Liệu bạn có tin sống chết có số không? Tôi đang đi tìm câu trả lời qua bài viết này. Có rất nhiều điều chỉ trong tích tắc tôi vừa nghĩ ra đã quên ngay, vì trí nhớ đã cùn rồi, nhưng có chuyện mà dường như tôi nhớ như in trong đầu từng chi tiết.
Ảnh tàu chiến VNCH tại Cam Ranh trước 1975 (404 Tử Chiến Để Quê Hương Bất Tử)
Mỗi khi kể lại cứ tưởng nó đang mới xảy ra tức thì. Một trong những câu chuyện thoát chết trong đời lính có một câu chuyện cuối cùng mang nhiều dấu vết đạn thù, ai cũng hỏi tôi khi thấy vết sẹo trên mặt. Cũng chính câu chuyện này tôi bị tên cai tù trong trại tù Hoàng Liên Sơn ngoài Bắc hạch hỏi hành hạ tôi ngay hôm sau, khi tối đêm trước, tôi kể cho bạn tù cùng nằm chung chỗ nghe. Tôi nghĩ rằng con người ta:
Có thể có nhiều người không tin bốn chữ viết ở trên, bởi vì nó có tính cách trừu tượng. Nhưng đối với tôi là một sự thật, một chuyện có thật trong cuộc đời chinh chiến.
Từ ngày tôi bước vào Trung Tâm Tuyển Mộ và Nhập Ngũ số 2 tại NhaTrang, đến ngày tôi gục xuống bởi những viên đạn của kẻ thù trong thời điểm đau thương, đen tối của Miền Trung sắp rơi vào tay CS, có tổng cộng chín năm ba tháng mười lăm ngày của đời Lính.
Suốt thời gian không dài ấy của một người lính trận, tôi đã gần gũi nhiều với hiểm nguy. Đã có sáu lần tôi tưởng như phải chết, nhưng dường như có một phép mầu huyền diệu nào đó đã cứu tôi.
Mãi về sau, mới biết được do đứa em gái tôi dù đã chết tuy mới chỉ là cái bào thai ba tháng tuổi trong bụng Mẹ. Nó đã hiện về báo cho Ba Má tôi biết sự hiện diện của nó bên cạnh những bước chân tôi đi lúc hành quân. Và nó đã cứu tôi!
Có nhiều chuyện tôi tưởng đã chết, nhưng vẫn sống, một trong sáu câu chuyện tôi sắp kể ra đây là câu chuyện cuối cùng, vì cuộc chiến cũng chấm dứt. Nhiều người không bao giờ tin tôi còn sống. Bộ Chỉ Huy Pháo Binh trong Sài Gòn nhận được tin tôi bị thương và mất tích trong lúc Quy Nhơn thất thủ. Những ngày trong trại tù năm đầu tiên ở Long Giao và cả khi chuyển ra Bắc, tôi gặp lại những cấp chỉ huy của tôi, họ đều ngạc nhiên bảo rằng: “Ủa! Anh chết rồi mà…” hay ngay tại thành phố Houston, bạn bè vẫn cho rằng tôi đã chết, người khác thì nói đang ở Houston đây.
Câu chuyện hoàn toàn sự thật, tôi kể để chứng minh con người sống và chết đều có số, và từ những lần thoát chết buộc tôi phải tin như vậy.
Sống Chết Có Số
Tôi bước ra khỏi chiếc xe Jeep chỉ được hai phút, một trái 82 ly của địch rớt ngay tại chiếc xe tôi vừa đậu lại. Một tiếng nổ chát chúa, khói, bụi đất bốc lên cùng với cột lửa. Chiếc xe hoàn toàn hư hại thành đống sắt đen ngòm. Tại sao quả đạn lại rơi đúng ngay chiếc xe vừa trờ tới? Lòng không nao núng chút nào, địch pháo kích bằng súng cối 82 ly giống như gãi ngứa. Đã là pháo thủ thì rất quen mỗi khi bị pháo kích, chỉ có 130 ly mới ngại hơn như hồi Mùa Hè Đỏ Lửa trên Dakto, Tân Cảnh.
Tôi bước vội vào Trung Tâm Hành Quân Chi Khu Hoài Nhơn (Bồng Sơn) thuộc tỉnh Bình Định để tìm hiểu thêm về tình hình địch, mà hiện giờ đơn vị Pháo Binh 105 ly của tôi đóng sát quận, tầm hoạt động cứ phải thu ngắn dần. Mới đầu bắn với thuốc nạp bảy, tầm xa tối đa mười một cây số một trăm mét, rồi dần dần thuốc nạp năm, nạp ba, chỗ địch chỉ còn cách súng ba cây số rưỡi.
Từ khi chiến trường vùng này nổi sóng, đơn vị tôi đóng tại căn cứ Thiết Đính cũng nằm trong lãnh thổ quận Hoài Nhơn, có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho Trung Đoàn 47 Bộ Binh. Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn đang đóng trên đỉnh Đèo Phù Củ cách tôi mười cây số.
Áp lực địch nặng hơn, tôi được lệnh kéo về đóng trong khuôn viên của quận Hoài Nhơn (Bồng Sơn), và cũng yểm trợ trực tiếp cho Trung đoàn 47, gồm 4 tiểu đoàn Bộ Binh đang hành quân trong 4 cánh, đồng thời cũng yểm trợ cho các đơn vị Địa Phương Quân xung quanh quận.
Ngoài ra còn có một Pháo Đội B/105 ly đang đóng cạnh Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn, cũng yểm trợ trực tiếp cho 47 và cho cả tôi, nếu tôi bị tấn công. Tôi rời Trung Tâm Hành quân quận Hoài Nhơn trở về vị trí Pháo Đội bằng một chiếc xe khác do Pháo đội chạy đến đón.
Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực Trung Đoàn ra lệnh cho tôi thám sát vị trí để ZULU (di chuyển) đến một vị trí khác để cho việc tác xạ yểm trợ đơn vị bạn được thuận lợi hơn, và phải tiến về hướng Nam Bồng Sơn.
Tôi và một sĩ quan khác lái xe băng qua cầu Bồng sơn, cuối cùng tìm được một khoảng đất trống bên kia sông Lại Giang, ngay ngã Ba quốc lộ số I và đường đi lên quận Hoài Ân. Một miếng đất chỉ vừa đủ đặt 6 khẩu đại bác và đào một hầm đạn gần đó.
Những ngày hành quân của một đơn vị Pháo Binh, cực nhất không phải là tác xạ suốt ngày đêm, mà là vác đạn, mỗi lần được tiếp tế, phải vác từ trên xe xuống chất vào kho đạn, hoặc vác đạn lên xe trước khi di chuyển. Lệnh hầu như bất di bất dịch của các quan lớn hơn rằng: “Luôn luôn đạn pháo binh phải có kho đạn bảo vệ, tránh bị nổ kho đạn khi bị địch pháo kích.”
Vừa gióng hướng súng xong, báo cáo sẵn sàng tác xạ, thì đơn xin tác xạ tới tấp gởi về từ các toán Tiền Sát Viên Pháo Binh ngoài chiến trường. Các Sĩ Quan Đề Lô rất gan dạ, gọi bắn rất gần quân bạn, mà có lúc trên nguyên tắc không cho phép. Quang cảnh sinh hoạt của Pháo Đội rất náo nhiệt, tiếng nạp đạn, tiếng nổ viên đạn rời nòng súng liên tục vài giờ đồng hồ. Địch quân chưa phát giác kịp vị trí pháo của tôi để pháo kích. Chúng nó rất căm ghét pháo binh, luôn tìm mọi cách xóa sạch các vị trí pháo binh của phe ta.
Vừa chấm dứt một nhiệm vụ tác xạ cho toán Đề Lô của Tiểu Đoàn 3/47 thì nhận được lệnh từ Trung Tâm Phối hợp Hoả Lực Trung Đoàn, nơi có quyền hành phân phối hỏa lực và ra lệnh trực tiếp đến các căn cứ hoả lực phải thi hành. Họ ra lệnh cho tôi trên hệ thống vô tuyến: “Anh phải bắn sập cầu Bồng Sơn.” Tôi trả lời: “Hãy ra lệnh cho một Tiền Sát Viên nào điều chỉnh tác xạ.”
Sau nhiều loạt đạn điều chỉnh, một nhịp cầu Bồng sơn gần giữa cầu gục xuống. Tiếp theo đó tôi nhận lệnh Zu Lu vào phía hướng Nam lần nữa. Lại có dịp vác đạn lên xe, tôi không vác đạn nhưng tưởng những giọt mồ hôi cũng lấm tấm trên trán.
Pháo Đội rời vị trí Ngã Ba Sông Lại Giang, lòng bùi ngùi nhìn dòng nước lững lờ trôi, nhiều cồn cát phơi lưng giữa dòng sông hiu quạnh, xa xa chiếc cầu gãy một nhịp gục xuống dòng nước nhuốm màu tang thương chi lạ. Pháo đội kéo đến đóng dưới chân đèo Phù Củ, cạnh Bộ chỉ Huy Trung Đoàn cùng với một pháo đội 6 khẩu 105 ly khác cũng của Tiểu Đoàn tôi.
Từ đây tôi đủ tầm xa để yểm trợ thoải mái cho các cánh quân còn đang giao tranh bên kia cầu Bồng Sơn, chiếc cầu hiền hoà bắc ngang sông Lại Giang đã mang trong mình nhiều dấu tích chiến tranh từ thuở mùa hè đỏ lửa và trước đó, nay cũng vừa gẫy đi một nhịp.
Tôi báo cáo số đạn đã xuống tới dưới mức an toàn, nên bắt đầu hạn chế tác xạ, chỉ ưu tiên dành cho những cuộc chạm địch nặng. Đến khi mặt trời đã đi ngủ hẳn, Pháo Đội được lệnh thế lên đường di chuyển về Đồi Vạn An, chiếm đóng và ngủ đêm ở đó. Tôi thương những người lính quá chừng; phải vác đạn, những quả đạn được đóng kín trong thùng gỗ pháo binh, hai quả một thùng nặng 50 ký lô.
Lệnh ban ra biết làm sao mà không thi hành cho lính bớt vất vả. Vừa tác xạ, vừa vác đạn chất lên xe để 30 phút nữa thì “ZuLu.”
Buổi tối tôi liều mạng không cho lệnh vác đạn xuống, cứ để nguyên trên xe chở đạn, cho ngày mai đỡ cực. Đêm hôm ấy địch cũng không theo kịp tôi và không phát giác vị trí đóng quân, nên không bị pháo kích. Cơ thể nhừ nát mệt mỏi, ngủ gật gù tạm dưới cái hầm lính vừa đào, chất vài thùng đạn trống bỏ đất bên trong che chắn nếu bị pháo kích thình lình trong lúc đang ngủ. Lại có lệnh tiến về hướng Nam, người không tỉnh táo và thi hành như cái máy. Tôi ra lệnh thế lên đường.
Vừa đặt chân đến Đèo Nhông, Việt Cộng đã chào đón ngay bằng hoả tiển 122 ly và phòng không của địch, một khẩu đại bác bị bể bánh xe. Tất cả súng được rời khỏi xe, và gióng hướng súng tác xạ về hướng xuất phát hoả tiển 122 ly. Cũng may có quan sát viên phi cơ trên trời điều chỉnh tác xạ nên khẩu 122 đã bị khóa họng nhưng phải mất đến một ngày mới giải toả được cái chốt tại Đèo Nhông.
Khi giải toả được con đường từ Đèo Nhông về Phù Mỹ, trời tối như mực, cả đoàn xe 12 chiếc GMC kéo súng và chở quân dụng, đạn đại bác, ba xe Dodge truyền tin, và ba chiếc Jeep lăn bánh về hướng Căn Cứ Trà Quang (Phù Mỹ). Dân chúng di tản nằm kẹt ở đây đã nhiều ngày, đói khát, uà leo lên các xe của Pháo Đội mong được quá giang đến đâu hay đến đó. Không thể ngăn cản được, thôi thì liều mạng chấp nhận còn hơn bỏ họ ở lại đây, mặc dù tôi biết là mình đang hành quân chứ đâu phải di tản, một lát nữa đây nếu đụng trận thì làm sao lo được cho dân.
Đoàn xe chạy rất chậm vì không tin tưởng trên đoạn đường đang đi, và để giữ yếu tố bí mật, Đại Tá Lê Cầu, Trung Đoàn Trưởng, giờ này coi như vị Tư Lệnh Chiến Trường tại đây ra lệnh không mở đèn xe. Phải có một người lính cầm đèn Pin đi thụt lùi ra dấu cho mỗi chiếc xe.
Đi hành quân, vừa đi vừa đánh mà sao giống đi ăn trộm vậy không biết, nhưng tinh thần rất an tâm không lo sợ điều gì có thể xảy ra bất ngờ. Tôi tin tưởng con người nếu phải chết thì đó là số mệnh. Đang giao chiến đạn tránh ta chứ ta không thể nào ta tránh đạn.
Chúng tôi vào đến Phù Mỹ cũng quá nửa đêm, vừa quẹo vào cổng căn cứ Trà Quang, một căn cứ của Trung Đoàn 42 Bộ Binh phe ta. Một khẩu đại bác nữa bị trúng đạn pháo kích 82 ly của địch, chỉ làm xẹp bánh. Vẫn tiếp tục vào trong căn cứ rồi mới tính. Pháo thì cứ pháo, ta thì cứ đi, trời kêu ai nấy dạ mà.
Lúc vào tối cổng căn cứ đoàn xe bị pháo kích, nhanh như chớp gần cả trăm người dân nhảy xuống xe, và biến đâu mất hết. Vẫn phải gióng hướng súng quay ngược ra hướng bắc bắn yểm trợ cho các Tiểu Đoàn còn phía ngoài đó.
Ba ngày tại căn cứ Trà Quang, vì để bảo toàn lực lượng không cho địch phát giác mình đóng quân chỗ nào, nên mỗi sáng sớm phải kéo súng ra khỏi căn cứ và chiếm đóng vị trí tại mỗi ngày khác nhau để tiếp tục yểm trợ quân bạn.
Sáng nay cũng như những buổi sáng khác, sau khi binh sĩ cơm nước xong, chuẩn bị kéo súng đến chỗ khác để sẵn sàng tác xạ, người âm thoại viên đến chào và nói: “Trình Đại Úy có Sao Băng muốn gặp.”
Tôi hiểu là có chuyện quan trọng nên muốn gặp trực tiếp. Ông là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 155 ly (không phải của tôi), nhưng là vị Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Phối hợp Hoả Lực Trung Đoàn 47 Bộ Binh, mà tôi đang dưới quyền chỉ huy hành quân của ông. Tôi bước vội vào căn hầm truyền tin cầm ống liên hợp: “Sao Băng! Đây Mộc Tinh tôi nghe.”
Ông chỉ Huy Trưởng ra lệnh: “Anh hướng những con gà của anh về hướng tôi sắp đi và sẵn sàng gáy khi cần, giữ yên vị trí, và sẽ ZuLu khi có lệnh.” Tôi hiểu rõ rằng Trung Đoàn đang chuẩn bị di chuyển về hướng Nam, và tôi không phải kéo súng ra chỗ khác. Ở tại chỗ, sẵn sàng bắn yểm trợ cho ông ta khi đụng địch. Sau đó sẽ thế lên đường khi có lệnh của ông ta.
Tôi tập họp hàng quân và ban lệnh mới cũng như sắp xếp đội hình Pháo Đội khi di chuyển, và nhắc lại tư thế tác chiến cá nhân khi bị phục kích. Tôi chỉ định Trung Uý Lê Văn Sinh, Pháo đội Phó kiêm Sĩ Quan Tác xạ Pháo Đội, đi sau cùng đoàn xe để quan sát mọi diễn biến phía sau. Trung Úy Sinh là bạn học cùng trường Nam Tiểu học Nha Trang sau tôi ba lớp, về sau cũng học Võ Tánh Nha Trang. Sinh là em ruột của vị Tiếu Đoàn Phó Lê Văn Nhanh mà tôi đang dưới quyền. Lê Văn Sinh tốt nghiệp khoá 26 Thủ Đức được về Pháo Đội của tôi cũng vì ông Tiểu Đoàn Phó này muốn gởi cho tôi trông chừng giùm vì người em hay nhậu và quậy quá. Tôi đối xử với Sinh trong tình bạn ngày xưa nhiều hơn là thuộc cấp.
Đoàn xe và quân Bộ Binh đang tiến vào Nam rất chậm vì lục soát hai bên đường. Tôi chờ mãi không thấy cho lệnh tôi “thế lên đường.” Tôi sốt ruột nên bốc máy gọi phía trước: “Hồng Hà! Đây Mộc Tinh! Tôi vẫn ngủ hay đi kiếm ăn?” Bên kia trả lời vội vã như chợt nhớ ra điều gì: “Anh đi đi.”
Thế là cả Pháo Đội nhổ neo, vừa rời Trà Quang chỉ ít lâu, lúc ngang qua Nhà Thờ Đổ thì Pháo Đội bị phục kích. Nhiều loạt đạn AK từ bên trong và trên triền cao hơn mặt đường của cái Nhà Thờ cũ kỷ đổ nát hoang tàn bắn ra. Bọn địch đang núp trong ấy, chỗ này rất tiện lợi cho việc phục kích, và thường xuyên chúng phục kích đoàn xe. Nó trở thành một địa danh nổi tiếng nguy hiểm.
Buộc lòng chúng tôi ngừng xe lại và tất cả nhào xuống hai bên lề đường với tư thế nằm bắn trả. Bọn địch núp bên sau các bờ tường gạch có lẽ an toàn, chắc không hề hấn gì, vả lại các pháo thủ không chuyên nghề đánh nhau như bộ binh. Tôi gọi máy báo cho phía trước (chắc đã xa ngút ngàn rồi) biết tôi bị phục kích, và hỏi phía trước có an toàn hay không. Họ trả lời cứ đi.
Tôi nghĩ mình nằm lại đây chẳng ích lợi gì, nguyên tắc bảo vệ cho Pháo Binh trong lúc chiếm đóng và di chuyển là phải có Bộ Binh hoặc Thiết Giáp. Bây giờ thì chỉ một mình, thật nguy hiểm. Tôi ra lệnh tiếp tục di chuyển, mà không cần biết tổn thất địch và ta. Không nghe Trung úy Sinh báo cáo gì hết.
Sau khi bị phục kích dường như các tài xế sợ hơn nên tăng tốc độ hầu tránh được những vụ bắn sẻ hai bên đường. Tôi nhìn thấy cái kim đồng hồ tốc độ của chiếc Jeep gần như đến hết chỗ tối đa. Xe tôi đi đầu, trên xe có tài xế, tôi và ba người hộ tống ngồi phía sau. Trên tay ai cũng lăm lăm khẩu M16 trừ tài xế đang căng thẳng tinh thần.
Khi đến gần Cầu Cương, tài xế của tôi quên bẵng đi là chiếc cầu này đã bị VC giật mìn sập từ lâu; nguyên một nhịp đã nằm hẳn xuống dòng nước. Công Chánh đã cho ủi một con đường đất tạm chạy vòng phía bên trái cầu, hai bên đường đất tạm có hai mương thoát nước lớn và sâu, cỏ lau sậy mọc um tùm. Phía bên kia đầu cầu có một cái Lô Cốt dành cho lính Địa Phương Quân trú đóng, và canh giữ cầu 24/ 24.
Nhưng giờ thì không còn lính Địa Phương Quân trong đó nữa, mà được thay thế bằng 8 tên Việt Cộng. Khi Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 47 đi ngang qua, vì lực lượng mạnh quá nên VC trong Lô Cốt trốn. Bộ Binh ta cũng không phát giác. Đến khi chỉ một mình đơn vị tôi đến thì họ ra tay.
Chiếc xe của tôi chạy đầu với tốc độ quá nhanh, đến sát đầu cầu mà vẫn không thấy tài xế giảm tốc độ và cũng không có dấu hiệu gì là quẹo cua xuống đường đất chạy tạm. Tôi thét lớn: “Cầu gãy” và nhanh như chớp tôi đưa tay bẻ tay lái sang trái thay thế tài xế. Chiếc xe vì quẹo gấp hay do một quả B40 từ đầu cầu bên kia bắn sang, chiếc xe lật nằm nghiêng. Tất cả mọi người đều văng ra khỏi xe, tôi không kịp nhìn thấy ai nữa. Cũng may nhờ bẻ quẹo tay lái, chứ nếu không thì chiếc xe lao xuống cầu, chắc là chết ngay.
Tôi có mặc chiếc áo giáp nhưng không kéo dây kéo phía trước để bảo vệ bụng và ngực. Tôi nhìn thấy máu đầy phía trước áo vì mảnh B40 ghim thẳng vào bụng và ngực. Ở cổ tay trái một vết thương khá to. Máu đang chảy dưới đùi phải lổ chổ nhiều vết thương, máu cũng đang ứa ra và chiếc quần trận đã rách.
Có lẽ vì mảnh đạn đến quá nhanh chăng, nên tôi không biết đau.
Tôi biết rõ đã bị thương nhiều chỗ trên cơ thể lúc ấy, tuy có một chỗ ở trên trán giữa hai mắt mãi về sau mới biết. Như một phản xạ tự nhiên tôi chụp vội cây súng, nón sắt thì không tìm thấy ở đâu; tôi lao mình vào con đường mương trước mặt và bò về hướng cái Lô Cốt. Khi đến gần còn chừng bảy tám mét, tôi dừng lại. Tôi thấy thật rõ từng tên VC một đang ngóc đầu lên để bắn về phía pháo đội, hoặc hụp xuống trốn mỗi khi lính tôi bắn trả.
Tôi nâng khẩu M16 lên nhắm bắn, tin chắc như đinh đóng cột rằng sẽ trúng đích vì quá gần. Nhưng ác thay, tay trái tôi bị một mảnh B40 phá phần thịt thành một lổ lớn quá, máu vẫn chảy, không cách chi nâng khẩu súng lên nổi. Tôi đành gục đầu xuống nằm đó, chắc vì máu đã ra nhiều nên bắt đầu thấy mệt.
Mãi một lúc sau tôi ngóc đầu lên nhìn về hướng chiếc xe thì thấy người lính của tôi, anh Kiều Xuân Ba đang bò tiến đến chiếc xe Jeep tìm tôi. Kiều Xuân Ba là Hạ Sĩ Nhất tài xế của ông Trung tá Tiểu Đoàn Trưởng, vì có tội ham đánh bài nên bị đưa ra Pháo đội tôi. Anh ta rất dễ thương, tướng người cao lớn hiền lành. Mới đầu tôi để anh ta làm tài xế cho xe tôi, bất cứ giờ giấc nào trong đêm tôi đi tuần anh ta đều cầm súng đi theo. Nhưng anh cũng không quên tật ham đánh bài nên tôi đã đưa ra lái xe kéo súng.
Kiều Xuân Ba nghe tiếng gọi của tôi, quay lại nhìn thấy và rút quả lựu đạn ném ra phía phải, rồi chạy thục mạng về phía tôi. Tôi nằm ngữa quay đầu về hướng Lô Cốt. Kiều Xuân Ba ngồi ngang vai tôi, quay lưng về phía Lô Cốt, rút cuộn băng cá nhân trên chiếc nón sắt băng vết thương trên cổ tay tôi, vết thương bầy nhầy và đầy máu còn đang chảy. Khi mối cuối cùng của cuộn băng chưa kịp nhét vào, thì tôi nghe một tiếng “bịch.” Kiều Xuân Ba ngã xuống chết ngay tức khắc. Trời ơi! Ba đã chết rồi. Anh ta chết vì tôi, tôi xúc động quá chừng!
Như một phản ứng tự nhiên, tôi cố ngồi dậy xem từ hướng nào bắn Kiều Xuân Ba. Tức thì tôi nghe một tiếng “chát” rất lớn bên tai. Tôi chỉ kịp chụp tay vào chỗ vừa bị đau trên ót sau tai trái, tay tôi cảm thấy ướt, tôi biết ngay là mình bị thương. Liền ngay khi ấy tôi hiểu có lẽ tôi sẽ chết vì vết thương này. Mắt hoàn toàn không nhìn thấy gì nữa, chỉ một màn đen, tai cũng không nghe tiếng động. Tôi nghĩ ngay đến người vợ đang ở Sài Gòn, dường như tôi nói thầm: “Anh chết em à.” Và tôi biết trước giờ mình phải chết, ngay tức thì sau đó tôi ngã xuống và bất tỉnh.
Mọi sự diễn biến rất nhanh trong tích tắc, tôi đã hiểu thế nào là chết. Bị bắn hoàn toàn không có cảm giác đau đớn gì cả, như không có chuyện gì xảy ra. Tôi ngã xuống và xem như vĩnh biệt, tai tôi hoàn toàn không nghe một tiếng động, tôi ngủ một giấc ngon lành êm ả, không biết mọi thứ xung quanh.
Bỗng nhiên, tôi tỉnh dậy sau bao lâu tôi không hề biết. Mắt đã nhìn thấy cảnh vật xung quanh, tai đang nghe tiếng súng nổ, hai bên vẫn còn đang bắn nhau. Dường như những tên VC trong Lô Cốt vẫn còn nguyên thì phải. Thì ra mình chỉ bất tỉnh, những viên đạn có lẽ chạm mạnh thần kinh tai và mắt nên chỉ làm tê liệt một thời gian ngắn. Mãi sau này tôi mới biết có ba lỗ đạn, mỗi lỗ cách nhau khoảng một phân rưỡi, hướng đi vô sau ót gần lỗ tai trái, như vậy là có ba viên AK. Nhưng ba viên đạn cùng đi ra chung một lỗ bên má trái gần xương hàm trái, ba viên đạn xuyên phá tạo thành một lỗ lớn trên má.
Tôi tin rằng có một phép mầu nào đó. Một bàn tay vô hình đã làm các viên đạn chệch hướng không đi thẳng vào óc, nên tôi vẫn còn sống. Ai nhìn thấy vết thương từ sau ót xuyên qua phía trước đều kinh ngạc:“Vậy mà không chết!” Tôi cám ơn Người đã cứu tôi.
Khi nhận biết hai bên vẫn còn đánh nhau, chưa giải quyết được gì, tôi cũng nhớ lại rằng mình không còn cầm cây M16 để bắn được. Tôi rút cây Rulô vẫn còn bên hông ra cầm trên tay để tự vệ. Tôi nghĩ bụng, nếu tụi nó xáp tới, tôi sẽ bắn chúng và tự sát.
Nằm hoài chỗ ấy cũng thấy không ổn, tôi tự hỏi sao mình không bò lui lại chỗ Pháo đội mình. Tôi nhớ lại cái thế bò hỏa lực nằm ngữa đã học trong trường Thủ Đức, thế là bắt đầu bò len lỏi dưới những tàn lau sậy, mắt vẫn dõi trông cái Lô Cốt. Khi nào thấy bọn nó chui ra khỏi Lô Cốt thì tôi ngưng bò để chúng không nhìn thấy.
Cuối cùng tôi cũng đến được chỗ chiếc xe Jeep còn nằm lật nghiêng, chiếc máy VRC-47 trên xe vẫn còn tiếng “sôi” rè rè. Tôi bò xung quanh xe tìm cái ống liên hợp, nhưng máy đã không còn liên lạc được.
Trong khi loay hoay ở chỗ này thì lính tôi thấy được và họ la lớn “Đại Úy bị thương! Đại Úy bị thương!” Họ tập trung hỏa lực uy hiếp địch, và một toán khác nhào tới khiêng tôi ra phiá sau. Họ đặt tôi dưới lề đường sát bờ ruộng thấp hơn mặt đường khuất tầm quan sát của quân địch, tiếng người thượng sĩ thường vụ Pháo Đội hò hét điều động bắn trả lẫn với tiếng gọi Hạ Sĩ Mai, y tá tới băng bó vết thương cho tôi. Tôi nói không mở mắt: “Trung Uý Sinh đâu rồi.”
Có ai đó trả lời: “Dạ! Trung Úy ở phía sau.” Tôi bảo: “Gọi Trung Úy Sinh đến đây và mang lại đây cái máy PRC 25.” Một lúc ngay sau đó Trung Uý Sinh đến nói không lớn “Tôi đây Đại Úy.” Tôi cũng không mở mắt nói với anh Sinh: “Sao anh không trực xạ bọn chúng? Nó ở hết trong cái Lô Cốt kia kìa.”
Đại bác 105 ly có thể trực xạ 900 mét (bắn thẳng) rất chính xác, khi hạ nòng và nhìn mục tiêu xuyên qua nòng súng còn được huống hồ gì cái Lô Cốt chỉ cách 50 mét đối với khẩu độ đang nằm đầu tiên. Chỉ cần một quả cũng đủ tan xác cái Lô Cốt, thế mà chúng tôi lại để nó sống khá lâu từ lúc bị bắn quả B40 đầu tiên đến giờ, làm chết Kiều Xuân Ba và 8 người khác bị thương.
Trong lúc Trung Uý Sinh chạy lo trực xạ , tôi bảo gọi Trung Tâm Phối Hợp Hoả Lực đang ở phía trước . Tôi cầm ống liên hợp: “Hồng Hà! Đây Mộc Tinh (danh hiệu truyền tin riêng tên tôi).” Họ trả lời “Anh nói đi. Đi tới đâu rồi?”
Tôi nói “Hồng Hà! Đây Mộc Tinh, nhà tôi đang bị Phú Quốc Kinh Kỳ (đang bị phục Kích ).”
Đầu máy bên kia bảo: “Anh cần gì cho biết?”
— “Tôi cần trực thăng võ trang yểm trợ”
— “Giờ này không còn trực thăng nào nữa”
Tôi bảo “Thế thì cho mấy con Gà cồ gáy cho tôi!”
— “Ở đâu?”
— “Hai bên Cầu Cương cách 150 mét.”
Tôi sợ bọn nó xung phong nên phải dùng pháo binh, một Pháo đội B đang di chuyển cùng với Trung đoàn. Chỉ có vài phút sau đạn được gởi cho tôi, trong lúc ấy cái Lô cốt đã được san bằng và 8 tên VC cũng tiêu diêu rồi. Những người lính cầm những cây AK đến khoe với tôi, tôi nhận ra tiếng nói một trong những người ấy qua giọng Bắc Kỳ của Trung Sĩ Linh, Hạ Sĩ Quan Đạn dược “Tụi nó chết hết rồi Đại Úy à, đây súng tụi nó tụi em lấy nè.” Tôi cố mở mắt ra nhìn cho mấy đứa em vui lòng.
Tôi đang mừng vì đã giải quyết xong cái Lô Cốt, đầu máy phía trước gọi tôi: “Mộc Tinh! Đây Sao Băng gọi.”
Người lính đưa máy cho tôi, tôi nghe tiếng ông Trung Tá Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Phối Hợp Hoả Lực ra lệnh: “Anh dùng M14 đi. Ở phía trước cũng như vậy.” Xử dụng M14 là một mệnh lệnh mà cả đời một pháo thủ không bao giờ muốn nhận. Nó làm tôi xây sẫm mặt mày và tuyệt vọng. Đây là lần đầu tiên trong đời làm lính Pháo Binh tôi nhận lệnh này. Bỏ lựu đạn M14 vô nòng súng phá hủy đại bác để địch không còn xử dụng được nữa. Có nghĩa rằng mạnh ai nấy chạy?
Tại sao phải đến tình huống như thế này? Cái giây phút này làm rã rời tâm trí và thân xác, đau đớn gấp trăm lần hơn bị thương. Tôi vừa hiểu được chuyện gì sắp xảy ra kế tiếp. Tôi cho gọi Trung Úy Pháo đội Phó tới và ra lệnh:
— “Anh Sinh! Anh dùng lưụ đạn M14 đi. Tôi lập lại một lần nữa mệnh lệnh rất quan trọng này. Anh nghe rõ không, anh dùng M14.”
Sinh chạy đi lo liệu mọi thứ, và trở lại gặp tôi. Như chợt nhớ ra rằng Sinh phải thay tôi lo cho cả Pháo Đội tôi bảo Sinh:
— “Anh rút trong túi quần bên đùi phải tôi, tiền nuôi ăn binh sĩ 100.000 đồng. Cố gắng đưa anh em về đến hậu cứ Tiểu đoàn an toàn. Còn tôi có lẽ phải tản thương.”
Sinh kéo số tiền ra khỏi túi quần, máu dính đầy tiền, vì vết thương tại đùi chảy náu xuống cái túi gần đó. Sinh nói trong tiếng như khóc vì xúc động sắp xa tôi, và sắp nhận lãnh một nhiệm vụ nặng nề hơn trong niềm tuyệt vọng đã phá súng. Pháo Thủ mà không đại bác thì còn gì Pháo Thủ và có lẽ vì tiền đầy máu Sinh nói không ra lời:
— “Trời ơi! Tiền máu không à Đại Uý ơi!”
Tôi hỏi Sinh “Anh em có ai sao không?”
— “Dạ có Kiều Xuân Ba chết, Thiếu Uý Đúng bị thương, và 8 binh sĩ nữa.” Sinh kể tên những người lính và Hạ Sĩ Quan bị thương, trong đó có tất cả 4 người trong xe tôi, không kể tôi vì đạn B40 ngay từ đầu.
Tôi nghe tiếng người Trung Uý Pháo Đội Phó thay tôi ra lệnh binh sĩ dưới quyền:
— “Tìm một chiếc xe nào còn có thể chạy được, chở Đại Uý, Thiếu Úy Đúng và những anh em bị thương chạy tìm Trung Đoàn để tản thương. Còn các anh em còn lại bỏ tất cả quân dụng ở lại, chỉ mang theo súng đạn cá nhân và đi theo tôi trong đội hình.”
Tôi được bỏ nằm trên chiếc băng ca đặt dọc theo thùng xe GMC. Những người khác cũng nằm xung quanh trên sàn xe. Hạ Sĩ Nhứt-Y tá thì được giữ lại đi cùng pháo đội. Tôi được mang theo một bịch nước biển và túi bông gòn, cứ chạy chừng 15 phút tài xế ngừng lại leo lên xe phía sau lấy bông gòn thấm nước biển chậm vào môi cho tôi đỡ khát nước, và tuyệt đối không cho tôi uống nước; bị ra máu nhiều nếu uống nước sẽ dễ chết.
Tôi cứ đinh ninh rằng xe chở tôi gặp Trung Đoàn sẽ xin trực thăng tản thương, ai ngờ lúc ấy là giờ phút vĩnh biệt tất cả anh em binh sĩ. Đâu có ngờ là sẽ mất luôn Miền Nam đúng một tháng sau. Ngày tôi bị thương là 31/ 3. Ngày mai mất Bình Định.
Sau nhiều giờ đồng hồ, chiếc xe GMC chở tôi và các anh em khác đã bắt gặp Trung Đoàn. Tôi bị chứng ngũ sắc hoa mắt chỉ thấy toàn những màu xanh đỏ tím vàng mà không còn nhìn thấy gì hết, nhưng tai vẫn nghe được. Thì ra Trung Đoàn cũng bị chận lại không di chuyển dễ dàng. Không biết lúc ấy Bộ Binh còn hàng ngũ và theo lệnh chỉ huy của cấp trên hay không. Tôi nghe thấy tiếng ông Đại Tá Lê Cầu, Trung Đoàn Trưởng 47, người rất thân thiện leo lên xe thăm tôi, và ra lệnh cho thuộc cấp “Khiêng tất cả anh em Pháo Binh qua bên kia sông và bỏ lên chiếc xe của mình tiếp tục chở họ đi.”
Tôi cũng nghe lần lượt tiếng nói của Đại Úy Chương, Sĩ Quan Trực của Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực Trung Đoàn, của ông Trung Tá Nguyễn Trùng Hanh, Tiểu Đoàn Trưởng tiểu Đoàn 220 PB và các người khác leo lên hỏi thăm tôi. Không ngờ lần ấy là lần sau cùng không bao giờ gặp nữa.
Lính Bộ Binh đã khiêng tất cả chúng tôi qua bên kia sông bỏ lên một chiếc xe khác. Tài xế bây giờ không còn là lính của tôi nữa, coi như tôi thực sự “bị lạc đàn” bởi vì chỉ có lính của mình mới lo cho mình nặng tình hơn là khác binh chủng.
Chiếc xe chaỵ cũng được khá lâu trên những miếng đất gồ ghề (không còn được chạy trên quốc lộ nữa). Bỗng chiếc xe dừng lại, im lặng một lúc, tôi nghe tiếng nói lớn “Bắn vô xe! Bắn vô xe!” Tôi hiểu người tài xế Bộ Binh này muốn bỏ xe chạy bộ vì không thể lái được nữa, hay là địch đang bao vây? Tôi sợ bắn vào xe sẽ chết người trên xe nên tôi la lớn “Đừng bắn! Có người trên xe.”
Giây phút này tôi thực sự bị đau điếng trong lòng, vì tôi biết chắc rằng không còn ai lo cho tôi nữa. Lính Pháo Binh của tôi đã xa từ sáng. Lính Bộ Binh họ lo thân họ chưa xong thì lấy gì lo cho tôi. Thà rằng tôi bị viên đạn đi thẳng vào đầu và chết ngay lúc sáng thì đỡ đau khổ hơn là tôi bị bỏ rơi lại chiến trường lúc này. Máu và huyết tương vẫn chảy ra ướt lưng áo, nhất là vết thương ở sau cổ. Tâm trạng tuyệt vọng hoàn toàn. Tôi biết chắc bị ở lại đây, đến ngày mai rồi cũng chết vì đói khát, vì nhiễm trùng, nếu VC không bắn khi gặp.
Như một bản năng sinh tồn, tôi cố lết tới gần thành ghế chiếc xe GMC lấy hai tay dùng hết sức lực kéo thân người nhô cao lên để nhìn ra bên hông xe, mắt chỉ thấy ngũ sắc nhiều màu quay cuồng, không thấy rõ, chỉ thấy từng đoàn dập dìu bóng đen chạy ngang qua xe dưới mặt đất.
Tôi mệt quá và gục đầu lên thành ghế xe coi như chấp nhận thương đau, rồi thiếp đi.
Bỗng có tiếng kêu “Trời ơi! Đại Úy, sao Đại Úy nằm đây?” Tôi còn nhận biết ra tiếng của Hạ sĩ Nhứt Loan, người Nam, hay làm thịt chó trong đơn vị. Một mình Loan tình cờ chạy ngang qua đây và nhìn thấy tôi gục trên thành ghế xe.
Một điều rất may mắn đến cho tôi rằng tôi gặp được người lính của tôi và ai xui khiến sao để nhìn thấy và đem hết lòng cứu tôi lúc bấy giờ. Giờ phút này chỉ có tình nghĩa, lương tâm chứ không phải bổn phận của thuộc cấp. Về sau tôi hiểu em gái tôi xui khiến để người Hạ Sĩ này nhìn thấy tôi, và đem hết lòng ra cứu giúp.
Loan lẩm bẩm nói một mình như trách ai đó “Sao tụi mày đành bỏ Đại Úy một mình ở đây?”, rồi Loan nói lớn hơn: “Đại Úy lết ra đây tôi cõng Đại Úy đi, lết ra lết ra!” Loan nói trong tiếng thở dốc vì chạy bộ đã mệt. Tôi cũng cố gắng lết ra tới cửa sau xe, tôi nói cho Loan nghe rõ “Sao mà Loan cõng cho nổi đường còn xa lắm.”
Loan bảo “Kệ nó tới đâu hay tới đó, chắc cũng phải ba bốn chục cây số nữa mới tới Quy Nhơn.”
Loan đưa lưng vào bảo tôi ôm cổ hắn, chỉ ôm một tay, tay còn lại bị thương không nhúc nhích gì được. Loan vòng một tay ra sau mông, bợ mông tôi và bước đi lạng quạng. Tôi biết là không thể nào cõng như thế này lâu hơn được. Tôi bị trì xuống vì một tay không giữ nỗi thân tôi. Một tay của Loan cũng không nâng tôi lên hoài được, cứ tụt xuống chốc chốc Loan ngừng lại sốc người tôi lên. Một tay Loan cầm khẩu M16, tôi nói “Sao không bỏ súng đi.” Hắn nói “Để tử thủ Đại Úy ạ.” Giữa trưa nắng chang chang, người đẫm mồ hôi nhưng Loan không hề nao núng, Loan không than một lời. Tôi nhắm nghiền mắt và phó thác cho định mệnh.
May mắn làm sao, tình cờ Trung Uý Sinh nhìn thấy Loan đang cõng tôi, Sinh cũng đang đứng giữa miếng đất hoang có nhiều bụi cây, Sinh đi một mình. Tôi nghe Sinh nói “Để Đại Uý xuống! Để Đại Úy xuống nằm đây, tôi đi tìm lính của mình.”
Một lúc sau Sinh dẫn về sáu người lính trong Pháo Đội, tôi cũng không nhìn được là ai. Sinh nói “Để tôi đi tìm cái võng.” Đám lính vây quanh tôi và hỏi han nói chuyện với Loan, không nói với tôi . Máu và huyết tương vẫn tiếp tục ứa ra, các miêng băng vết thương khi sáng lúc bị thương bây giờ có cái còn dính cái rớt lòng thòng. Hạ Sĩ Y tá giờ này đã thất lạc đâu rồi.
Sinh đi đâu khá lâu, mang về một cái võng nylon. Hai người khiêng bỏ tôi vào võng xong, Trung Uý Sinh nói như ra lệnh “Các anh hai người một, khiêng Đại Uý đi, đến khi nào mệt thì đổi cặp khác.”
Tôi biết chắc lần này sẽ không hy vọng gì sống để trở về Nha Trang gặp Cha Mẹ hay về Sài Gòn gặp được vợ mình nữa. Con đường từ đây đến Quy Nhơn còn quá xa, chắc cũng phải 35 cây số nữa. Tôi muốn Sinh là người chứng kiến trực tiếp kể lại cho vợ tôi nghe cảnh tượng cuối cùng của tôi sau khi tôi chết. Tôi bảo Sinh: “Anh Sinh, anh lấy cái bóp trong túi tôi, trong đó có sáu ngàn và giấy tờ, có hai tấm hình của vợ tôi, anh đem về Sài Gòn và kể lại cho vơ tôi biết trong giờ cuối.”
Sinh xúc động thật sự, tay cầm cái bóp mà muốn khóc nghẹn lại: “Dạ tôi hứa.” Cảnh tượng này y chang như trong phim, hay màn kịch trước giờ vĩnh biệt vậy. Tôi cố nhớ lại nhiều người thân của mình.
Đoàn người gồm tất cả tám người lần lượt khiêng tôi, lúc lên dốc, lúc xuống suối lội nước bì bỏm. Cứ mỗi lần xuống dốc, thân thể tôi tụt theo với cái võng nghiêng xuống, lúc lên dốc cũng tụt ra sau. Sinh đã tìm ra đâu một cái mền rằn ri nylon đắp cho tôi khỏi nắng. Không biết ai đã cho lon sữa bò đặc còn rất ít, Sinh đưa cho tôi. Cái miệng của tôi hả ra để nút sữa bắt đầu thấy khó khăn vì đau, có lẽ chỗ ba viên AK thoát ra làm phá thủng má trái một lỗ khá lớn.
Từ lúc được khiêng võng cũng khoảng giữa trưa, đến 5 giờ chiều thì vào đến vòng đai ngoài cùng của phi trường Phú Cát. Một phi trường quân sự khá lớn của Mỹ để lại dùng cho việc tiếp tế cả vùng Bắc Bình Định. Còn đang ngoài hàng rào kẽm gai, có 3 chiếc C-130 lần lượt cất cánh rời khỏi Phi đạo trong hàng ngàn tiếng súng phòng không của địch bắn lên từ vòng ngoài phi trường. Cộng Quân chưa vào được phi trường, chỉ đang pháo kích vào. Tôi cầu nguyện cho ba chiếc vận tải cơ không trúng đạn.
Vượt hàng rào kẽm gai phòng thủ phi trường là nỗi cam go vì mìn đầy dẫy. Đã có dấu chân của những người lính Trung Đoàn đi trước, toán lính pháo binh tám người bước từng bước một theo trên từng dấu chân đi trước để khỏi dẫm mìn.
Khi võng tôi vào được hàng rào kẽm gai cuối cùng một kho đạn trong phi trường trúng đạn pháo kích, nổ dữ dội. Phải nói rằng đưa cái võng chui qua một lỗ nhỏ vừa bằng thân người của mấy chục hàng rào kẽm gai là một kỳ công ghê gớm, một người chui qua trước, nâng đầu võng, lòn chầm chậm qua khe hở, cứ như thế cũng vào tới vùng đất bên trong hàng rào cuối cùng.
Vừa đến đây thì toán khiêng gặp được Trung Sĩ Khôi, Khẩu đội trưởng vừa ra trường hơn một năm, người Sài Gòn, nhà ở đầu Cầu Trương Minh Giảng. Khôi đi lạc một mình. Vừa gặp, Trung Uý Sinh gọi lớn tiếng từ xa “Khôi! Lại đây khiêng tiếp Đại Uý.”
Khôi rất vui như được tham dự chung vai cùng anh em, mà từ sáng đến giờ chưa có dịp. Trung sĩ Khôi kê vai vô cùng với ai trong đoạn đường này tôi không biết. Nghe Trung Uý Sinh nói: “Có trực thăng rồi Đại uý ơi! Để tôi tới xin cho Đại Uý đi.”
Vài phút sau Sinh trở lại nói bằng giọng mừng rỡ “Nó cho đi rồi Đại Úy à!”
Thế là cả đám khiêng tôi tới chỗ trực thăng HU1B đang nổ máy còn đậu dưới đất, bên cạnh cái mả xây bằng đá tổ ong, và một cây to cao gần giống như cổ thụ. Trung Sĩ Khôi, người mới vừa kê vai vào khiêng tôi, và Trung Uý Sinh khiêng tôi rời khỏi cái võng và bỏ lên nằm trên các anh em binh sĩ Bộ Binh khác đã ngồi trước trên trực thăng. Chiếc trực thăng HU1B theo lý thuyết chỉ chở 11 binh sĩ sĩ với đầy đủ súng ống đạn dược, nhưng giờ đã phải gồng đến 34 người trên đó.
Tôi không có chỗ ngồi, (mà cũng chẳng ngồi được) vì chật cứng rồi. Tôi nằm dài trên vai trên cổ của những binh sĩ Bộ Binh. Họ chấp nhận như vậy, vì thấy trên người tôi có tới 9 vết thương.
Trung Uý Sinh và Trung Sĩ Khôi đặt tôi lên trực thăng xong thì lui ra một khoảng cách an toàn cho trực thăng cất cánh. Tôi đang nghĩ mình sẽ về Quân Y Viện Nguyễn Huệ ở NhaTrang để điều trị. Đây cũng là mộng ước thật lãng mạn của tôi khi còn là học sinh, muốn làm lính trận và được bị thương, điều trị tại quân y viện để chiều chiều có người yêu tới thăm. Hồi đó sao mà ước mơ ngu quá!
Chiếc trực thăng vừa cất cánh trong tích tắc, tôi nghe một tiếng “Rắc” rất lớn. Nó khập khừng nâng lên rớt xuống mấy lần rồi rớt hẳn xuống đất. Tôi bị bất tỉnh, khi mở mắt ra chỉ thấy chiếc trực thăng cách xa tôi đến 5 hay 6 mét. Trên trực thăng trống không, máy không còn nổ, cánh quạt đã ngừng hẵn. Có hai cái xác bị mất từ ngực trở lên văng đi đâu, không nhận diện được là xác của ai, nằm song song nhau cách nhau một mét.
Linh tính cho tôi biết một trong hai cái xác không đầu ấy dường như là xác của Trung Uý Sinh (?) vì cái dáng còn lại rất quen thuộc, người lùn lùn nhỏ con. Toán khiêng tôi đi từ lúc trưa gồm có 6 người, cùng với Loan cõng tôi và Trung Uý Sinh là 8, mãi về chiều gặp được Khôi, tổng cộng là 9. Bây giờ Lính Bộ Binh không còn ai và Phi hành đoàn cũng chạy đi đâu hết. Toán khiêng tôi gồm cả thảy 9 người, bây giờ chỉ thấy hai cái xác không đầu nằm song song nhau, và 3 người lính của tôi đứng xa xa không dám chạy lại.
Tôi đưa tay vẫy vẫy ra dấu như còn sống, ba người ấy chạy tới, tôi thấy nghi ngờ xác nằm ấy là Trung Úy Sinh nên hỏi 3 nguời lính vừa chạy tới: “Trung Uý Sinh đâu rồi.” Hạ Sĩ Nghiêm, người lính thân cận nhất của Sinh trả lời như khóc: “Dạ em không biết.” Tôi hỏi tiếp: “Còn lính Bộ Binh đi đâu hết rồi?” Nghiêm trả lời: “Dạ họ chạy hết rồi Đại Uý ơi!”
Tôi hiểu chuyện gì đã xảy ra, trực thăng có lẽ vì nặng quá mà rớt xuống, hay vì cánh quạt chặt trúng cành cây nên có tiếng “ Rắc” trước khi rớt. Khi rớt xuống, cánh quạt quay nhanh đã chặt vào hai người đang đứng không xa chỗ rớt. Một nữa thân người của hai xác ấy đã văng ra xa lắm. Lính Pháo Binh có mang huy hiệu Sư Đoàn 22 trên cánh tay áo, có bảng tên và huy hiệu Pháo Binh phía trước ngực. Bây giờ không còn thấy gì nữa ngoài hai cái thây người bị đứt tiện ngay dưới ngực một chút xíu.
Tôi muốn xác nhận một trong hai xác ấy có phải là Sinh hay không. Tôi nhớ ra sáng nay lúc bị B40 và đạn AK, trước khi tôi được chở bằng xe GMC rời khỏi Cầu Cương, tôi có bảo Sinh lấy tiền trong túi quần bên đùi phải của tôi và bảo Sinh giử tiền ấy để nuôi ăn binh sĩ. Tôi nói với Hạ Sĩ Nghiêm: “Em lại lục một trong hai xác kia coi có tiền hay không.” Tôi không còn lòng dạ nào để tìm tiền bạc lúc này, mà chỉ muốn nhờ tiền để xác nhận có phải đúng là Sinh hay không, nếu quả thật có tiền thì đúng rồi.
Nghiêm nói trong sự sợ sệt nghẹn không ra lời: “Em sợ lắm Đại Úy ơi!” Tôi thúc: “Cứ lục đi đừng sợ!”
Tôi mệt quá nhắm mắt lại và không còn biết gì, đang nửa mê nửa tỉnh thì tiếng Nghiêm đến cạnh tôi nói rất rõ, và câu nói này tôi nhớ như in trong đầu từng âm phát ra trong nỗi nghẹn ngào xúc động: “Đại Uý ơi! Nếu Đại Uý chết rồi thì thôi, nếu còn sống, em báo Đại Uý biết là tiền đã tìm thấy rồi, thằng Tấn đang giữ tiền ấy.”
Tôi mở mắt ra và nói nhỏ: “À! Thì ra là Trung Uý Sinh.” Tôi hiểu rằng chiếc trực thăng rớt xuống, Sinh và Khôi sau khi khiêng bỏ tôi lên trực thăng không lui ra xa mấy nên cánh quạt đã quay manh, tốc độ cánh quạt giảm nên nó quay nghiêng một bên thấp một bên cao,mới xảy ra sự đau đớn này. Bình thường người ta đứng không cao bằng chiều cao của cách quạt trực thăng.
Tôi không hiểu tại sao tôi bị văng ra xa cách trực thăng 6 hay 7 mét và bị bất tỉnh mà không bị thương gì cả. Có lẽ lúc tôi nằm trên vai trên cổ những người lính Bộ Binh; trực thăng rớt xuống, mấy người ấy văng ra, tôi bị văng theo. Cũng may là trực thăng không bị nổ hay cháy trong khi tôi nằm cạnh. Tất cả mọi người đều chạy hết, kể cá đám lính của tôi chỉ còn lại ba người, trong đó có Nghiêm, Tấn là tài xế xe GMC kéo súng, và Trung Sĩ Minh, Khẩu trưởng cũng vừa mới ra trường được hơn năm.
Họ xúm lại hỏi tôi một câu: “Giờ sao Đại Úy? Giờ sao Đại Úy?” trong xúc động thì thào. Tôi hiểu bây giờ tôi là một gánh nặng của mấy đứa em này. Chúng bỏ tôi không đành, mà cưu mang thì nặng nhọc cho chúng. Nhưng để tôi nằm lại đêm nay có lẽ cũng sẽ chết, giữa khoảng trống vắng vẻ này đâu có ai biết mà cứu giúp, nên tôi nói với ba người còn lại: “Hãy cố khiêng tôi vô trong Phi đạo rồi tính.”
Hai người kê vai vô chiếc cán võng mà Sinh đã làm từ trưa, một người đi đầu dẫn đường. Trời đã tối dần sao mà ảm đạm thê lương quá! Ngày cuối cùng đời lính của tôi chăng? Tôi không bao giờ nghĩ ra là sẽ mất nước! Tôi chỉ nghĩ đang bị VC tấn công vùng đất này, mình tạm rời bỏ và sẽ tái chiếm lại như hồi Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, đã tái chiếm lại ba Quận Bắc Bình Định.
Đang đi trong khuôn viên phi trường thì thấy một chiếc xe Jeep của Tiểu Đoàn 4 Phòng Không của phe ta, chiếc xe còn rất mới của một trung đội Pháo Binh Phòng Không trấn giữ Phi trường. Tấn reo lên: “Có xe rồi Đại Uý! Có xe rồi! Để tụi em chở Đại Uý đi.”
Nó mừng là phải vì chỉ có ba người khiêng nên mệt quá. Chúng nó không nở bỏ tôi mà chạy trốn nhưng đeo theo cái cục nợ này thì thật là khổ. Tôi hiểu rõ tâm lý các đứa em lúc này nên nói: “Cố đưa tôi vào phi đạo rồi trốn đi được rồi.” Tôi hy vọng vào trong ấy còn máy bay bốc tôi hay ít nhất cũng không đơn lẻ một mình khi phải nằm đây.
May mắn thay! Chiếc xe Jeep không nổ máy, Tấn thất vọng trở lại chiếc và cũng hỏi câu cũ: “Giờ sao Đại Uý?” Mãi về sau này tôi mới hiểu ra rằng chúng tôi rất may mắn. Nếu chiếc xe chạy được thì đời chúng tôi cũng tiêu tùng vì ăn B4 , khi phải lái xe ra Quốc Lộ. Khắp vùng rộng lớn ấy địch đã kiểm soát hết rồi. Có điều gì đó khiến chiếc xe không nổ máy được. Tôi tin như thế!
Tôi giữ nguyên ý định cố vào cho được trong Phi đạo rồi tính sau, nên khuyến khích: “Hãy cố đưa tôi vào Phi đạo rồi các em về nhà.” Tôi biết mấy người này có gia đình loanh quanh Phù Mỹ và Phù Cát.
Đoạn đường từ đây vào đến phi đạo rất chông gai, mặc dù cũng đang trong khuôn viên Phi Trường. Có rất nhiều hàng rào kẽm gai chia ra nhiều khu vực khác nhau. Mỗi lần đưa được chiếc võng chui qua lỗ hàng rào là cả một kỳ công, cũng như rất tốn thời gian. Làm gì có kềm cắt kẽm gai để chui qua. Chúng để tôi xuống đất, ba người thay phiên nhau tìm cách banh lỗ hàng rào cho vừa đủ chiếc võng. Một người chui qua trước, một người bên này hàng rào nâng đầu võng đút qua, người bên kia đỡ lấy.
Tôi xúc động biết chừng nào cho tấm lòng của lính không bỏ tôi vì công lao của họ mỗi lần đi qua một hàng rào kẽm gai. Đâu phải chỉ có một, phải đến hàng chục lần như thế. Mãi về sau này tôi hiểu được đã có một sức mạnh vô hình thôi thúc mấy đứa em đã hết lòng với tôi. Tôi mang ơn họ suốt đời.
Cuối cùng, bốn anh em chúng tôi cũng tới được phi đạo. Vừa tới nơi, một trong ba người lên tiếng trong tiếng thở hổn hển vì quá mệt: “Tới rồi Đại Uý, tới rồi Đại Uý.” Tôi giữ đúng lời hứa, dù biết rằng mình không biết sẽ làm gì sau đó, tôi nói: “Tôi cám ơn các em nhiều lắm đã cứu tôi, thôi cứ để tôi đây, các em trốn, và tìm cách về nhà đi.” Tôi thực sự bị xúc động với lần chia tay này. Xem như vĩnh biệt, những người lính cuối cùng đã cứu tôi.
Địch vẫn tiếp tục pháo kích vào bên trong, một kho đạn lửa cháy rực sáng kèm theo những tiếng nổ của đạn đủ loại. Tôi đoán chừng cũng phải đã quá 10 giờ đêm rồi. Tôi mệt quá, nhắm mắt lại thiếp đi.
Dường như tôi bị mê thiếp, đến lúc tỉnh dậy không biết bây giờ là mấy giờ nhưng vẫn biết hôm nay là đêm 31 tháng 3 năm 1975. Ngày tôi bị thương hai lần và rớt trực thăng, chặt đứt đôi hai người khiêng tôi. Đã có mấy người vì tôi mà phải vĩnh viễn ra đi.
Tiếng động những bước chân dồn dập tiến tới gần tôi, cùng với những âm thanh xì xào nghe không rõ. Tôi mở mắt ra thì nhận biết lính của Trung Đoàn 47 đang từ ngoài vào đến Phi Trường. Đã khuya lắm rồi, lòng tôi mừng hẳn lên vì giờ không cô đơn nữa. Tôi hy vọng sẽ bám theo toán lính Bộ Binh này.
Họ mệt mỏi, tụ từng đám ngồi xuống nền xi măng nghỉ mệt sau một ngày hành quân rồi tan hàng và suốt nửa đêm mới vào được tới Phi Đạo. Tôi nhìn thấy người lính có mang chiếc máy truyền tin PRC 25, tôi vẫy tay bảo anh ấy: “Anh cho tôi mượn cái máy.” Anh đem đến, tôi nói: “Anh mở cho tôi tần số…“ Tôi gọi mấy lần về Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn, cấp cao nhất của tôi tại Sư đoàn 22 Bộ Binh, với hy vọng xin trực thăng tản thương. Tôi nhờ anh lính đổi tần số nhiều lần, nhưng không có tần số nào có ai trả lời. Mãi khi vào tù tôi mới vỡ lẽ họ đã di tản Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn vô NhaTrang rồi.
Tôi mệt mỏi tuyệt vọng trả máy lại và cám ơn, tôi chấp nhận số phận cho Đinh Mệnh an bài. Tôi kéo chiếc mền rằn ri dù vẫn còn mang theo, đắp lên quá đầu, giống như một người nằm chết.
Có tiếng: “Mở Đường Máu! Mở Đường Máu!” Trời ơi họ lại bỏ tôi trong tư thế mở đường máu. Mà mở đường máu thì coi như liều mạng để tranh giành sự sống trong cái chết. Tôi như thế này làm sao cùng mở đường máu? Khi họ lục đục đứng lên kéo đi, tôi cũng chống cây đòn của chiếc cán võng đứng lên với ý chí quyết đi theo, than ôi vừa đứng lên chưa trọn thì bị té xuống ngay.
Một cảm giác tuyệt vọng và chấp nhận thương đau trở về, tôi nghĩ bụng: “Thôi đành cho số phận.” Nhưng dù thế nào tôi vẫn thấy “đau đớn” trong tâm ghê lắm, mình đang rớt lại trong vũng cô đơn tuyệt vọng, và cái chết đang từ từ đến với mình.
Xung quanh Phi truờng kho xăng, kho đạn đang cháy và tiếp tục nổ, VC vẫn tiếp tục pháo kích vào. Một vài nơi có tiếng súng cá nhân chạm địch khi đoàn người mở đường máu. Tôi đã cố gắng đi theo những người lính Trung Đoàn 47 mở đường máu để thoát ra chỗ này, tôi sợ sáng ngày mai thế nào quân ta từ trong NhaTrang cũng cho máy bay ra oanh tạc chỗ này. Tôi cũng sẽ chết vì bom nếu chưa bị địch bắt.
Chiếc quần lính trận của tôi sáng nay lúc Loan cõng tôi, nó cứ tụt lên tụt xuống làm trở ngại trong lúc cõng, nên Loan đề nghị bỏ đi, tôi chỉ còn mặc mỗi chiếc áo và cái quần xà lỏn.
Không phải tôi hèn, không dám để cho địch quân biết tôi là một Đại Uý Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, mà tôi vừa nghĩ ra rằng, trong giờ phút đầu tiên khi gặp tôi, biết đâu sự hận thù dâng lên ngút ngàn đối với bọn chúng, nhất là tên tôi đươc chúng biết từ lâu trong những tháng ngày đóng quân tại quận Hoài Ân vì tôi phản pháo rất nhanh làm thiệt hại nặng cho chúng. Chúng đã tuyên truyền trong dân chúng tại Hoài Ân về cái giá treo đầu tôi. Vì vậy tôi nãy ra ý tưởng phải ngụy trang và nói dối trong lúc tụi nó bắt mình, tôi chợt nhìn thấy một cái áo màu đen, giống như của Xây Dựng Nông Thôn thường mặc.
Tôi lết tới và đã cố gắng thay cho được chiếc áo, làm sao biết được bọn họ trả thù tôi như thế nào, thôi thì cứ ngụy trang trước đã. Cái đòn khiêng với chiếc võng và cái mền Dù vẫn bên tôi, tôi lết đến nằm trên võng, đắp mền lại. Máu đã ra quá nhiều, tôi khát nước tưởng không còn cơn khát nào bằng và đói bụng nữa, tôi thiếp đi tự bao giờ.
Sáng hôm sau, tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng quát tháo đầy sắt máu của bọn VC đã vào được bên trong phi trường. Tôi đoán chắc đã bốn hay năm giờ sáng, kho đạn vẫn nổ, một vùng khác lửa cháy bốc lên cao có lẽ kho xăng bị trúng đạn. Một cây AK chĩa thẳng vào tôi quát lớn tiếng: “Ai đây? “ . Tôi nghe giọng hỏi đã biết ngay là bọn CS từ Bắc vào với cái giọng the thé trẻ con.
Tôi từ từ mở chiếc mền ra khỏi mặt và nói chầm chậm: “Tôi đây! Tôi bị thương.” Nó lại quát để khủng bố tinh thần: “Sao không đầu hàng mà để bị thương?”
— “Tôi là tài xế xe Daihasu, chở khách, hôm qua hai bên đánh nhau, tôi bị thương và được các anh lính khiêng tôi vào bỏ ở đây.”
Tôi cứ nói bừa ra vậy, tin hay không là chuyện của chúng, để tránh nhận một viên đạn trong lúc này. Hắn có vẻ không tin, nhưng cũng không gắt nữa, và nói giọng Bắc Kỳ rặc mới vô: “Ừ, bị thương thì nằm đó, chờ bộ phận khác tới lo.” Tôi liều mạng nói khi tôi chợt nhớ hình ảnh một người lính Nga bị thương nằm bên cạnh người lính Đức cũng bị thương trong trận Đệ Nhị Thế Chiến trong một phim chiến tranh, tôi xem từ hồi nhỏ. Người lính Nga đã cho người lính Đức uống nước khi lính Đức họ xin. Tôi nói với tên VC: “Anh cho tôi xin chút nước, tôi khát quá.” Tên VC còn non choẹt trả lời nhanh: “Tôi hết nước rồi.” Và hắn bỏ đi nhanh, như để lục soát tiếp trong khu vực. Qua ánh lửa hừng hực cháy xa xa tôi thấy mọi người bị bắt để hai tay ra sau ót đi từng nhóm với tiếng quát lớn: “Đi hướng này!” hay tiếng hét: “Khẩn trương lên!” Tôi hiểu là lính của mình đã bị bắt và dẫn đi tập trung ở chỗ nào đó. Tôi đắp mền lại, coi như không có chuyện gì.
Cũng một chiếc lưỡi lê gắn đầu nòng súng chĩa vào người tôi quát giống như lúc nãy: “Ai đây?”
Tôi diễn lại màn cũ, nói y những lời cũ, không biết hắn có tin hay không, nhưng không thấy nói gì. Tôi cũng xin chút nước vì khát nước không thể chịu nổi. Họ vẫn bảo hành quân suốt đêm hết nước rồi, họ nói lý do không còn nước; tôi tin họ. Rồi họ rời chỗ tôi.
Người thứ ba đến chỗ tôi và hỏi có vẻ nhẹ nhàng hơn một chút: “Ai đây?” Tôi mở mền ra khỏi mặt và đáp: “Tôi bị thương.” . Hắn hỏi tiếp: “Sao bị thương?”. Ba câu hỏi của ba người sao giống nhau quá, và tôi cũng giữ vững lập trường để bảo vệ sự sống trong lúc này nên cũng đáp: “Tôi tài xế xe Daihasu bị thương hôm qua được lính khiêng vô đây.” Tôi chợt nhớ ra chắc mấy tên địch này chẳng biết xe Daihasu là xe gì, nhưng thây kệ nó. Hắn cũng nói một câu giống như hai tên trước như học thuộc lòng. “Bị thương nằm đó, có bộ phận khác lo.”
Tôi muốn rời chỗ này ngay, vì sợ lúc trời sáng thế nào cũng có phi cơ từ NhaTrang ra oanh tạc căn cứ Phi Trường đã bị chiếm. Vừa nhìn thấy đám lính của mình bị bắt đi qua, tôi nói với tên thứ ba này tướng tá giống cấp chỉ huy hơn hai tên trước vì thấy không cầm AK mà chỉ có khẩu K54: “Anh nói với mấy người kia đến khiêng tôi đi đi.”
tiếp dưới...