên đường. Tôi lập lại! Ba ngàn hai trăm! Nghe rơ chưa?” Tôi cho lệnh Đại đội 2/82 rút lui,
-“Ba ngàn hai! Nhận 5!”
Nếu trở về đường cũ th́ Đại đội 2/82 sẽ phải qua một cái thung lũng. Và hai khẩu đại liên địch không để cho họ dễ dàng rút về an toàn trên đoạn đường gần 2 cây số rừng lau. Đại liên địch cứ nổ ḍn, đạn lửa đan chéo nhau trong thung lũng. Tôi nghĩ địch bắn hoảng bắn tiều chứ chúng chẳng rơ BĐQ đang ở chỗ nào. Tôi chấm vị trí hai khẩu đại liên địch và giao cho Đại Úy Ngũ văn Hoàn, Tiểu đoàn phó. Ông Hoàn và Thượng Sĩ Năng, trưởng khẩu 81 ly sẽ rót cối vào đầu chúng! Từ hướng bắc, đạn đại bác 105 ly địch lại rơi tới tấp trên đồi chỉ huy của tiểu đoàn. Với đại bác 105 ly th́ vô phương! 105 ly của khối Cộng đă bắn dài hơn 105 ly của ta, mà súng của ta lại đặt sau hậu quân. Hai khẩu 155 ly của Sư đoàn 23 Bộ Binh tăng cường cho tôi đă bị tiểu khu đ̣i lại từ hai tuần lễ trước. Hiện thời, không súng nào của tôi với tới được vị trí súng của chúng. Thôi! Cứ để cho nó tác oai tác quái, chưa hề hấn ǵ!
Nửa giờ sau tôi và An B́nh (Trung úy Trần văn Phước, ĐĐT/ĐĐ3/82) cùng một trung đội thuộc Đại đội 3/82 tiếp xúc được cánh quân đầu của Trung úy Đăng. Đại đội 2 đă hoàn tất nhiệm vụ mà không bị tổn thất nào. Thẩm quyền Delta là một trong những người đi đoạn hậu của Đại đội 2/82 . Tôi thấy Trung úy Đăng vừa thở, vừa cười h́ h́ khi leo lên mặt Quốc lộ 14. Vừa gặp mặt tôi Đăng đă oang oang,
-“Có ngay hai khẩu 82 cho Thái Sơn đây!”
Sau lưng Trung úy Đăng là hai anh lính Thượng đang h́ hục vác 2 cái ṇng 82 ly. Hai người lính Jarai hớn hở khoe,
-“Cái ông Thiếu Tá ơi! Tụi Việt Cộng này đánh dở lắm! Chưa chi đă bỏ súng mà chạy! Dở hơn mấy thằng đánh với ḿnh ở Trà-Ku nhiều!”
-“Mấy hôm nữa tụi ḿnh lại về Trà-Ku. Mấy chú có nhớ Trà-Ku không?” Tôi cười,
Người dân tộc Jarai gọi Pleiku là Trà-Ku. Tôi ở Pleiku lâu rồi, tuy không nói được tiếng Jarai nhưng nghe biết nhiều tiếng thường dùng của họ. Khi nhắc tới Trà-Ku, không ai cố ư khơi chuyện buồn. Nhưng bỗng nhiên thày tṛ chúng tôi cùng ngước nh́n nhau, rồi cùng nh́n về phương bắc, rưng rưng…
Hướng Nhơn-Cơ có chạm súng, v́ ở cuối gió nên tôi nghe rơ tiếng đạn đại liên và đạn cối nổ đ́ đùng. Trên máy truyền tin có giọng Thiếu Tá Khánh, chi khu trưởng Nhơn-Cơ và Thiếu Tá Mẫn BĐQ gọi nhau. Thiếu Tá Mẫn báo cáo với bộ chỉ huy liên đoàn rằng Cộng Quân đang tấn công vào khu xưởng cưa cách quận Nhơn-Cơ hai trăm mét về hướng đông. Hai khẩu 105 ly Biên pḥng của tôi phải trở ngược ṇng về hướng đông, yểm trợ cho Thiếu Tá Mẫn suốt đêm. Sáng hôm sau có nhiều phi tuần A 37 đánh tiếp cận cho quận Nhơn-Cơ. Cuộc giao tranh có vẻ kéo dài cầm chừng cho tới trưa 19 tháng Ba.
Trong khi đó th́ t́nh h́nh vùng tôi chịu trách nhiệm cũng có nhiều chỉ dấu đang biến chuyển. Nửa đêm về sáng chúng tôi thấy nhiều đốm lửa di động vùng nam Kiến-Đức, có cả tiếng động cơ. Những toán chống tank đă được gởi đi nằm phục trong rừng. Ở đây, tôi không ngán tank VC một chút nào, v́ tôi đă trấn giữ cái đồn này gần nửa năm. Tôi đă nghiên cứu, thám sát và nắm chắc địa h́nh vùng này. Chỉ có hai hướng xe tank có thể áp sát đồn Kiến- Đức. Cả hai ngả đều có băi ḿn chống tank của tôi. Mỗi băi chôn bốn mươi quả ḿn đĩa. Mỗi quả ḿn đĩa được kèm theo một đầu đạn 105 ly. Quan trọng nhất là việc bảo vệ băi ḿn. Băi ḿn không người bảo vệ coi như vứt đi, vô dụng. Kinh nghiệm trong quá khứ, tháng 8 năm 1973 khi nhảy toán Biên Vụ (Viễn Thám) vùng đông căn cứ Plei Djereng tôi đă thấy xe tank địch chạy phoong phoong trên băi ḿn của Quân đoàn 2 đặt gần Plei De Chi hướng tây Pleiku mà chẳng nghe ḿn nổ. Công Binh Quân đoàn 2 đă bỏ công sức hàng tháng trời để thiết lập băi ḿn chống tank này. Vậy mà sau đó nó bị bỏ thí, không người canh gác. Công binh VC chỉ cần hai hàng bangalore là mở được một hành lang rộng cho tank đi qua. Ở Kiến-Đức, mỗi băi ḿn chống tank của tôi, khi hữu sự được bảo vệ bằng một đại đội BĐQ. Đại đội này không có nhiệm vụ đánh tank mà đánh những tên cán binh đi ḍ, dọn đường cho tank.
Sáng 20/3/75, Trung Tá liên đoàn trưởng ra lệnh cho tôi bứt cái chốt của VC trên tỉnh lộ 344 để link-up với một đại đội thuộc TĐ63/BĐQ của Thiếu Tá Trần đ́nh Đàng. Đại đội này đang trấn giữ một ngọn đồi bên cái cống xi măng trên tỉnh lộ. Tôi thu Đại đội 4/82 của Thiếu úy Trần văn Thủy từ hướng bắc về hợp lực với đại đội của TĐ63/BĐQ tăng phái để giữ đồn Kiến-Đức. Tôi dặn ḍ Đại Úy Tiểu đoàn phó về sự quan trọng của hai băi ḿn chống tank. Bất cứ giá nào cũng phải giữ. V́ nếu tôi đang đánh nhau ở phía trước, mà bị tank địch tập kích từ đàng sau th́ không tài nào trở tay. Đại Úy Hoàn chần chừ một lúc rồi găi đầu xin tôi cho đi nhổ chốt,
-“Thái Sơn cho tôi đi khai thông con đường có được không?”
Quả thực, từ xưa tới nay (từ đại đội tới tiểu đoàn) tôi chưa bao giờ xử dụng người phụ tá của ḿnh làm nỗ lực chính bao giờ. Nhiệm vụ của những ông phó cho tôi là yểm trợ cho tôi, và sẵn sàng thay thế tôi, nếu tôi nằm xuống. Đại Úy Ngũ văn Hoàn đă phục vụ dưới quyền tôi gần nửa năm. Ông chỉ thuần túy làm công việc yểm trợ chứ không bị tôi đưa lên tuyến đầu lần nào. Thấy tôi ngần ngừ, ông ta nài nỉ,
-“Giữ đồn nặng hơn bứt chốt. Thái Sơn cho tôi đi bứt chốt đi!”
Nghe ông nói có lư, tôi gọi hai đại đội trưởng trách nhiệm nhổ chốt là Trung úy Phước (ĐĐ3/82) và Trung úy Đăng (ĐĐ2/82) lên dặn ḍ, chỉ bảo họ đường đi, nước bước, cách đánh nào thích hợp nhứt trong t́nh huống này. Bộ chỉ huy nhẹ TĐ 82/ BĐQ của Hoàng Long (Đ/úy Hoàn) cùng hai đại đội tác chiến lên đường lúc 10 giờ sáng 20 tháng Ba.
Trong khi tôi đang theo dơi diễn tiến hành binh của Đại Úy Hoàn th́ tổ báo động hướng Bù-Binh báo cáo có tiếng xe tank địch. Để tiện quan sát, tôi lại cùng toán hộ tống leo lên đỉnh đồi Tây, nơi Thiếu úy Trần văn Thủy (ĐĐT/ĐĐ4/82) trấn giữ thay cho Đại đội 2/82 đang đi nhổ chốt. Từ đỉnh đồi tôi có thể quan sát tới khúc quanh nơi cái cống sập cách Kiến-Đức gần hai cây số. Khẩu SKZ 57 ly của tiểu đoàn lúc nào cũng sẵn sàng trên đỉnh đồi Tây. Ống nhắm của khẩu súng đă điều chỉnh chính xác ngay cái cống sập. Nếu SKZ bắn hụt th́ tổ chống tank núp sẵn trên triền đồi sẽ làm nhiệm vụ tiếp tay. Khi thằng Thọ (B2 Thọ nấu cơm) trao ly cà phê cho tôi vừa trở gót xuống đồi th́ tiếng 12,7 ly nổ rền hướng Nhơn-Cơ. Lúc đó là giữa trưa. Máy truyền tin các cánh quân của Đại Úy tiểu đoàn phó gọi nhau cuống quưt. Tôi nghe Delta và An B́nh báo cáo đang chạm địch nặng. Delta đang bị đại liên địch dồn xuống khe suối bên trái đường lộ. Delta yêu cầu An B́nh giữ an ninh bên phải dùm anh ta để anh ta rút về con dốc đầu chữ “S”. Chuẩn úy Đức và trung đội đi đầu của
Chương 2.
Nhảy lên chiếc xe Jeep, tôi phóng nhanh tới cái nút chặn hướng đông của Đại đội 1/82. Từ đây tôi và toán cận vệ chạy bộ lên chỗ Đại đội 3 và Đại đội 2 đang chạm địch. Quân của Trung úy Phước (ĐĐ3/82) đang nằm trong rừng, bên phải lộ. Phước chiếm được ngọn đồi cao, nằm dài theo hướng đông tây. C̣n Trung úy Đăng ở bên trái con đường. Đại liên VC từ hai hướng nam bắc con lộ đang bắn tới tấp vào bên trái dốc chữ “S” nơi đơn vị của Trung úy Đăng bị sa lầy. Đại đội của Đăng đang kẹt trong rừng khọt (cây dầu rái) lơ lửng giữa con suối và con đường. Tôi gọi pháo binh và cối 81 bắn cản trước mặt đại đội của Đăng để đơn vị của anh ḅ từ từ lên cao, bắt tay với Đại đội 3/82. Khi Đại đội 2 bắt tay được Đại đội 3, tôi ra lệnh cho hai đại đội quây tṛn trên đỉnh đồi bên phải tỉnh lộ. Tôi xử dụng pháo từ Kiến-Đức bắn ngay mặt lộ để ngăn địch truy kích. Nhưng tiếng súng của địch đă êm. Như thế là chúng không chủ tâm giao chiến, hoặc chúng chưa có lệnh giao chiến với TĐ 82/ BĐQ. Chỉ nh́n thoáng qua trận địa, tôi đă hiểu ngay chủ đích của địch là nhử quân ta tiến sát khu chữ “S” rồi chúng dùng hai khẩu 12,7 ly kềm chân quân ta. Sau đó bộ binh địch bao vây chia cắt hậu quân của ta. Bao vây chia cắt là chiến thuật cổ điển, nhưng rất hữu hiệu khi chặn đánh một đoàn quân đang khai lộ. Trung úy Đăng báo cáo với tôi rằng khi đơn vị anh c̣n cách cái xác của Thượng Sĩ Ngon chừng một trăm thước th́ đại liên địch khai hoả. Đại Úy TĐP hăng hái xông lên với trung đội đi đầu của Đại đội 2/82. Ông Hoàn nói với Đăng,
-“Kỳ này ḿnh lấy cây 12,7 ly về cho Thái Sơn giải buồn!”
Nhưng chỉ năm phút sau, từ con suối bên trái trục tiến quân, địch vừa bắn vừa ào ạt xung phong lên cắt đơn vị anh thành ba phần. Trung đội đi đầu của Chuẩn úy Đức bị mất liên lạc. T́nh trạng của Đại Úy TĐP không biết ra sao.
Xế trưa, tôi áp dụng cách rút sâu đo, cho quân lui từ từ về hướng Kiến-Đức. Chiều đó chúng tôi mới về tới tiếp điểm của Đại đội 1/82. Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày tôi nghe tiếng Hoàng Long trong tần số nội bộ của Delta. Ông tiểu đoàn phó nói rất nhỏ, có lẽ ông ta đang bị địch bám sát,
-“Tôi đi với đứa con đầu của thằng Delta. Tôi bị đánh bọc hậu mất liên lạc với đàng sau. Hiện tôi ở trên triền một ngọn đồi hướng bắc con đường, nhưng không xác định được tọa độ. Chúng nó (VC) đang đuổi theo tôi.”
– ” Rồi! B́nh tĩnh! Anh c̣n bao nhiêu người cho tôi biết đi?”
– “Tôi c̣n sáu chục người!”
– “Sáu chục th́ đủ mạnh để đánh mở đường về với tôi rồi. Cứ hướng bốn ngh́n tám trăm mà phóng đi! Càng nhanh càng tốt! Giữ liên lạc với tôi!”
Có tiếng bấm ống nghe “xẹt!xẹt!” rồi tiếng Hoàng Long th́ thào,
-“Thái Sơn ơi! Tôi c̣n có sáu người thôi! Tôi ngụy thoại thành sáu chục đó (!) Tôi với năm thằng lính của Delta là sáu. Tụi tôi bị chúng nó (VC) cắt ngang từ phút đầu. Cái máy này là của trung đội đầu của thằng 2″
Thực là dở khóc, dở cười. Tuy vậy tôi cũng an tâm là ông Hoàn vẫn c̣n sống. Tôi ôn tồn,
“Thôi được rồi! Bây giờ làm theo tôi chỉ. Đi thẳng hướng sáu ngh́n tư cho tới con suối hướng bắc ngọn đồi anh đang đứng. Sau đó quẹo trái, ngược ḍng con suối đi riết về hướng tây. Hết suối là về tới chỗ tôi. Làm ngay đi!”
– “Tôi nghe 5! Thái Sơn nhớ báo cho tụi thằng Hồng Hà (Thiếu úy Học) tránh ngộ nhận tôi đó nhe!”
– “Ừ! Thôi! Lẹ lên!”
Từ đồn Kiến-Đức, Thiếu úy Thủy báo cáo rằng, nơi cái cống sập, chiếc tank từ hướng Bù-Binh ḅ lên đă hiện nguyên h́nh là cái máy cày cài cành lá ngụy trang. Ba tên cán binh VC trên xe, đă vứt xe, nhảy xuống đường định chạy thoát thân khi trái hỏa tiễn XM 202 xé nát đầu chiếc máy cày. Hai băng M16 đốn ngă 3 tên giặc. Ba khẩu AK 47 và một khẩu pḥng không 12,7 ly cháy theo chiếc xe tank dỏm. Chiếc xe máy cày bị bắn cháy đă trở thành chướng ngại vật cản trở xe tank nằm giữa đường Bù-Binh, Kiến-Đức.
Gần tối hôm đó Đại Úy tiểu đoàn phó và năm người lính theo ông về tới tiền đồn bắc của Đại đội 1/82. Trước đó vài phút, trung đội của Chuẩn úy Đức chui ra khỏi rừng hướng nam con lộ và liên lạc được toán tiếp đón của Đại đội 1. Người mang máy PRC 25 cho Đại Úy Hoàn có mặt trong trung đội của Chuẩn úy Đức. Cái máy truyền tin của ông tiểu đoàn phó đă bị bắn bể từ phút đầu tiên. Tính tới 5 giờ chiều, Đại đội 2/82 c̣n thiếu 14 người. Đêm xuống, sương mù dày đặc, trăng thượng tuần có cũng như không. Các tiền đồn không dám gài ḿn bẫy v́ sợ quân bạn thất lạc trở về vướng bẫy. Gần sáng, Trung Tá liên đoàn trưởng cho lệnh tôi bỏ Kiến-Đức, t́m mọi cách rút về Nhơn-Cơ.
Sáng 21/3/75, tôi chuẩn bị đánh một trận nhổ chốt thần tốc. Tôi xin pháo binh của tiểu khu một hỏa tập thu gọn trong ô vuông mỗi chiều một cây số từ đầu tới cuối khúc đường chữ “S”. Pháo 105 ly Nhơn-Cơ bắn không ngừng từ khi tôi xuất quân, và chỉ được phép chấm dứt khi tôi yêu cầu. Về phần pháo binh Biên Pḥng Kiến-Đức th́ 500 quả đạn nổ 105 ly được chất lên xe. Hai khẩu đại bác được hai toán BĐQ đẩy bằng tay di chuyển trên hai bên b́a đường. Đại bác trực xạ ngay sát mép rừng hướng trước mặt. Quả đạn sau nổ chỉ cách quả đạn trước hai chục thước. “Đùng! Đoàng!” “Đùng! Đoàng!” ra khỏi ṇng một, hai giây là đạn nổ. Khẩu súng bên trái bắn vào rừng bên phải. Khẩu bên phải bắn vào rừng bên trái. Sở dĩ phải bắn như thế v́ bắn mục tiêu ở bên lề đường đối diện dễ hơn bắn mục tiêu cùng phía với súng. Cứ thế, “Đùng! Đoàng!” hai họng đại bác thay nhau tiến lên, bắn liên tục . Đàng sau lưng tôi là khẩu 81 ly của tiểu đoàn và bốn khầu 60 ly của các đại đội. Tôi cho cối 81 ly bắn đạn thời nổ chậm (delay) trong khi cối 60 ly bắn đạn chạm nổ. Tầm bắn di động từ gần ra xa dần theo hướng tiến quân. Sau mỗi đợt pháo, tầm xa tăng lên một ṿng tay quay. Tiếng cối depart “kinh! kinh!” liên hồi kỳ trận, âm vang dội trong khe núi. Đạn cối nổ “ùm! ùm!” Cây cành găy răng rắc. Mưa đạn cối đang rơi hai bên đoạn đường ngắn ngủi hơn một cây số rừng rậm. Thêm vào đấy là tiếng đại liên, trung liên, M79, lựu đạn, và tiếng quân ta reo ḥ, la hét. Khói và bụi cuồn cuộn trước mặt. Biệt Động Quân hàng ngang trong rừng, song song với hai khẩu đại bác ngoài đường. Những người lính miệng hô “Biệt Động! Sát!” vừa bước tới, vừa bóp c̣. Quân đàng trước vừa hết đạn th́ dừng lại, thay băng đạn mới; quân đàng sau lên thay, tiếp tục vừa bắn vừa tiến. Người th́ thay phiên nhau bắn, nhưng đạn không ngừng nổ rền trời. Theo thế sâu đo, Biệt Động Quân tiến ào ào, khí thế như nước vỡ bờ. Đây là một trận đánh chớp nhoáng nhưng lại rất thảnh thơi, thoải mái, lớp lang. Mỗi cánh quân hai bên đường có sáu toán an ninh cạnh sườn. Sáu toán trang bị ḿn Claymore và M79 bắn đạn chài, đạn nổ, làm nhiệm vụ chống bao vây chia cắt. Gặp đường ṃn, triền dốc, những toán này dừng lại gài ḿn bố trí chờ. Ra quân lần này tôi đă tận dụng tất cả hỏa lực có trong tay đánh phủ đầu không cho địch kịp ngóc lên thở. Khẩu 12,7 ly VC bên hướng nam con lộ chỉ bắn được vài viên là câm họng.
Đúng như tôi đă dự đoán. Khi quân của tôi vừa chạm đỉnh dốc đầu chữ “S” nơi cái xác của Thượng Sĩ Ngon đang bốc mùi, th́ hai khẩu pḥng không VC đặt trong khu mả của dân Thượng bên trái đường khai hỏa. Lập tức, khẩu 105 ly di động bên phải đường tương hai quả khói trắng về hướng nghĩa địa Thượng để che bớt tầm quan sát của xạ thủ địch . Hoả tập pháo binh trên mặt đường chữ “S” được chuyển xạ sang khu mả Thượng. Đạn 105 ly nổ “Oành! Oành!” trên khu ngă ba đường xe be. Dưới khe bên trái lộ, ḿn Claymore bắt đầu nổ. Ba toán BĐQ ngăn chặn lực lượng bao vây chia cắt đă phát giác địch và cho ḿn nổ. Những chuyên viên của chiến thuật bao vây chia cắt CSBV đang gặp khắc tinh! Hôm nay các mũi xung kích chia cắt của VC chưa kịp phóng viên B40 nào, các xạ thủ B40 đă vỡ sọ. Tiếng rên la đau đớn, tiếng quát tháo chửi bới lẫn nhau om x̣m dưới khe suối bên trái con lộ. Tiếng Bắc xen Nghệ Tĩnh. Lúc này đạn M 79 của ta bắt đầu tới tấp câu xuống khe. Tôi đang chỉnh 105 ly trên trục nghi ngờ có khẩu pḥng không di động của địch th́ trong tần số hỏa yểm nghe có tiếng người gọi tôi từ trên trời,
-“Thái Sơn cho mục tiêu, tôi phụ một tay! Bắc B́nh mới xin tôi lên làm việc với Thiếu Tá đây!”
Bắc B́nh là ông Thiếu Tá Trần văn Bường (k18 VB), Tham mưu phó hành quân của Tiểu Khu Quảng-Đức. Tiếng nói trong máy hỏa yểm là tiếng nói quen thuộc của một hoa tiêu L19 mà trong nửa năm hành quân ở đây, tôi đă nhiều lần ngồi ghế sau anh ta, bay bao vùng khu vực Nhơn-Cơ , Kiến-Đức. Tôi và anh phi công này đă nhiều lần đánh phối hợp rất ăn khớp và tương đắc. Tôi hướng dẫn để anh phi công quan sát cái nghĩa địa Thượng nơi ngă ba đường xe be. Tôi nhờ anh triệt hạ giùm hai khẩu pḥng không di động đang trụ ở điểm này. Tôi sơ lược t́nh h́nh bạn địch cho anh ta rơ. Hướng đề nghị cho máy bay oanh tạc ra vào là Nam-Bắc, v́ quân tôi tiến theo trục Tây-Đông. Chiếc L 19 đảo sát ngọn cây một ṿng. Khẩu pḥng không đổi góc bắn lên trời, đuổi theo đuôi chiếc L 19.
-“Okay! Tôi thấy rồi! Một cái xe ḅ cài lá ngụy trang có khẩu pḥng không. Tôi chơi ngay!”
Một trái khói phụt xuống sát bên khu mả Thượng.
-“Được chưa? Thái Sơn!”
-“Được rồi! Cứ từ đó dài về hướng 360 độ là địch, đánh tự do!”
Sau câu trả lời “Okay! Do!” chiếc quan sát cơ bay tránh sang hướng đông. Tôi che mắt t́m những chiếc máy bay oanh tạc. Trời trong xanh. Có hai chiếc A 37 đang lượn rất cao. Hai chiếc tàu lấp lánh trong nắng. Hai chiếc tàu nhỏ tí ti. Tiếng rè rè từ A 37 “Bom đi! Pass số 1! Chỉnh!” Tôi trả lời, “Nhận!” Tôi trả lời “nhận”, nhưng tôi phải che mắt để quan sát xem bom tới từ hướng nào. Đời tôi đă có hàng trăm lần được không quân Mỹ, Việt yểm trợ tiếp cận. Đây là lần đầu tiên tôi thấy máy bay yểm trợ cho tôi đă thả bom ở tầm cao quá sức là cao. Có lẽ bom được thả từ trên cao độ mười ngàn bộ (feet) có dư! Mắt tôi thấy một chấm đen từ trên thăm thẳm hướng đông đang bay về phía ḿnh. Chấm đen tới gần, nó vẫn giữ h́nh thù một cái chấm. Bom tới sát lắm rồi, mà vẫn chỉ là cái chấm! Thôi bỏ mẹ! Bom bay mà chỉ thấy một cái chấm, không thấy chiều dài của nó tức là nó đang nhắm vào đầu ḿnh rồi! Tôi la thất thanh, “Nằm xuống! Nằm xuống!” Vừa xô thằng Bích xuống cái rănh khô bên đường, tôi vừa nói với người phi công trên A 37,
-“Sáng nay anh đă giết một tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân rồi đó! Anh ơi!”
Tôi chỉ kịp nằm úp mặt trên đường nhựa th́ quả bom đă chạm đất. “Ầm!” Bụi, đất, sỏi, đá, cây cối bay tung, phủ trùm một vùng. Quả bom rơi cách tôi và khẩu đại bác đi đầu chừng chục mét. Nó rơi ngay trên cạnh bắc của con đường, sát bờ suối, đàng sau một mô đất. Mô đất cao hơn đầu người và cây cối mọc trên đó đă bị sức công phá của quả bom dọn sạch ngay sau tiếng “Ầm!” vừa rồi. Chưa rơ tổn thất quân bạn ra sao, chưa rơ chính tôi có bị thương hay không, tôi quơ cái máy truyền tin, “Check Air! Check Air!” Tôi nghe anh phi công L19 đang cự nự anh phi công A 37, “Đ.M! Toa làm ăn như con c…c!” Rồi anh hỏi tôi:
-“Sorry! Sorry! Thái Sơn có sao không?”
-“Cám ơn anh! Thôi! Cho họ về đi! Tôi không cần họ nữa!”
Tôi ném cái ống nghe của máy không lục xuống đường. Đoàn người ḿnh mẩy đầy đất cát lồm cồm đứng dậy. Không kịp phủi bụi trên đầu tóc, họ tiếp tục chuyển đạn, nạp đạn, giựt c̣. “Đùng! Đoàng!” Chỉ một khẩu đại bác bên trái đường c̣n nguyên vẹn. Khẩu súng bên phải đường bị mảnh bom đánh xẹp bánh. Một người chết v́ quả bom. Binh nh́ Đức Điếc bị vỡ sọ. Xác của Đức Điếc được kéo sang lề đường để tạm trên cỏ. “Đùng! Đoàng!” Tiếp tục! C̣n một khẩu, ta chơi theo một khẩu! “Tiến lên đi! Anh em ơi! Biệt Động! Sát!
Toán viễn thám của Hạ sĩ Mom Son và toán viễn thám của Binh nhất Lê văn Tuấn được gom lại thành một đội xung kích. Họ vượt suối, băng ngược lộ tŕnh rút lui của ông tiểu đoàn phó ngày hôm qua. Khi tới điểm hẹn, Hạ sĩ Mom Son xin tôi ngừng tác xạ pháo binh trên khu mả Thượng. Rồi M72 nổ. Tiếp đến là M16. Sau cùng là lựu đạn. Bẵng đi một lúc, có tiếng Mom Son reo trong máy,
-“Báo cáo Thái Sơn xong rồi! Hai cây pḥng không. Một trên xe ḅ, một trên g̣ mả. Tụi tui chờ Thái Sơn nơi ngă ba.”
Đoạn giữa cái eo chữ “S” là nơi địch đắp mô. Lá cờ nửa xanh nửa đỏ, sao vàng của Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam đă rách tả tơi nhưng c̣n bay phần phật bên lộ. Đại đội 1/82 ào lên. Đạn của ta réo như mưa băo. Từ b́a rừng bên phải đường, một tên VC có lẽ là cấp chỉ huy, nhảy ra giữa đường, tay nó giơ cao khẩu K 54 bắn chỉ thiên.
-“Các đồng chí! Giữ vững…”
Hắn chưa hô dứt câu th́ thân h́nh hắn đă gập xuống; khẩu K54 rơi trên mặt đường; đạn ghim kín người hắn. Từ ven rừng phía nam con lộ, nhiều cán binh VC phóng nhanh qua đường t́m cách nhào xuống suối. Súng cứ nổ ṛn ră, hiệu lệnh của cuộc hành quân hôm nay là “Giết!” Bất cứ cái ǵ nhúc nhích trước mặt đều là mục tiêu. “Giết!” Hôm nay chúng tôi xuất quân với tất cả ḷng căm thù. Chúng tôi đă tiến tới cuối đoạn cua chữ “S” hướng đông. Đại đội của Tiểu đoàn 63 BĐQ trấn giữ ngọn đồi trên tỉnh lộ gần con suối Nhơn-Cơ thấy hỏa lực của chúng tôi kinh khủng quá, họ sợ chúng tôi ngộ nhận bắn càn nên họ bỏ vị trí rút về bên kia suối.
Tiếng súng tạm yên th́ hai cánh quân hai bên đường được lệnh bung sâu vào rừng kiểm soát an ninh hai hông phải và trái chiến địa. Tổng kết, quân bạn có bốn chết, ba bị thương nhẹ. Chúng tôi hoàn tất cuộc nhổ chốt trong ṿng chưa đầy hai giờ đồng hồ. Con số địch bị giết vào khoảng trên dưới một trăm. Vũ khí chúng tôi tịch thu được hôm đó có lẽ nhiều hơn số địch bị giết. Sự hứa hẹn khen thưởng v́ chiến công không hấp dẫn chúng tôi trong lúc này. Tôi vào quận đường Nhơn-Cơ và chỉ gặp Thiếu Tá Khánh, quận trưởng. Vừa nghe tôi báo cáo khai thông xong con đường, liên đoàn đă cho Tiểu đoàn 81 BĐQ của Thiếu Tá Mẫn rút về Gia-Nghĩa. Trung Tá liên đoàn trưởng cho lệnh tôi vào đồn đóng quân chung với Địa Phương Quân của Thiếu Tá Khánh và đặt ông Khánh dưới sự chỉ huy của tôi. Tôi không chịu đóng quân trong quận lỵ. Tôi tin chắc rằng, sau khi hai băi ḿn ở Kiến-Đức rơi vào tay Cộng Quân th́ chỉ cần hai chiếc T54 là địch đủ sức san bằng cái đồn Nhơn-Cơ tí teo. Đồn Nhơn-Cơ chỉ có một cổng ra vào hướng tỉnh lộ từ Kiến-Đức về. Sau lưng đồn, sát hàng rào là một cái đập nước rộng và sâu. Chui vào đồn là chui vào rọ.
Đại Úy Hoàn, tiểu đoàn phó được lệnh gom quân đang giữ Kiến-Đức, cuốn chiếu qua mặt tôi rồi lui về đàng sau quận Nhơn-Cơ. Tôi giao cho ông Hoàn nhiệm vụ đốt cái đồi Kiến-Đức trước lúc rút đi. Chuẩn úy Bảo, một sĩ quan trung đội trưởng của Đại đội 4/82 là người sau cùng rời Kiến-Đức. Những quả ḿn cơ động do Bảo gài lại nơi điếm canh hướng đông của căn cứ là những cái bẫy sau cùng chào đón những cán binh trung đoàn 271/ T10 CSBV khi họ vào tiếp thu đồi Kiến-Đức. Đại đội tăng phái của Tiểu Đoàn 63/BĐQ đă theo tôi từ trước Tết Âm Lịch, giờ này được tôi trả lại Gia-Nghĩa cho Thiếu Tá Trần đ́nh Đàng. Khẩu 105 ly bị bể bánh đă được phục hồi. Cả bốn khẩu pháo binh biên pḥng đều được kéo về nơi dự trù đóng quân của ông tiểu đoàn phó cùng Đại đội 2/82 và Đại đội 4/82, trên khu chứa gỗ trước xưởng cưa Nhơn-Cơ cách tôi chừng hai cây số về hướng Gia-Nghĩa. Trưa 21 tháng Ba tôi bố trí bộ chỉ huy tiểu đoàn và hai đại đội 1/82 và 3/82 ngay ngă ba đường xe be, nơi đầu khúc cua hướng đông của đoạn đường chữ “S”. Chiều hôm ấy, cách Kiến-Đức hơn bốn cây số, tôi nghe tiếng đạn cháy nổ ùm ùm, lép bép vọng về. Ngọn khói đen bốc lên cao dần. Tôi đứng bên con đường nhựa, cạnh những ngôi mộ mới. Chúng tôi đă chôn Thượng Sĩ Y Ngon Near, Binh nh́ Đức Điếc, ba anh BĐQ mới chết sáng nay và gần chục anh BĐQ chết hôm qua bên lề tỉnh lộ này. Lù lù giữa tỉnh lộ là một đống vũ khí chiến lợi phẩm tịch thu được của địch. Bên đường là một rờ-mọoc (remorque) súng dư dùng của ta. Một núi súng ta, súng địch, gom lại, chỉ cần hai quả lựu đạn lân tinh là cháy tiêu hết! Sương chiều dâng, rừng núi mờ dần, ḷng tôi tê dại, dửng dưng…
Sáng sớm 23/3/75, tiền đồn hướng tây báo cáo có tiếng hô “xung phong” trên đồi Kiến Đức. Pháo binh đă chuẩn bị yếu tố. Hai chục tràng đạn đi để chào mừng những người chủ mới đến tiếp thu ngọn đồi này. Tiếp đó là một tiếng “Ùm!” từ hướng tây vọng lại. Như vậy là băi ḿn chống tank đă nổ! Không rơ tank địch đă vô ư cán lên băi ḿn, hay bangalore của công binh CSBV đă phá hủy nó? Và cũng từ ngày này tôi bận tâm suy nghĩ phải làm ǵ để đương đầu với xe tank địch trong những ngày sắp tới?
Ngày 25/3/75, khoảng 9 giờ sáng tôi vào quận để thăm ông Thiếu Tá Khánh. Tôi không gặp được ông Khánh. Từ mấy ngày trước, Thiếu Tá Khánh đă ra Gia Nghĩa và ở lại ngoài đó không về. Tôi đi ngang hầm truyền tin th́ nghe tiếng loa khuyếch âm oang oang. Thiếu Tá Khánh ra lệnh cho lực lượng đồn trú:
-“Các anh chuẩn bị bỏ đồn, rút về Tiểu khu. Nhớ vặn nhỏ volume kẻo ông Thiếu Tá Biệt Động Quân nghe được th́ rầy rà!”
Người Chuẩn úy trực chi khu thấy tôi đứng trước hầm, anh ta luống cuống phân bua,
-“Tŕnh Thiếu Tá, không phải lỗi em!” Tôi xua tay,
-“Đừng ngại! Cứ thi hành lệnh đi! Tôi sẽ gặp xếp của anh!”
Tới hầm súng cối, tôi tần ngần nh́n khẩu cối 4 chấm 2 (cối 4.2 tức cối 106 ly), đạn c̣n nhiều quá! Tôi gọi chiếc GMC của tiểu đoàn vào chở khẩu súng này lên cho ông Đại Úy Hoàn. Thượng Sĩ Năng là chuyên viên bắn 106 ly của tôi, khi chúng tôi c̣n ở Plei-Me. Thượng Sĩ Năng chắc phải vui lắm khi nhận được khẩu cối này. Trước khi Điạ Phương Quân và Nghĩa Quân Nhơn-Cơ ra khỏi đồn, tôi nghe trong máy, tiếng Thiếu Tá Trần văn Bường ra lệnh cho sĩ quan pháo binh Diện-Địa đồn Nhơn-Cơ phá hủy những khẩu đại bác 105 ly. Tôi đứng quan sát những pháo thủ Nhơn-Cơ bắn cả ngàn quả đạn về hướng Kiến-Đức, trong đó có những viên đạn phostpho. Sau cùng, họ đă thả từng quả lựu đạn màu đỏ, hủy từng khẩu pháo. Tôi nh́n cách phá súng của họ và học lóm được cách tháo ống thủy điều cho chất nước đỏ chảy ra, ṇng súng thụt xuống không xử dụng được. Tới trưa hôm đó th́ quận đường Nhơn – Cơ trống trơn.
Tôi cho lệnh đốt quận đường rồi giựt ḿn phá hủy cái cống bắc ngang suối Nhơn-Cơ. Sau đó tôi cho quân rút lên đỉnh dốc giữa đường Nhơn-Cơ, Gia-Nghĩa. Nửa tiểu đoàn quây quanh khu vườn rộng sau cái miếu Thổ Địa nơi đầu dốc. Bốn khẩu 105 ly Biên Pḥng hướng về phía tây sẵn sàng đạn chống tank. Tôi lái xe ngược chiều về xưởng cưa thăm vị trí của ông Hoàn. Có tiếng động cơ xe từ hướng Kiến-Đức vọng về. Tôi quyết định cho cánh quân của Đại Úy tiểu đoàn phó rút qua mặt tiểu đoàn và ngủ đêm bên bờ con sông hướng bắc trục lộ, cách tôi độ nửa cây số. Tôi xuống xe đi bộ cùng với ông Hoàn. Khi đi ngang xóm nhà của khu dinh điền Nhơn-Cơ, nơi TĐ 81 BĐQ và địch đă giao chiến suốt đêm 18 và sáng 19 tháng Ba, chúng tôi nghe mấy người lính đi bên trái báo có thương binh bạn nằm bên lề đường. Một Biệt Động Quân mang phù hiệu TĐ 81 BĐQ nằm trên bờ cỏ sát suối. Ruột gan anh đổ trên mặt cát. Đầu mặt, tay chân anh máu đă khô. Kiến lửa và ruồi nhặng lúc nhúc bu trên người anh. Người chiến sĩ BĐQ chỉ c̣n thoi thóp nhẹ. Tôi lần tay vào c̣ khẩu súng Colt. Tôi nghĩ tới viên đạn giải thoát cho bạn ḿnh.Tay tôi run run. Tôi không đủ can đảm làm việc này! Tôi chợt nghĩ, anh chiến sĩ đă hôn mê; chắc anh ta không c̣n biết đau đớn là ǵ nữa cả. Chắc anh không cần đến viên đạn giải thoát của tôi. Tôi và Đại Úy Hoàn lấy một cái poncho phủ lên người anh. Hai chúng tôi đứng nghiêm chào vĩnh biệt người bạn trẻ cùng binh chủng. Cách chỗ anh BĐQ nằm chừng năm chục mét trên dốc là hai cái xác Việt-Cộng đă śnh. Hai cái xác trương to như hai con ḅ, áo quần căng cứng. Nắng hầm hập. Một vùng ngập ch́m trong tử khí.
Trưa 25/3/75, khói đen bốc lên hướng thị xă Gia- Nghĩa. Trung Tá liên đoàn trưởng báo cho tôi biết tin Tiểu khu Quảng Đức đang bắt đầu rút về BLao. Bộ chỉ huy liên đoàn và hai tiểu đoàn 63 & 81 BĐQ đang án binh chờ tôi về rồi mới tính sau. Tôi lên xe chạy về Gia-Nghĩa. Gặp lại Trung Tá Thanh, tôi cùng ông duyệt lại t́nh h́nh Quảng-Đức. Chúng tôi thấy những ngày trước đó, quân ta chưa có ǵ sứt mẻ. Tinh thần c̣n vững vàng. Tiếp liệu c̣n đầy kho. Chỉ có Kiến-Đức là nóng bỏng. Chúng tôi c̣n đứng vững, chưa cần tới tiếp viện. Tôi không hiểu v́ sao ông tỉnh trưởng bắt chúng tôi lui binh từ từ, bỏ hết điểm này tới điểm nọ. Bây giờ ông ta lại bỏ cả tỉnh lỵ khi địch chưa tỏ ư định đánh chiếm nó. Kho tàng đă bị đốt hết. Chúng tôi có tử thủ cũng chỉ vài ngày là hết đạn, hết cơm. Chúng tôi không rút cũng không được. Tôi vội kêu Trung úy Đăng giao Đại đội 2/82 lại cho Chuẩn úy Gấm rồi lên gặp tôi. Tôi dặn ḍ anh dùng xe GMC đi theo bộ chỉ huy tiểu khu. Tới BLao, anh chuẩn bị lương thực tiếp tế sẵn cho đơn vị. Ra khỏi liên đoàn, tôi ghé chợ Gia-Nghĩa. Chợ quán thưa vắng. Tôi vào khu bán chạp phô. Tôi mua hai kư tép khô. Giá ba trăm đồng một kư. Tôi đưa cho chị bán hàng tờ giấy một ngh́n, không nhận tiền thối lại.
-“Sao bà con c̣n nấn ná ở đây? Người ta đi hết rồi!”
-“Biết đi đâu bây giờ Thiếu Tá ơi! Con th́ nhỏ, đường th́ xa. Em sợ tên bay đạn lạc. Thôi ở lại đây có chết cũng đành!” Chị bán tép sụt sịt,
Tôi buồn bă nói với bà con đôi lời từ giă. Lúc đó có tiếng ồn ào nơi khu phố đối diện. Cửa hàng bên phải có tiếng khóc than. Cửa hàng bên trái có bóng đi ra đi vô của một bộ quần áo rằn ri. Tôi hỏi chị bán tép chuyện ǵ huyên náo, chị nói,
“Cướp, có hai anh lính Biệt Động Quân ăn cướp! Họ ném lựu đạn vào tiệm bên phải, cướp vàng. Họ đang khảo tra chủ tiệm bên trái.”
Tôi ra xe phất tay cho Trung sĩ Nguyễn Chi và Hạ sĩ Mom Son sẵn sàng. Hai người này và anh tài xế đă rơ câu chuyện ăn cướp. Họ thủ thế chờ lệnh. Tôi đứng trước đầu xe hét to,
“Ê! Hai anh kia đi ra không tôi bắn!”
Một tên tóc tai dài lượt thượt ló đầu ra cửa. Hắn giơ tay lên nhứ nhứ quả M 26. Tôi ra lệnh, “Bắn!” Hai viên M16 trúng sọ thằng ăn cướp. Nó nằm giăy tê tê trước bục cửa ra vào. Quả lựu đạn chưa mở chốt văng trước thềm. Thằng thứ nh́ cũng mặc quân phục Biệt Động Quân từ trong nhà chạy ra, trên tay cũng có hai trái M 26. Tôi hét lớn,
-“Ném hai quả lựu đạn ra sau nhà!”
Tên cướp ném hai trái M26 ra sân cỏ sau nhà. Chỉ một trái đă bị rút chốt an toàn. Một tiếng “ùm!” làm bay tấm tôle trên mái sau. Tôi ra lệnh tiếp,
-“Nằm úp mặt xuống đất, hai tay dang ra!”
Hắn riu ríu làm theo lệnh.
-“C̣n ai trong nhà nữa không? Ra hết đi!”
Một cặp vợ chồng già run lập cập nắm áo nhau chạy ra ngoài lộ. Ba thày tṛ tôi tiến lên chổ tên cướp đang run như cầy sấy.
-“Mày ở đơn vị nào?”
-“Dạ em là lao công của Sư đoàn 23 Bộ Binh chạy lạc về đây!”
-“Quần áo Biệt Động Quân tụi mày lấy ở đâu ra?” Tôi hỏi vặn,
-“Dạ nhiều lắm! Trong tiệm giặt ủi đàng kia!”
Tôi co chân đá vào mặt thằng ăn cướp một cái. Miệng nó phun máu. Tôi ra hiệu cho chú Chi lục túi nó và túi thằng đă chết, gom tang vật lại rồi gọi nạn nhân ra trao cho họ. Gia chủ căn nhà bên phải chạy ra nhận lại số vàng. Họ vừa khóc vừa cám ơn. Tôi đá liên tiếp vào mặt thằng ăn cướp mấy cái nữa, nó ôm mặt lăn lộn trên mặt đường khóc lóc xin tha mạng. Tôi quát, “Cút đi!” Nó lồm cồm ḅ dậy, chạy một mạch xuống triền đồi khuất dạng. Tôi phân trần với dân phố đang bu quanh,
-“Tụi này là lính giả. Chúng nó là quân phạm chứ không phải Biệt Động Quân. Biệt Động Quân không có những hạng người đốn mạt như tụi này!”
Nói xong câu đó, tôi nghĩ tới ngày mai, chúng tôi không c̣n hiện diện ở nơi đây nữa. Ai sẽ thanh minh cho chúng tôi những sự mạo nhận như thế? Tôi buồn bă lên xe hướng về bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Đức. Ṭa hành chánh bị đốt hư hại nhẹ. Khói từ các cửa sổ ăn loang lổ tường vôi. Khu Trung-Tâm Yểm-Trợ Tiếp-Vận chỉ có kho xăng đă cháy, vài căn nhà chứa lương thực và đạn dược bị đốt lam nham. Những chỗ khác vẫn c̣n nguyên vẹn. Trên mặt đất, quân trang, quân dụng, lương thực vương văi khắp nơi. Tôi quay xe xuống đồi. Tôi hẹn với Trung Tá liên đoàn trưởng, sáng mai tôi sẽ rút quân thẳng về bờ sông Kinh-Đà chờ bộ chỉ huy và hai tiểu đoàn. Điểm vượt sông tôi sẽ định sau.
Sáng 26/3/75, tôi ra lệnh phá hủy bốn khẩu 105 ly ngay trên sân miếu thổ thần sau khi bắn hết gần một ngàn viên đạn về hướng Kiến-Đức. Khẩu 106 ly được ném xuống ḍng sông bên đường sau khi đạn đă được gởi hết qua bờ nam đập nước. Mười giờ sáng, đại đội đi đầu ra tới bờ sông. Trước khi tới bờ sông, tôi gặp một trạm gác của Nghĩa Quân Khiêm-Đức. Tôi thấy một Nghĩa Quân ngồi trên cḥi gác giặc. Anh lính đang chăm chú quan sát khu rừng rậm dưới dốc. Tôi hỏi anh lính,
-“Sao em c̣n ngồi đây? Người ta đi hết rồi!”
-“Ủa! chứ người ta đi đâu Thiếu Tá?” Anh lính ngơ ngác,
-“Người ta rút về BLao hết rồi! Em đi đi!”
Anh Nghĩa Quân nh́n tôi bán tin bán nghi. Đến lúc thấy quân lính theo tôi đông ngời ngời, anh phát hoảng, co gị chạy về hướng thị xă. Tôi cho tiểu đoàn đi song song với bờ tây của sông Đa-Dung, xuôi về hướng nam chừng nửa cây số th́ dừng lại. Càng xa những đường lộ chính hay đường xe be, càng đỡ lo chuyện rủi ro trên bờ đối diện. Tôi quyết định vượt sông nơi vắng vẻ đ́u hiu nhất. Tôi chọn hai anh lính gốc dân chài cùng tôi bơi qua sông làm đầu cầu. Ba khẩu M16, ba băng đạn, ba cuộn dây nylon, ba thày tṛ tôi bu theo ba cái phao poncho độn bằng cành lá. Chỉ có tôi và một anh lính tới bờ b́nh yên. Người lính bơi trên thượng nguồn bên trái tôi ch́m nghỉm giữa ḍng, sau một tiếng “Ối!” thất thanh. Đa-Dung nổi tiếng là sông nhiều cá sấu!
Chương 3.
Qua tới bờ đông, tôi thủ thế khẩu M16 gác giặc để anh BĐQ bạn yên tâm cột giây cho các toán viễn thám của tiểu đoàn theo chân nhau qua sông. Sau đó các đại đội được lệnh chặt tre làm mảng. Ai biết bơi th́ chỉ cần ôm một khúc tre lồ ô là có thể nương theo ḍng chảy, tới bờ đối diện không khó khăn lắm. Lúc này cả một khúc sông ồn ào như cái chợ. Nếu có con cá sấu nào bơi gần đó chắc cũng thất kinh hồn vía lo t́m đường tẩu thoát. Tiểu đoàn tôi hoàn tất cuộc vượt sông với một thời gian rất ngắn. Khi bộ chỉ huy liên đoàn bắt đầu xuống mảng th́ Tiểu đoàn 82 BĐQ cũng bắt đầu di chuyển. Tôi cho đơn vị đi ngược về bắc, hướng tới một ngọn đồi xanh khá cao. Cách băi vượt sông chưa tới hai trăm mét là một băi śnh rộng. Cả chục con cá sấu lớn nhỏ đang nằm phơi ḿnh dưới nắng. Thấy đoàn người đi tới gần, chúng hoảng sợ lao ḿnh xuống nước, lội ngược ḍng về thượng nguồn. Ngọn đồi xanh mà chúng tôi đang chiếm lĩnh là một rừng tre. Tôi cho quân vượt cái yên ngựa, bố trí trên đỉnh bắc của yên ngựa, nhường cái đuôi yên ngựa cho những đơn vị lên sau. Dưới bờ sông có tiếng lựu đạn nổ. Truyền tin báo Trung Tá Thanh liên đoàn trưởng, Trung úy Minh sĩ quan truyền tin liên đoàn và ba người khác bị thương. Ơ hờ khi sưởi ấm đă gây ra tai nạn lựu đạn nổ. Lựu đạn nổ v́ sợi giây thun cột mỏ vịt lựu đạn bị cháy trong lúc kíp an toàn đă bị tháo mất rồi. Trung Tá liên đoàn trưởng bị mảnh lựu đạn văng trúng ngực và trán. Sau khi băng bó,Trung Tá Thanh và những người bị thương được cáng lên chỗ tôi đóng quân.
Sáng 27/3/75, trực thăng từ Đà-Lạt tới bốc những quân nhân bị thương. Cùng đi trên chuyến tải thương này c̣n có Thiếu Tá Hoàng Đ́nh Mẫn, tiểu đoàn trưởng TĐ81 BĐQ. Ông Mẫn bị sốt rét cấp tính. Như vậy là chỉ trong ṿng hai mươi bốn giờ sau khi rời Quảng-Đức, hai vị sĩ quan chỉ huy của liên đoàn đă ra khỏi vùng. Tôi thấy mới ra quân mà đă bỏ phí hai ngày đường, nên sau khi tải thương xong, tôi cho lệnh đơn vị gấp rút đổ dốc hướng về phía đông. Chiều đó đang đi trên một lối ṃn, chúng tôi nghe tiếng gà nhà gáy trong rừng. Vậy là có mật khu VC gần đâu đây? Tôi báo cáo t́nh h́nh cho Trung Tá Đào Đức Châu (k12 VB) liên đoàn phó, lúc này đang Xử Lư Thường Vụ chức liên đoàn trưởng Liên đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đề nghị ông cho những cánh quân theo sau tôi dừng lại để tôi tập kích cái mật khu trước mặt. Cái khu sản xuất của Thượng Cộng nhỏ tí, với hai chú du kích Thượng đang ngồi ngậm ống vố, không đáng cho một cú xung phong của một đại đội Biệt Động Quân. Hai tên du kích chưa kịp đứng dậy cầm súng đă bị bắn vỡ óc, nằm thẳng cẳng bên ḷ lửa than nghi ngút khói, dưới chân một cái nhà sàn. Tối đó chúng tôi dừng quân ngay trong mật khu địch.
Khoảng bảy giờ đêm, tôi nghe tiếng người cười đùa huyên náo trong rừng, khu Đại đội 3/82. Tôi và Binh nh́ Thọ lần bước về chỗ tiếng cười nói ồn ào. Trung úy Trần văn Phước (ĐĐT3/82) và cả chục BĐQ dưới quyền anh đang quây quần bên một ṿ rượu cần, ṿ rượu chiến lợi phẩm. Trự nào cũng xiêu vẹo bước tới, bước lui. Trự nào cũng lè nhè, la hét ồn ào. Tiếng họ cười nói oang oang giữa rừng khuya. Với tôi, th́ uống rượu không là một cái lỗi; nhưng say rượu trong khi hành quân th́ tôi không tha; dù người đó thân cận như chú Phước. Tôi rút súng bắn tan ṿ rượu. Những ma men tỉnh rượu ngay lập tức.
-“Cuốn lều! Đại đội 3 cuốn lều! Hướng một ngàn sáu trăm zu lu! Làm ngay!”
Trung úy Phước và “ṭng phạm” riu ríu thi hành lệnh. Mười phút sau một khoảng rộng lớn trên tuyến pḥng thủ của tiểu đoàn bị bỏ trống. Đại đội 3/82 bị phạt phải dạ hành mở đường. Măi nửa giờ sau tôi mới bớt giận. Tôi ra lệnh cho Đại đội 3/82 dừng lại tấp vào rừng ngủ. Trong tiểu đoàn này Trung úy Trần văn Phước là người thân cận nhất của tôi. Tháng 11/1972 tôi bàn giao căn cứ Đức-Cơ và Tiểu đoàn 81 BĐQ cho Thiếu Tá Hoàng đ́nh Mẫn để về giữ chức trưởng pḥng 2/BCH BĐQ QK2 th́ Chuẩn úy Trần văn Phước mới măn khoá T́nh-Báo Cây-Mai. Đă có lần tôi gởi Chuẩn úy Phước vào Plei M’rong làm ban 2 cho Thiếu Tá Phạm duy Ánh, tiểu đoàn trưởng TĐ63 BĐQ (1973). Thiếu Tá Ánh chịu không thấu cái tật rượu vào là rút súng của Chuẩn úy Phước. Cuối cùng Phước lại khăn gói quả mướp về tŕnh diện tôi. Chỉ có ḿnh tôi là biết cách kiềm chế con ngựa chứng này. Chú Phước ở với tôi từ đó cho tới cuối 1973 th́ thày tṛ tôi vào Plei-Me. Chú Phước và chú Minh (sĩ quan truyền tin LĐ24 BĐQ sau này) là hai sĩ quan sau cùng c̣n ở lại bên tôi, rồi bảo vệ tôi thoát hiểm trong kẽ tóc đường tơ, khi Tiểu đoàn 82/ BĐQ bị tràn ngập trưa 15 tháng Tư năm 1974 trên căn cứ 711. Rồi cũng chính Thiếu úy Trần văn Phước là người đầu tiên cùng tôi đặt chân trở lại trên căn cứ 711 sau khi chúng tôi vất vả hai ngày phản công tái chiếm căn cứ này. Trận đó tiểu đoàn của chúng tôi bị sáu tiểu đoàn của SĐ 320 Điện Biên xa luân chiến. Trong hai năm sau cùng của cuộc chiến, không có trận đánh nào mà không có mặt Phước bên cạnh tôi. Sau trận Plei-Me, Thiếu úy Trần văn Phước được đặc thăng trung úy. Lên trung úy, chú Phước bỏ nghề quân báo, trở lại đời tác chiến làm đại đội trưởng. Đây là lần đầu, tôi nặng tay với Phước. Tôi vào máy gọi cho Phước. Đầu máy bên kia, tôi nghe tiếng người đàn em sụt sịt,
-“Em xin lỗi Thái Sơn! Em xin lỗi anh Hai!”
-“Thôi! Ngủ đi! Chờ mai anh lên với chú!” Tôi cũng thấy mủi ḷng, xốn xang,
Tôi lấy điếu Lucky ra hút. Tiếng muỗi đêm vo ve bên tai. Tiếng suối reo ŕ rào trong khe. Tiếng gió lùa ù ù sau đồi. Trên poncho, lá cây rơi lộp độp. Quanh tôi đủ loại tiếng rừng. Chưa lần nào tôi cảm thấy rừng đêm buồn như thế!
Trăng sáng như ban ngày. Gần chín giờ đêm, trung tá liên đoàn phó cho người tới lều mời tôi lên gặp riêng. Ông Châu nhờ tôi xin trực thăng tản thương cho ông ta ra khỏi vùng. Đại Úy Trần dân Chủ, ban 3 liên đoàn cũng xin phép tôi để đi theo trung tá liên đoàn phó. Tháp tùng Trung Tá Châu, ngoài Đại Úy Chủ c̣n hai hạ sĩ quan truyền tin liên đoàn.
Sáng 28/3/75, khi hai sĩ quan và hai hạ sĩ quan của bộ chỉ huy liên đoàn vừa yên chỗ trên sàn trực thăng th́ dưới băi bốc xảy ra cảnh lộn xộn, ồn ào. Có một người đàn bà nhất định không chịu lên máy bay. Chị ta vừa khóc thút thít vừa co rụt người lại khi mấy anh lính an ninh băi đáp t́m cách đẩy chị ta lên cửa trực thăng.
-“Em không về đâu! Em không nỡ bỏ anh ấy giữa rừng!”
Người đàn bà này đă theo đoàn quân của TĐ 81/BĐQ từ ngày đầu di tản. Chị không chịu bỏ người thân. Tay chân chị giăy giụa, miệng chị la bài hải,
– “Em không sợ chết đâu! Cho em ở lại đi! Các anh ơi!”
Cuối cùng, toán giữ trật tự băi đáp đành chịu thua người đàn bà. Chợt không ai bảo ai, tất cả Biệt Động Quân có mặt trên băi bốc ngày hôm ấy đă đồng loạt vỗ tay hoan hô người phụ nữ can đảm. Chờ một lúc không thấy ai lên máy bay nữa, tôi ra dấu cho chiếc trực thăng cất cánh.
Chiều đó, khi dừng quân, tôi nhận được một công điện từ Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 Hành Quân chỉ định Thiếu Tá Hiện Dịch Vương mộng Long khóa 20 Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam tạm thời giữ chức vụ liên đoàn trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi mời Thiếu Tá Đàng và Thiếu Tá Tài lên gặp tôi để phân nhiệm. Theo đó, Tiểu đoàn 82 BĐQ sẽ mở đường, Tiểu đoàn 81 BĐQ đi giữa, Tiểu đoàn 63 BĐQ có nhiệm vụ đoạn hậu. Đối với Thiếu Tá Nguyễn hữu Tài, tôi không gặp trở ngại ǵ về vấn đề chỉ huy, v́ anh Tài là tiểu đoàn phó của tôi trước khi thuyên chuyển qua Tiểu đoàn 81 BĐQ. Anh Trần đ́nh Đàng xuất thân khóa 15 Vơ-Bị và phục vụ trong binh chủng Biệt Động Quân từ những năm binh chủng mới được khai sinh. So với Thiếu Tá Đàng, tôi là đàn em rất xa, về cả hai xuất xứ, Biệt Động Quân cũng như Vơ-Bị (tôi xuất thân từ k20). Tôi xin ư kiến của người Niên Trưởng dễ mến này về việc tôi được chỉ định chỉ huy liên đoàn. Tôi hỏi anh có trở ngại ǵ khi anh phải nằm dưới sự chỉ huy của tôi không? Anh Đàng trả lời một cách khẳng khái,
-“Chú chỉ huy là phải rồi! Chú thông thuộc địa thế Vùng 2. Chú được cấp trên, cấp dưới tín nhiệm. Anh sẽ nghe theo lệnh của chú. Yên chí đi!”
-“Cám ơn Niên Trưởng!” Tôi xiết tay anh Đàng thật chặt. Trong cơn nguy khốn, chúng tôi thấy thương nhau hơn. Trong hoạn nạn, chúng tôi thấy gần nhau hơn.
Những ngày tiếp theo, dưới quyền chỉ huy của tôi, liên đoàn tiếp tục cuộc hành tŕnh theo dự trù. Cứ theo hướng 1600 ly giác, chúng tôi băng rừng lội suối nhắm về thị trấn BLao. Trên đường chúng tôi đi qua chỉ có tre, mây và lau sậy; trên đường chỉ có dấu chân voi. Địa thế ở đây tôi quen lắm. Thời 1968 tôi đă lặn lội, lùng sục không sót một ngọn đồi nào trong vùng này. Đă bao lần, tôi qua lại trên dải đất từ bờ đông sông Đa-Dung qua Quốc lộ 20 tới cao nguyên Gia-Bắc giáp giới quận Thiện-Giáo, B́nh-Thuận. Ngày đó, Trung Tá Bùi văn Sâm LĐT LĐ2 BĐQ đă biệt phái TĐ11 BĐQ của Đại Úy Hồ khắc Đàm (k16VB) cho Task Force South của Tướng Trương quang Ân, Tư Lệnh Sư đoàn 23/Bộ Binh. Tôi lúc đó là đại đội trưởng ĐĐ1 TĐ11 BĐQ dưới quyền anh Đàm. Chúng tôi được trực thăng Hoa-Kỳ tải vào rừng. T́m mục tiêu, diệt địch. Leo hết ngọn đồi này tới ngọn đồi khác. Mười ngày sau chui ra băi trống nhận tiếp tế gạo mắm. Rồi lại leo lên trực thăng, đổ xuống băi khác. Lại t́m mục tiêu. Lại leo hết đồi này tới đồi khác. Lại tiếp tế… Cứ thế, mỗi đợt cả tháng trường, chúng tôi lần ṃ trong núi. Chỉ những anh bị thương hay sốt rét là có dịp nh́n thấy phố… Bảy năm sau, tôi lại lội trên những con đường ṃn ngày xưa tôi đă dẫn quân đi qua. Bảy năm sau, tôi vẫn nhớ đường nào lên Đại-Nga, hướng nào về Tân-Bùi, ngả nào qua Tân-Rai. Lương thực của chúng tôi đă gần cạn. Giầy vớ, áo quần bắt đầu te tua.
30/3/75, mặt trời vừa lên, trong máy nội bộ của TĐ82/BĐQ đă có tiếng người trên trực thăng hối thúc,
-“Yêu cầu Thái Sơn kiếm băi đáp nhận chỉ thị gấp!”
Lúc đó chúng tôi đang ở gần một băi ngô cũ. Chiếc trực thăng sà xuống. Người phi công quơ tay ngoắc tôi lia lịa. Tôi bước lên càng máy bay để nghe anh ta nói,
-“Tôi được lệnh Quân đoàn lên đón Thiếu Tá về Đà-Lạt. Thiếu Tá lên tàu mau đi!”
-“Thế c̣n liên đoàn th́ sao?”
-“Chúng tôi chỉ ‘rescue’ một ḿnh Thiếu Tá thôi! Những người khác, bỏ!”
-“Thôi! Nếu thế th́ tôi không đi đâu! Tôi đang chỉ huy cả ngàn người. Tôi không mặt mũi nào bỏ đi một ḿnh. Anh về báo với Quân đoàn cố gắng bốc tất cả liên đoàn giùm tôi.” Tôi xua tay,
Nói xong câu đó, tôi bước xuống đất định quay đi th́ người phi công cởi giây đai, mở cửa phi cơ. Anh nhảy xuống đất đứng nghiêm trước mặt tôi. Giơ tay chào tôi, anh nói lớn,
-“Tôi không ngờ giờ này quân đội ta c̣n một vị chỉ huy đáng nể như Thiếu Tá! Thiếu Tá cho phép tôi chào kính phục ông và nói lời vĩnh biệt ông.”
Người phi công nắm tay tôi lắc lắc mấy cái rồi anh buông tay tôi ra, leo lên buồng lái. Cả phi hành đoàn giơ tay vẫy vẫy giă từ. Tôi cũng giơ cái bản đồ vẫy lại. Chiếc trực thăng cuối cùng của Vùng 2 khuất dần ở chân mây.
Binh nhất Y Don Near mang máy truyền tin nội bộ của tôi lúc nào cũng đi sát bên tôi. Don đă nghe tất cả những lời tôi và viên phi công đối đáp với nhau. Chắc nó đă kể lại chuyện này cho bạn bè. Trưa hôm đó, lúc dừng quân nghỉ chân, vài anh lính Rhadé, Jarai đă đến xúm quanh người chỉ huy của họ,
-“Ông Thiếu Tá ơi! Đừng bỏ tụi em, tội nghiệp!”
– “Ừ! Thiếu Tá không bỏ các em đâu! Thiếu Tá lúc nào cũng ở bên các em. Chúng ḿnh sống chết có nhau!” Nh́n những giọt nước mắt theo nhau lăn trên những g̣ má đen đủi của thuộc cấp, tôi thấy ḷng ḿnh ấm lại.
Chúng tôi đă cạn hết lương thực. Trên đường đi, chúng tôi phải tấp vào những nương rẫy cũ kiếm rau tàu bay, củ chuối, nấu ăn cho đỡ đói. Răng người nào cũng đen thui v́ nhựa chuối rừng. Điều khổ nhất phải chịu đựng là, sau khi ăn hoa chuối, cây chuối hay củ chuối th́ chất sơ của chuối làm cho chúng tôi mắc bệnh táo bón. Mỗi khi đi tiêu, chúng tôi phải ngồi ngâm hậu môn xuống nước, lấy cây cạy phân ra. Hậu môn đau rát lắm. Đi tiêu xong người nào cũng bước cà-náng, hai hàng. Buổi trưa, tôi đang ngồi bên đường chờ bát canh rau tàu bay của chú Bích th́ Thiếu úy Học rón rén tới gần. Học th́ thầm,
-“Có con gấu to lắm, trên cây. Thái Sơn cho phép bắn làm thịt nghe?”
-“Ừ! Bắn đi!” Tôi sáng mắt lên,
Học vui vẻ phóng về hướng rừng. Lát sau chú quay lại, mặt tiu nguỷu,
-“Thằng lính gác muốn bắn nhưng lại sợ Thái Sơn la. Đợi khi em xin phép xong th́ con gấu đă chạy mất tiêu rồi!”
Tôi th́ buồn vui lẫn lộn. Buồn v́ mất ăn một bữa thịt gấu. Vui v́ tới giờ phút này, tinh thần kỷ luật của đơn vị tôi vẫn chưa bị lung lay. Chúng tôi đang ở bên bờ một con suối lớn. Dưới nước, những con cá đuổi nhau có ngời. Tôi chợt nghĩ ra một ư lạ: Đốt cá! Tôi gọi Thiếu Tá Tài và Thiếu Tá Đàng sẵn sàng. Tôi ra lệnh cho ba tiểu đoàn tản xa theo ḍng nước. Mỗi tiểu đoàn trấn giữ một khúc suối. Nơi đầu nguồn của mỗi đơn vị chỉ cần đốt ba quả lựu đạn M26 là liên đoàn có một bữa cá no nê. Tôi học được cách đốt cá từ khi c̣n ở Đại đội Trinh-Sát Liên đoàn 2. Vặn phần đầu của quả lựu đạn ra, vứt đi. Bẻ đầu một viên đạn M16 lấy thuốc súng đổ vào lỗ kích hỏa của trái lựu đạn. Đốt thuốc súng cho lửa xanh phụt lên. Quơ qua, quơ lại quả lựu đạn cháy trong ḷng nước. Hơi cay làm cho thủy tộc bị đui. Cá đen, cá trắng, lươn, cua, rùa, rắn, ếch, nhái, vân vân, con ǵ trong nước cũng nổ con ngươi nổi lên mặt nước. Buổi chiều chúng tôi mỗi người được chia một lon Guigoz cá tươi. Sáng mai chúng tôi lại có sức để lên đường.
31/3/75, chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi cách Bảo Lộc trên dưới hai chục cây số. Từ trên đỉnh, chúng tôi nh́n thấy thung lũng dưới chân đồi là một mật khu trù phú. Kế hoạch đặt ra như sau: Đại đội 3/82 sẽ tiến sát, rồi bất thần đột kích khu doanh trại chính; mỗi tiểu đoàn sẽ cắt hai chục người tải lương thực về. Kế hoạch đă được thi hành như dự liệu và không có ǵ trục trặc xảy ra. Đại đội 3/82 thanh toán mục tiêu rất nhanh. Một cán bộ VC quần áo bảnh bao đang ngồi bên bàn chờ ly cà phê phin nhỏ giọt th́ bị một viên M16 ghim vào ngực. Hai cán bộ đang cho lợn ăn trưa cũng bị mỗi tên một viên M16 vào ngực. Mấy anh cán binh đang tưới cây trong vườn cũng bị mỗi anh một viên M16 vào ngực. Cái mật khu dưới kia là một trung tâm huấn luyện của Tỉnh-Đội Lâm-Đồng Việt-Cộng. Trung tâm có khoảng trên ba trăm khẩu súng gỗ và cả chục khẩu súng thật. Có một khẩu cối 82 ly với một kho đạn. Tên VC đang chờ uống cà phê có vẻ là cấp chỉ huy. Những tên khác có lẽ là bọn lo công tác hậu cần. Bọn bộ đội bảo vệ trung tâm đă xuất trại vắng. Quân ta làm chủ t́nh h́nh một cách lẹ làng. Có một tai nạn lúc xung phong: Hạ sĩ Nguyễn Ba trong toán tà-lọt của tôi đă lủi đầu vào một bụi tre. Một cọng tre khô xuyên vào mắt trái của hạ sĩ. Đói quá, quên đau, hạ sĩ xung phong bắt được một con gà và một gốc sắn rồi mới chịu lấy khăn tay bịt một mắt rút lui lên đồi. Ăn xong bữa thịt gà hạ sĩ mới nhận ra con mắt bị thương đang hành hạ anh ta. Cái cọng tre c̣n ḷi ra khỏi hốc mắt Hạ sĩ Ba cả tấc. Quân y liên đoàn không dám rút cọng tre khỏi mắt Ba v́ không đủ phương tiện cứu chữa. Họ chỉ dùng ḱm cắt cọng tre ngắn đi cho đỡ vướng. Vốn là một tay viễn thám gan lỳ, người tà-lọt của tôi cắn răng chịu đau, không rên, không khóc. Những ngày sau đó, hạ sĩ đành quàng súng lên vai, hai tay luân phiên che mắt đi theo đoàn tùy tùng của Đại Úy Hoàn. Tôi cũng quên dặn ḍ các cánh quân coi chừng bắn gà, bắn heo có thể gây đạn lạc trúng quân ta. Kết quả, đạn của Đại đội 3/82 đă sượt qua cổ một anh BĐQ TĐ63 BĐQ thay v́ trúng đầu một con gà. Người trúng đạn bị thương nhẹ.
Toán tải lương thực sau cùng của liên đoàn đă rút lui an toàn. Mới vài ngày trước, tôi đă chứng kiến cảnh BĐQ hoan hô người đàn bà can đảm của TĐ81 BĐQ trên băi trực thăng, v́ thế tôi không ngạc nhiên khi thấy chị ta cũng có mặt trong đoàn người mặt mày hí hửng đang từ dưới chân đồi h́ hục leo lên. Tôi không cho lệnh đốt khu doanh trại v́ ngại khói đen bốc cao có thể thu hút sự chú ư của các đơn vị Việt-Cộng ở xa. Tôi không muốn đụng đầu với quân cứu viện của chúng lúc này. Khi rút lui, Trung úy Phước đă sơ ư không phá cơ bẩm khẩu súng cối. Vài giờ sau khi chúng tôi rút đi th́ đạn cối 82 ly bắt đầu câu theo đít quân ta. Chúng tôi nhanh chân vượt qua hai ngọn đồi rồi chui vào sâu trong rừng lau sậy. Trời vừa tối. Tôi cho lệnh dừng quân căng lều. Rừng bao la, đạn cối của Việt- Cộng “ùm! ùm!” rơi bâng quơ trong núi.
1/4/75 Lên đường! Sáng nay mọi người đều no bụng. Đoàn quân t́m lại được cái vẻ oai phong, khí thế ngày nào! Đội h́nh một hàng dọc! Thứ tự như cũ! Cứ theo hướng mặt trời mọc mà đi! Binh nh́ viễn thám viên Triệu Tân mở đường. N gười thứ nh́ là Thiếu úy Học. Người thứ ba là tôi. Sau tôi là thằng Don. Sau thằng Don… là đoàn rồng rắn lên mây, cả liên đoàn hàng dọc. Đường độc đạo, hai bên là lau sậy và gai mắc cỡ. Nếu cứ tính lộ không trung b́nh mỗi người cách nhau 3 mét, th́ toán đi đầu của tôi cách toán đi chót của Thiếu Tá Đàng phải trên 2 cây số. Tới chiều th́ chúng tôi bắt đầu đi lên một cái dốc khá cao. T́nh h́nh vẫn yên tĩnh! Trời đẹp quá! Trên không mây trắng vài sợi bay lờ lững. Gió nhẹ như ru. Thông ngàn reo vi vu. Chim chóc hót vang lừng. Nếu là thuở thanh b́nh th́ cảnh này thật lư tưởng cho các thi nhân lang thang đi t́m ư thơ…
“Choác!” Thằng Tân té ngửa! Tôi và Thiếu úy Học khựng lại. Một giây sau tôi và chú Học mới bóp được c̣ hai khẩu M16 theo phản xạ, nhắm về hướng bụi cây um tùm bên phải dốc. Đạn trúng tảng đá trong bụi rậm. Đạn văng ngược ra đường xoáy trong không khí, kêu “Tăng! Tăng!… Tằng! Tằng!…” rồi… “Xèo!” chui xuống cỏ. Toán viễn thám của Binh nhất Tuấn phóng nhanh lên dốc, vừa chạy vừa bắn. Toán viễn thám chiếm được đỉnh dốc, nhưng tên bắn tỉa đă cao bay. Viên đạn súng trường Nga trúng ngay giữa trán Triệu Tân. Cái nón sắt vỡ. Cái vỏ đạn bằng đồng đỏ c̣n nóng hổi, nằm trên mặt đất sau tảng đá. Chỉ với một viên đạn, Thượng Cộng đă loại ra ngoài ṿng chiến một viễn thám viên lợi hại của đơn vị tôi. Khi đại đội của Thiếu úy Học đă bố trí an ninh xong, chúng tôi tạm dừng để an táng BĐQ Triệu Tân. Thêm một cái thẻ bài mất chủ bị cất trong ba lô của Thiếu úy Hoàng, ĐĐTĐại đội Công Vụ của TĐ 82 BĐQ. T ôi cho liên đoàn chiếm lĩnh ngọn đồi để nghỉ qua đêm. Đêm đó toán viễn thám của Binh nhất Tuấn âm thầm lên đường. Điểm tới là triền dốc cuối ngọn đồi, cách chỗ chúng tôi dừng quân gần hai cây số. Mờ sáng hôm sau một quả Claymore nổ. Tên Thượng Cộng đang nửa đường lên dốc lănh nguyên trái ḿn cơ động, khẩu súng trường bá đỏ văng trên băi cỏ bên đường: Có vay có trả!
Sáng 2/4/75, vừa xuống tới chân dốc, tôi báo cho hai tiểu đoàn đi sau chuẩn bị đánh lạc hướng địch. Mười năm phục vụ ở Vùng 2, tôi đă hướng dẫn nhiều quân nhân dưới quyền thành thạo nghệ thuật xóa dấu vết khi di chuyển trong rừng. Hôm nay liên đoàn bị một phen vất vả. Đoàn quân đang đi hàng dọc th́ được lệnh dừng lại, chuyển thành hàng ngang, đâm thẳng xuống suối. Tới suối lại được lệnh lội hàng dọc trong ḷng suối. Lội được khoảng nửa cây số lại có lệnh chuyển hàng ngang leo lên đỉnh. Khi lên tới đỉnh, đoàn quân lại chuyển thành hàng dọc. Phải ma mănh như thế mới đánh lạc được sự theo dơi của Thượng Cộng. V́ di chuyển ṿng vo tránh vùng địch hiện diện nên chúng tôi dạt về hướng nam hơi xa. Buổi trưa, tôi thấy đồn Tân-Rai sừng sững bên phải trục tiến quân của ḿnh. Trên ngọn cột, lá cờ vàng ba sọc đỏ c̣n bay, nhưng đồn Tân-Rai đă bị bỏ trống. Chúng tôi chỉ đứng xa mà ngó chứ không dám leo lên. Ḿn bẫy ai mà lường cho được!
Tôi chuyển hướng về đông bắc. Xế chiều chúng tôi đă ở trên một đỉnh đồi nằm về hướng tây phi trường Con Hinh Đa. Thành phố BLao nằm dưới kia, ngay trước mặt! Từ trong phố vẳng lại tiếng trống múa lân “thùng! thùng!” Trước cửa vài ngôi nhà lác đác cờ bay, cờ nửa xanh, nửa đỏ, sao vàng. BLao đă rơi vào tay giặc! Chúng tôi đành quay sang hướng bắc, t́m đường lên Đức-Trọng, Liên-Khương. Không biết t́nh h́nh Đà-Lạt ra sao? Thôi th́, nước c̣n, ta cứ tát! Hi vọng, có c̣n hơn không!
Trưa 3/4/75, cánh quân đầu của tôi tới sát Liên tỉnh lộ 8B. Nơi này cách quận lỵ Di-Linh chừng năm cây số. Bên kia lộ là vườn trà. Trà bạt ngàn. Hướng nam con lộ là rừng tre. Chúng tôi núp trong rừng tre. Ngoài đường cơ giới địch chạy ầm ầm. Chờ tới gần tối, tôi đem theo Thiếu úy Học và một toán cận vệ xuống thám sát con đường. Khi chúng tôi đang kẹt giữa đường th́ một chiếc xe tải đi tới. Toán cận vệ BĐQ bắn đại vào đầu xe. Chiếc xe bể máy, xẹp lốp ngừng ngay giữa đường. Hai tên VC ngồi ghế trước chết ngay tại chỗ. Chúng tôi chưa kịp kiểm soát trên xe chứa ǵ th́ nghe tiếng đàn bà và trẻ con khóc ré lên trong xe. Xe chở toàn đàn bà và con nít! Tôi không biết v́ sao trong chiếc xe Zin của VC lại đầy con nít, đàn bà? Tôi gọi anh em rút êm về hướng cũ. Chúng tôi nhanh chân lui lại hướng nam chừng một cây số, ngủ trong rừng trà. Từ radio, đài BBC loan tin thành phố Đà-Lạt mất. Bây giờ chúng tôi chỉ c̣n cách bỏ núi, t́m đường ra biển.
Ngày 4/4/75, chúng tôi di chuyển thật chậm trong rừng thông và rừng cỏ hôi. Vùng này nằm giữa Di-Linh và Bảo-Lộc. Hướng tiến bây giờ là 1600 ly giác. Tôi hy vọng t́m được đường tới Liên-Đầm. Rồi từ Liên-Đầm lủi trong rừng tre chuồn về Gia-Bắc, xuống Thiện-Giáo. Trưa đó toán đi đầu của tôi mới ló đầu ra một trảng trống th́ nghe tiếng súng trường Nga bắn “tắc! bụp!” Có người đi săn gần đây! Vừa quẹo qua một cái cua đường ṃn, Binh nhất Yan đi đầu chạm trán một cán binh Việt-Cộng ngồi câu cá trên một cái cầu ván bắc ngang con rạch nhỏ. Tên Việt-Cộng không ngờ trong rừng c̣n có quân lính Việt-Nam Cộng-Hoà! Y há hốc mồm nh́n sững cái phù hiệu đầu cọp nhe nanh trên mũ sắt của Binh nhất Yan. “Đoàng!” thằng VC rớt xuống rạch. Nước trong rạch không sâu lắm, cỡ đầu người. Chúng tôi núp trong lùm tre nh́n về hướng đồn điền trà trước mặt. Trời! Việt-Cộng đâu mà nhiều thế! Lều bạt, xe cộ, pḥng không, đại bác, xe tank, xe xích kéo pháo và tải đạn, đậu sát rạt nhau theo các đường phân lô trà. Bóng người qua lại lố nhố. Đơn vị CSBV này cũng cỡ một E pháo (trung đoàn). Như vậy gần đây cũng phải có ít nhất là một E bộ binh yểm trợ cho cái E pháo nặng trước mắt tôi! Trên cái đồn điền trà bát ngát đó, chỗ nào cũng có bộ đội. Chúng nói chuyện ồn ào huyên náo tự nhiên như đang ở giữa Hà-Nội. Chẳng đứa nào để ư tới tiếng súng của Binh nhất Yan. Chắc chúng tưởng đó là tiếng súng bắn chim trời, gà rừng của đồng bọn? Trong t́nh cảnh đó, tôi thấy chỉ có cách áp dụng chước thứ ba mươi sáu trong tam thập lục kế là tốt nhất. Tôi ra dấu cho mọi người đánh bài tẩu mă. Anh Thiếu Tá Đàng đi đoạn hậu, c̣n ở tít đằng sau xa, chẳng hiểu ất giáp ǵ. Thấy tôi hối hả ra lệnh chém vè về nam càng nhanh càng tốt, anh cũng cho đàn em vắt gị lên cổ chạy theo tụi tôi. Sau đó, nương theo rừng thông, chúng tôi từ từ di chuyển ngược về nam. Tôi dự trù sẽ lấy Quốc lộ 20 làm chuẩn. Nếu thuận tiện chúng tôi đổ dốc xuống Thiện-Giáo. Nếu có trở ngại, chúng tôi sẽ cặp quốc lộ để về Gia-Kiệm. Đêm đó chúng tôi nghỉ chân trên một khu đồi thông. Hướng nam của chúng tôi là những rặng đồi cuối cùng của cao nguyên Bảo-Lộc. Tôi biết chắc chắn rằng bên trái những rặng đồi xanh đó là Đèo Chuối. Rừng chuối, rừng tre vùng này th́, eo ơi! vắt nhiều không đâu bằng!
Trưa 5/4/75, tôi đang suy tính làm cách nào an toàn đưa liên đoàn băng qua Quốc lộ 20 th́ trong tần số 47.70 có người gọi Thái Sơn. Tần số 47.70 là tần số đặc biệt của tôi, chỉ có tôi và Trung Tá Hoàng kim Thanh LĐT/LĐ24/BĐQ biết. Tần số này chỉ dùng trong trường hợp nguy biến hay bị thất lạc. Một chiếc L19 đang bay ở hướng đông. Chiếc L19 trực thuộc Quân đoàn 3. Trên tàu là Trung Tá BĐQ Nguyễn khoa Lộc (k18 VB); anh đang đi t́m tôi và liên đoàn. Anh Lộc cho tôi biết rằng Trung Tá Thanh đă về tới Sài-G̣n. Trước khi nhập viện chữa vết thương, Trung Tá Thanh đă tới tŕnh diện Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư Lệnh Quân khu 3 để báo cáo với ông Tướng rằng Thiếu Tá Vương mộng Long đang hướng dẫn Liên đoàn 24 BĐQ trên đường t́m về với quân bạn. Tướng Toàn ra lệnh cho Trung Tá Lộc đi t́m bốc chúng tôi về. Tôi loan báo tin này cho anh Đàng và anh Tài. Cả liên đoàn như hồi sinh. Sau khi anh Lộc bay đi, tôi cho quân tấp vào b́a rừng nghỉ qua đêm chờ mai ra băi bốc. Đêm đó là lần đầu tôi, anh Tài và anh Đàng đóng quân chung. Đó cũng là lần đầu chúng tôi có thời giờ kiểm điểm lại quân số một cách kỹ càng sau gần nửa tháng vất vả, gian nan. Tôi cám ơn Niên Trưởng Trần đ́nh Đàng đă phụ giúp tôi một cách rất đắc lực trong vai tṛ đoạn hậu vô cùng khó khăn. Với những đức tính can đảm, kiên nhẫn, chịu đựng, và khiêm nhường, Thiếu Tá Đàng là tấm gương tốt cho những người khác nh́n vào, noi theo. Quân số Liên đoàn 24 Biệt Động Quân c̣n duy tŕ toàn vẹn, phần lớn nhờ vào công lao của Niên Trưởng Trần đ́nh Đàng khóa 15 Vơ-Bị.
Ngày 6/4/75, Tiểu đoàn 82 BĐQ được Chinook của Quân đoàn 3 bốc ra phi trường Phan-Thiết. Đổ xăng xong, trực thăng chở thẳng chúng tôi về Xuân-Lộc tăng phái cho Tướng Lê minh Đảo (k10 VB), Tư Lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh. Hôm sau, hai tiểu đoàn 81 BĐQ và 63 BĐQ cũng được bốc ra Phan-Thiết và đặt thuộc quyền chỉ huy của Tiểu Khu B́nh Thuận.
Khoảng năm giờ chiều ngày 6 tháng Tư 1975, tôi đặt chân xuống phi trường Long-Khánh. Một cuộc lui binh nghiệt ngă đă đưa tôi tới chốn này. Quanh đây, tôi chỉ thấy một dải b́nh nguyên ngút ngàn đồng cỏ. T́m đâu những rặng Chư-Prong, Chư-Gô suốt mùa sương phủ, mây che? Tôi đă thực sự ĺa rừng, xa núi. TỪ NAY VĨNH BIỆT PLEIME!
Tôi hiểu rằng chiến trận không dừng ở đây. V́ tôi biết một tướng hàng đầu Cộng-Sản đă tuyên bố: “Muốn giải phóng Miền Nam, trước hết phải đặt bàn chân phải lên Tây-Nguyên, sau đó đặt bàn chân trái lên Duyên-Hải” (Vơ nguyên Giáp) Chúng tôi đă b́nh thản đợi chờ những trận đánh mới.
Tháng Tư 1975, những người lính của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân gốc Kinh, Thượng Rhadé, Jarai, Bana của căn cứ Biên Pḥng Plei-Me đă chiến đấu một cách tuyệt vọng, nhưng với một phong cách thật tuyệt vời. Chúng tôi đă không bỏ nhau. Theo chân nhau, chúng tôi đă ngă xuống, từng ngày. Máu chúng tôi đă tưới đẫm từng ngọn đồi, từng đoạn đường, từng khu phố để ngăn bước giặc tràn vào Xuân Lộc, Đồng Nai, Sài G̣n.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.