Lịch sử đã chứng minh, dân tộc nào có nền văn hoá cao hơn sẽ thống trị và đồng hoá các dân tộc có nền văn hoá thấp hơn, chứ không phải các trận chiến trên chiến trường.
Tại sao Mông Cổ lại bị đồng hóa ngược bởi Trung Quốc?
Năm xưa Thành Cát Tư Hãn đô hộ Trung Quốc áp đặt sự cai trị của mình lên đất nước này. Thời gian qua đi một điều kỳ lạ là những thế hệ sau này của người Mãn lại quên đi cái gốc gác của mình là người Mông Cổ, tại sao vậy ?
Không chỉ người Mông Cổ sau một thời gian quên đi gốc gác của mình hoặc nói cách khác là bị Hán hóa đến bất cứ dân tộc du mục nào từng cai trị Trung Quốc cho dù Nữ Chân, Khiết Đan, Đảng Hạ cũng như vậy, cá biệt đám Tiên Ty sau vài đời còn tự mình xưng là Hán nhân quên luôn cái gốc du mục của mình thậm chí đến tên gọi, chữ viết cũng không nhớ.
Ngay từ thời cổ trung, văn hóa, lịch pháp, luật chế của Trung Hoa đã rất đồ sộ, đạt đến độ chín và văn minh vượt trội so với nhiều bộ tộc du mục (nhiều bộ tộc còn chưa có chữ viết), giai cấp thống trị du mục mà kể cả người Mông Cô vì nhiều lý do trong đó có cả vấn đề dân số đã phải áp dụng văn hóa, lễ pháp Trung Hoa, dần dần theo nhiều đời bị ảnh hưởng, hán hóa nghiêm trọng dẫn đến quên nguồn gốc.
Không vô lý khi nói rằng: VĂN HOÁ CÒN, DÂN TỘC CÒN.
Thời gian là con đường vô tận, những gì bất hạnh, không đạt được thời gian chính là niềm an ủi, một liều thuốc an thần để con người ta nuôi hy vọng.
Những kẻ nào giỏi reo hy vọng vào đầu người khác, để người khác tin là những bậc kỳ tài.
Tại sao có hàng tỷ người tin vào Chúa, Phật, Ala… những thánh nhân, thánh thần…? Ý thức tôn giáo đi cùng với thời gian, không có giới hạn chẳng có điểm mốc thập kỷ, thế kỷ đạt được thành tựu này thành tựu khác… đã ngấm vào huyết quản của họ.
Tôn giáo dẫn con người đi đến tương lai bằng khai sáng tư tưởng, tạo ra một thứ văn hoá con người vì con người, không phải văn hoá của chế độ áp đặt lên con người.
Văn hoá mang hơi thở của tôn giáo, được tôn giáo dẫn dắt không phụ thuộc vào chế độ xã hội, đem đến sự trường tồn hàng nghìn năm nay chính là đức tin, sự giác ngộ.
Ai thúc dục những con nhang đệ tử lên chùa dâng lễ?
Niềm tin nào hàng triệu tín đồ Hồi giáo đổ về thánh địa Mecca?
Hàng tỷ giáo dân thành kính đi nhà thờ mỗi sáng chủ nhật vì lẽ gì?
Hàng nghìn năm nay, qua bao nhiêu chế độ xã hội, qua biết bao nhiêu triều đại, hàng vạn cuộc chiến tranh…các đạo giáo truyền thống vẫn tồn tại. Vì tôn giáo quyết định văn hoá, tôn giáo tạo ra văn hoá, và đức tin chính là bầu sữa nuôi tôn giáo tồn tại.
Rõ ràng tôn giáo không phụ thuộc vào chế độ, mọi chế độ muốn tồn tại phải dựa vào tôn giáo, giữ gìn tôn giáo chính là văn hoá.
Tôn giáo quyết định văn hóa mà văn hóa thì quyết định tính cách dân tộc; tính cách dân tộc lại quyết định số phận dân tộc.
Như vậy lịch sử đã chứng minh không có thứ “văn hoá chế độ” được hình thành, nếu có nó là phi tôn giáo.
Thế nào là văn hoá của chế độ?
Đây là một thuật ngữ ra đời kể từ khi chế độ cộng sản cầm quyền hình thành.
Điều này có nghĩa chính quyền cộng sản xây dựng một nền văn hoá mới cho chế độ, lấy văn hoá chế độ để dẫn dắt con người đi đến tương lai, đạt được các giá trị vật chất, lấy vật chất không phải nuôi dưỡng tinh thần mà chỉ để khao khát đạt được dục vọng, sự hưởng thụ thân xác bằng mọi giá, kể cả bạo lực.
Điểm khác biệt giữa văn hoá hình thành từ tôn giáo và văn hoá chế độ là ở chỗ nào?
Văn hoá hình thành từ tôn giáo được dẫn dắt bởi các giáo hội, các giáo hội dẫn dắt dân chúng bằng xây dựng đức tin thông qua giáo lý, không phải bằng biện pháp quản lý, chiếm quyền quản lý xã hội, xây dựng nhà nước, lấy tinh thần là mục tiêu hướng tới..
Văn hoá chế độ chỉ hình thành khi những người cộng sản cầm quyền. Mục đích của văn hoá chế độ là bảo vệ sự tồn tại của chế độ, thông qua định hướng hình thành văn hoá, lấy luật pháp quản lý văn hoá, lấy vật chất định hình các mục tiêu phát triển của quốc gia, và văn hoá là công cụ để đạt các mục tiêu ấy.
Văn hoá chế độ là thứ văn hoá phi tôn giáo.
Nó là văn hoá thể hiện quyền lực, bị chi phối bởi quyền lực.
PHẦN 2.
BẢN CHẤT VĂN HOÁ CHẾ ĐỘ.
Trụ sở Viện Triết học nằm trên đường Láng Hạ là một ngôi nhà 4 tầng quanh năm gần như cửa đóng then cài.
Ngày thường là nơi trú ngụ của các hàng quà, hàng nước.
Dịp tết đến cho mấy bà bán hoa thuê bán hàng. Hoa, cây cảnh để trật cả lối ra vào… xem ra nơi trí tuệ đỉnh cao của chế độ cũng chỉ để làm cái chợ.
Thỉnh thoảng các triết gia của chế độ tụ tập về đây theo giấy triệu tập.
Nhiệm vụ của họ không phải dùng thế giới quan và phương luận để phản biện, hay phê phán đường lối chính sách, bởi các vị này tuy học vị, học hàm rất oách giáo sư này tiến sĩ kia nhưng cùng được đào tạo trong một lò của đảng.
Thứ kiến thức mà họ được tiếp thu, và dạy dỗ đơn thuần chỉ từ cẩm nang “Triết học Mác- Lê Nin” - Một giáo trình cổ lỗ duy nhất được bê nguyên vẹn du nhập từ Liên Xô cũ.
Công việc chính của Viện Triết học là phục vụ cho Ban tuyên giáo, từ cụ thể hoá đường lối chính sách của đảng, xây dựng nó thành hệ thống lý luận, quan điểm, đường lối … làm sao cho có vẻ khoa học, thực tiễn sinh động.
Họ không làm cái việc đáng phải làm đúng chức năng của mình đó là phản biện, mà trở thành điếu đóm cho chế độ.
Tại sao lại đưa câu chuyện Viện Triết học vào đây?
Nó là một ví dụ cho cách hành xử ngược đời trong chế độ độc đảng cầm quyền, khác với các nước dân chủ - các triết gia nằm trong giới tinh hoa chính trị, họ độc lập không ăn cơm chế độ, cũng chẳng tồn tại theo chế độ, họ uốn nắn xã hội, nhìn nhận xã hội bằng thế giới quan khoa học, dùng các phương pháp luận logic để đánh giá, đo lường đường lối chính sách một cách khách quan, trung thực.
Văn hoá là cách hành xử, vai trò của triết gia bị hạ bệ như thế là điển hình ứng xử của văn hoá chế độ.
Điều này nó hoàn toàn hợp lý với bản chất của chế độ chuyên quyền.
Một chế độ chuyên quyền, độc đảng cầm quyền dẫn dắt xã hội, “văn hoá đảng” sẽ là văn hoá nền tảng của xã hội, đó là thứ văn hoá mang bản chất quyền lực.
Quyền lực độc tôn, không bị kiểm soát bởi các thành phần khác trong xã hội sẽ đẻ ra các căn bệnh quyền lực.
Những căn bệnh quyền lực này không được ngăn chặn, nó sẽ tạo ra một thứ “văn hoá quan trường”
Văn hoá quan trường của những kẻ nắm vận mệnh quốc gia sẽ chi phối dẫn dắt, là tấm gương cho văn hoá dân tộc, dân chúng đi theo,
Văn hoá chế độ đã làm nát văn hoá dân tộc theo một con đường hủ bại nhất chính là sự biến chất của những kẻ có chức, có quyền - Biến chất, suy đồi từ lối sống đến nhơ nhuốc, bệnh hoạn về mặt tư tưởng, tinh thần.
Các biểu hiện của bệnh quyền lực như thế nào, xin đọc tiếp ở các phần tiếp theo.
PHẦN 6.
HOANG TƯỞNG QUYỀN LỰC DẪN ĐẾN TRANH DÀNH QUYỀN LỰC DƯỚI GÓC ĐỘ LỊCH SỬ.
PHẦN 6 sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta theo dòng lịch sử đất nước để thấy rằng, lịch sử Việt Nam không phải chỉ có những trang chói lọi trong truyền thống chống ngoại xâm, mà còn bi kịch nối tiếp bi kịch trong các cuộc tranh dành quyền lực. Đây là nguyên nhân chính để nước ta le lói nổi lên rồi lại rơi vào cảnh nồi da nấu thịt, chìm sâu trong đói nghèo, tụt hậu chậm phát triển.
Quyền lực là thứ mê hoặc và ám ảnh lớn nhất của con người. Có những kẻ vì tham quyền đã để lại tiếng xấu muôn thuở, trở thành những kẻ bán nước cầu vinh bị người đời khinh miệt như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống…
Một số khác dùng quyền lực lũng đoạn triều chính, lũng đoạn nhà nước, thao túng tổ chức … mưu cầu danh vọng cá nhân biến đất nước trở nên vô pháp, bọn cơ hội vì thế nổi lên đưa đất nước đi đến thảm họa văn hoá suy đồi, đạo đức xuống cấp, tham nhũng cửa quyền, trăm họ sống trong lầm than mất đất, mất quyền làm người….
Lịch sử có giá trị như những bài học cho đời sau qua đó học hỏi rút kinh nghiệm, cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu tránh đi vào vết xe đổ.
Nhắc lại lịch sử tranh dành quyền lực của các triều đại phong kiến Việt Nam cũng là lời cảnh tỉnh cho những kẻ đang cố nắm giữ quyền lực về một tương lai không tốt lành đang đợi họ ở phía trước.
HỒ QUÝ LY CƯỚP QUYỀN NHÀ TRẦN.
Triều đại nhà Trần (1226-1400) tồn tại 174 năm dù đã rút được kinh nghiệm sự sụp đổ của các triều đại trước, bằng cách đưa ra những quy định, luật lệ rất ngặt nghèo, hà khắc để bảo vệ ngôi vàng, nhưng quy luật càng cố bám lấy quyền lực thì các bệnh quyền lực càng nhanh đến, càng nặng và cuối cùng bị xu thế trật tự và tiến bộ mới thay thế là quy luật tất nhiên.
Nhà Trần có tục cha nhường ngôi cho con khi còn sống để làm thái thượng hoàng.
Ưu điểm cuả nó là giúp vị vua trẻ có dịp thực tập vai trò cuả mình dưới sự dìu dắt cuả vua cha để khi thực sự lãnh đạo đất nước sẽ không bị quyền thần lấn át.
Nhưng mặt khác, nếu đã nhường ngôi mà thái thượng hoàng vẫn tham quyền cố vị thì rất dễ bị nịnh thần khuynh loát.
Nhà Trần có tục “nội hôn” (hôn nhân diễn ra trong dòng tộc) nhằm mục đích bảo vệ vững chắc triều đại. Ngoài Trần Thái Tông kết hôn với Lý Chiêu Hoàng sau đó với Thuận Thiên công chúa (chị cuả Chiêu Hoàng và vợ cuả Trần Liễu) là anh em cô cậu, thì từ thời Thánh Tông trở đi các ngôi vị hoàng hậu đều thuộc dòng dõi nhà Trần: Thánh Tông lấy Thiên Cảm hoàng hậu (con cuả An Sinh vương Trần Liễu, chị em chú bác ruột), Nhân Tông lấy Khâm Từ hoàng hậu (con cuả Tĩnh Quốc vương Quốc Khang, chị em chú bác họ), Anh Tông lấy Thuận Thánh hoàng hậu (con cuả Hưng Nhượng vương Quốc Tảng, chị em chú bác họ), Minh Tông lấy Lệ Thánh hoàng hậu (con cuả Huệ Võ vương Quốc Chân, anh em chú bác ruột)… Kết quả đã làm luân thường đạo lý đảo lộn, cuộc sống vương triều dâm loạn, dòng giống bị thoái hoá.
Do vậy nhà Trần chỉ hưng thịnh với bốn vị vua đầu là Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông.
Tuy nhiên trong thời kỳ này, do giành chiến thắng vang dội đối với nhà Nguyên, nhà Trần lại tiếp tục duy trì một lực lương quân mạnh, tỏ thái độ hiếu chiến và tiến hành xâm lấn các nước lân bang, làm cho nền kinh tế của đất nước sau chiến tranh chưa kịp phục hồi càng thêm kiệt quệ.
Kể từ khi Minh Tông lên cầm quyền (1314) nhà Trần bước vào thời kỳ rối ren suy yếu vì các vị vua cuối đời đều tầm thường.
Sau biến cố Dương Nhật Lễ (1369-1370), ngày 21 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) Cung Tĩnh Vương tên huý là Phủ, con thứ ba cuả Minh Tông lúc bấy giờ đã 49 tuổi được đưa lên ngôi tức Trần Nghệ Tông (ở ngôi 2 năm – 1370-1372, làm thái thượng hoàng 22 năm – 1372-1394). Nghệ Tông tuy nhân từ nhưng nhu nhược, thiếu dũng khí, thiếu sáng suốt, thích nịnh hót, không phải một minh quân. Đây là cơ hội ngàn vàng để Quý Ly tham dự và thao túng triều chính rồi cướp ngôi nhà Trần.
Hồ Quý Ly là ông vua được cho là phức tạp nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam khi đánh giá giữa công và tội.
Toàn Thư cho biết:
Quý Ly tên tự là Lý Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Triết Giang, đời Hậu Hán thời Ngũ Quý (947-950) sang làm thái thú Diễn Châu.
Sau đó làm nhà ở hương Bào Đột châu này, rồi là trại chủ. Đến đời Lý (có người) lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đến đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến hương Đại Lại, Thanh Hoá, làm con nuôi tuyên uý Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ minh.
Nói tóm lại Hồ Quý Ly là cháu 16 đời cuả Hồ Hưng Dật, gốc người Triết Giang Trung Quốc.
Việc Hồ Qúy Ly cũng như nhà Trần cướp ngôi họ Lý là một quy luật tất yếu khách quan của lịch sử.
Nhà Trần có những công lao hiển hách đối với lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, triều đại này đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng. Không khoan thư sức dân phát triển kinh tế, thể hiện đường lối hiếu chiến trong quân sự và ngoại giao, tin dùng nịnh thần… chính vì những nguyên do này nên nhà Trần nhanh chóng lâm vào khủng hoảng, hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, khiến đời sống nhân dân cơ cực.
Hồ Qúy Ly tuy về đạo nghĩa không hợp với luân lý đạo thường theo phép tắc của hệ tư tưởng nho giáo lúc bấy giờ, những việc ông phế truất nhà Trần, lên ngôi hoàng đế, để có đủ sức thực hiện một công cuộc cải cách toàn diện ở nước ta lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, do vấp phải những sai lầm chủ quan cũng như khách quan, những cải cách của ông không đủ thời gian để điều chỉnh. Trong việc xây dựng quân đội nặng về số đông, trong cách đánh giặc thiên về phong ngự, dựa vào thành quách và vũ khí nên cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Minh dưới thời nhà Hồ thất bại nhanh chóng.
Hồ Qúy Ly là người phải chịu trách nhiệm trong việc để nước ta rơi vào tay giặc, 20 năm Minh thuộc là những năm tháng bi thương nhất của lịch sử dân tộc.
PHẦN TÌM HIỂU THÊM VỀ HỒ QUÝ LY.
Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tuy nắm giữ đại quyền, nhưng việc gì cũng do Quý Ly quyết định. Quý Ly tìm cách phát triển thế lực riêng, nhưng Nghệ Tông vẫn không hề nghi ngại. Lúc đó, lòng các quan lại, tôn thất phần nhiều đã chán nản, rã rời, nhiều người biết trước Hồ Quý Ly sẽ cướp ngôi nhà Trần như Trần Nguyên Đán liền kết thông gia với họ Hồ, mong được phú quý và toàn mạng sau này.
Tuy nhiên, Nghệ Tông hết lòng tin rằng Quý Ly vẫn trung thành với triều Trần, nên trao cho ông gươm và một lá cờ có đề "Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức".
Bấy giờ, Hoàng đế thấy Thượng hoàng quá tin dùng Quý Ly, mới bàn với Thái úy Trang Định vương Trần Ngạc (là con trưởng của Thượng hoàng) rằng nếu không trừ đi ắt thành vạ to. Không ngờ rằng, người hầu vua học là Vũ Như Mai biết được chuyện này, liền báo cho Quý Ly biết trước. Nguyễn Đa Phương khuyên Quý Ly nên tránh ra núi Đại Lại (ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) để chờ đợi biến động. Trong khi đó, Phạm Cự Luận lại can rằng:
“Không được, một khi đã ra ngoài thì khó lo chuyện sống còn".
Quý Ly nói:
“Nếu không còn phương sách gì thì ta đành tự tử, không để tay kẻ khác giết mình".
Cự Luận nói:
“Thượng hoàng trong lòng vẫn căm vua về việc giết Quan phục Đại vương [Trần Húc], vua rất không hài lòng. Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả mà vua lại mưu hại ngài thì Thượng hoàng lại càng ngờ lắm. Đại nhân hãy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại, thì nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo ngài, chuyển họa thành phúc, dễ như trở bàn tay. Thượng hoàng có nhiều con chính đích, ngài cứ tâu rằng thần nghe ngạn ngữ nói "Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con" may ra Thượng hoàng tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định vương [Trần Thuận Tông]. Nếu Thượng hoàng không nghe thì chết cũng chưa muộn".
Quý Ly nghe vậy, bèn bí mật vào yết kiến Thượng hoàng rồi cứ y tâu như lời Cự Luận.
Thượng hoàng nghe vậy, bèn giả vờ vi hành về Yên Sinh, rồi sai người gọi Đế hiển đến bàn việc nước. Đế hiển đến, lập tức bị bắt rồi bị giam vào chùa Tư Phúc.
Các tướng chỉ huy các phủ quân cũ như tướng chỉ huy quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân Thiết Giáp là Nguyễn Kha, Lê Lặc, tướng chỉ huy quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách định đem quân vào cướp lấy vua đem ra. Đế hiển viết hai chữ "Giải giáp" đưa cho các tướng và răn bảo họ không được trái ý Thượng hoàng, các tướng mới thôi. Lát sau, Nghệ Tông đưa vua xuống phủ Thái Dương và cho thắt cổ cho chết. Bấy giờ Lê Á Phu cùng các tướng Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Nguyễn Bát Sách và người học trò Lưu Thường vì cùng mưu với Đế hiển nên đều bị giết cả; chỉ có Nhập nội Hành khiển tả ty Lê Dữ Nghị là bị đày ra Trại Đầu. Về sự việc này, sử gia Ngô Sĩ Liên trong tác phẩm Đại Việt sử ký toàn thư có nói rằng:
“Khi ấy khí thế của họ Hồ đang mạnh, mọi người đều biết là nó sẽ cướp ngôi, Trang Định vương Ngạc là Thái úy, lại là con của Nghệ hoàng, thấy xã tắc sắp nghiêng đổ, nếu biết hướng vua làm điều phải, gây niềm tin ở vua cha, hiệu lệnh nghiêm ngặt, để nhiều người theo về mình, khiến cho Nghệ Tông già lẫn phải tỉnh lại. Giản hoàng nhút nhát phải tự lập, quyền bính về tay hết, mệnh lệnh ban từ trên, thì lòng gian của họ Hồ cũng phải tự ngừng lại. Trang Định không mưu tính đến việc đó, Á Phu không lường được vu mình chẳng có tài cương đoán, lại khuyên vua giết Quý Ly, mà cơ mưu không cẩn mật, để cho nó biết trước. Trang Định lại không sớm quyết đoán, bỏ lỡ cơ hội, đến nỗi công việc thất bại, thân mình bị giết, lại giết lây cả đến những quân tướng tài giỏi, thực đáng than thở biết bao! Có người hỏi: Họ Hồ trên được vua tin, dưới nắm binh quyền, dẫu đến Nguyên Đán là người có kiến thức, lại lão luyện sự đời còn không làm gì được, huống chi là Trang Định! Xin thưa: Cứ xem nói trong lòng lo sợ mà định tự tử, thì việc chế ngự Quý Ly cũng dễ thôi! Trước hết hãy trừ bọn Đa Phương, Cự Luận để chặt vây cánh của nó đi, thì thế nó phải cô ngay”
Theo Minh thực lục, khoảng cuối tháng 12 năm 1388, Lê Nhất Nguyên (黎一元) giết vua Trần Vĩ (tức Trần Phế Đế) rồi chôn ở phường Đại Dương ngoại thành Thăng Long. Lê Nhất Nguyên sau đó lập Trần Nhật Hỗn (tức Trần Thuận Tông), con Trần Thúc Minh (tức Trần Nghệ Tông) (陳叔明) lên thay.
Triều đại Trần Thuận Tông
Vua Trần Phế Đế bị buộc cổ cho chết, Trần Nghệ Tông lập người con út là Chiêu Định vương Ngung làm hoàng đế, tức vua Trần Thuận Tông, vào năm 1388, đổi niên hiệu là Quang Thái, đại xá, tự xưng là Nguyên Hoàng. Một năm sau, vua lập con gái lớn của Quý Ly làm Hoàng hậu. Cùng năm đó, Hồ Quý Ly lấy người tâm phúc của mình là Phạm Cự Luận làm Thiêm thư Khu mật viện sự, Cự Luận tiến cử cho Quý Ly người em là Phạm Phiếm cùng Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây, Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Chân và Đỗ Tử Mãn, đều là người tài giỏi.
Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga lại đánh lên Thanh Hóa, tiến vào hương Cổ Vô. Nghệ Tông lại sai Lê Quý Ly dẫn quân chống cự. Quân Chiêm đắp ngăn sông Bản Nha ở thượng lưu, quân Đại Việt đóng cọc dày đặc đối địch, giữ nhau 20 ngày. Quân Chiêm đặt sẵn quân và voi, giả vờ bỏ doanh trại rút về. Hồ Quý Ly chọn những quân tinh nhuệ, dũng cảm làm quân cảm tử truy kích quân Chiêm. Thủy quân Đại Việt nhổ cọc ra đánh, quân Chiêm phá đập nước, tung voi trận xông ra. Quân tinh nhuệ đã đi xa, quân thủy bị ngược dòng không tiến lên được. Kết quả quân Đại Việt bị thua to, hàng trăm tướng tử trận. Quý Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về Thăng Long. Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương chống giữ ở Ngu Giang, biết mình thế yếu, bèn dùng kế giương nhiều cờ xí, buộc thuyền lớn vào cọc, sai người canh giữ, đang đêm dong thuyền nhẹ rút lui. Về việc này, Việt sử tiêu án có ghi rằng:
Việc này Quý Ly trốn trước, Đa Phương trốn theo, thế mà còn cho rằng: toán quân đi giữ gìn sau cùng, là công của mình, có vẻ khoe khoang, thế là những người thua bỏ chạy 50 bước cười người chạy 100 bước, lại không xấu hổ với quân lính buộc thuyền giữ cây gỗ đó hay sao? Còn tài cán gì mà khoe khoang.
Quân Chiêm không dám đuổi theo. Quân Đại Việt rút lui trọn vẹn không bị tổn thất. Trở về kinh thành, Nguyễn Đa Phương cậy công lớn có ý lên mặt, công khai chê Quý Ly là bất tài. Quý Ly căm tức, nói với Nghệ Tông rằng trận thua này là do nghe lời Đa Phương. Nghệ Tông nghe vậy bèn cách chức Đa Phương. Quý Ly lại bảo Nghệ Tông nên giết Phương vì sợ Phương đi hàng Chiêm, khiến Đa Phuơng phải tự vẫn.
Bấy giờ, quân nổi loạn khắp nơi, Nguyễn Thanh làm loạn ở Lương Giang, Phạm Sư Ôn nổi dậy ở Quốc Oai. Về việc này, Việt Nam sử lược ghi rằng:
Bấy giờ trong triều thì Lê Quý Ly chuyên quyền, chọn những chân tay cai quản các đội quân để làm vây cánh, ngoài các trấn thì giặc giã nổi lên nhiều lắm. Ở Thanh Hóa có tên Nguyễn Thanh tự xưng là Linh Đức vương làm loạn ở Lương Giang; tên Nguyễn Kị tự xưng là Lỗ vương làm loạn ở Nông Cống. Ở Quốc Oai thì có người sư tên là Phạm Sư Ôn nổi lên đem quân về đánh Kinh sư. Thượng hoàng, Thuận Tông và triều đình phải bỏ chạy lên Bắc Giang. Phạm Sư Ôn lấy được Kinh sư, ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Bấy giờ có tướng quân là Hoàng Phụng Thế đóng ở Hoàng Giang để phòng giữ quân Chiêm Thành, nghe tin Sư Ôn phạm đất Kinh sư mới đem quân về đánh lẻn bắt được Sư Ôn và phá tan giặc ấy.
Lúc đó, quân Việt và quân Chiêm cầm cự nhau ở sông Hoàng giang (khúc sông Hồng ở Hà Nam). Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai Trần Khát Chân lúc đó đang nắm quân Long Tiệp đi chống quân Chiêm. Đến năm 1390, Chế Bồng Nga bị tướng Trần Khát Chân cho quân dùng súng bắn chết. Quan quân đánh đuổi tàn quân rồi cắt lấy đầu Chế Bồng Nga đem về dâng triều đình. Nghệ Tông thấy đầu Chế Bồng Nga, tự ví mình như Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ.
Năm 1391, Lê Quý Ly đi tuần Hóa châu, xét duyệt quân ngũ, sai tướng coi quân Thánh Dực Hoàng Phụng Thế đánh quân Chiêm. Quân Chiêm mai phục, quân Thánh Dực tan vỡ, Phụng Thế đầu hàng, khi quân chạy về, Quý Ly sai chém 30 viên đội phó.
Trước đây, khi Trần Nghệ Tông giết vua Trần Phế Đế, định lập Trần Ngạc làm vua, nhưng Quý Ly lại lừa Nghệ Tông khiến cho Nghệ Tông lập vua Thuận Tông. Ngạc có hiềm khích với Quý Ly, sợ bị giết, liền bỏ chạy ra Nam Định. Thượng hoàng Nghệ Tông sai tướng Nguyễn Nhân Liệt bắt về. Quý Ly ngầm ra lệnh Liệt giết Trần Ngạc, về sau Thượng hoàng tỉnh ngộ, hỏi ai ra lệnh giết Trần Ngạc, Nguyễn Nhân Liệt sợ nên thắt cổ chết.
Đến năm 1392, tôn thất Trần Nhật Chương lập mưu giết Quý Ly, Thượng hoàng sai người giết Nhật Chương. Có người học trò Bùi Mộng Hoa dâng sớ có ý khuyên Thượng hoàng trừ Quý Ly, Thượng hoàng đem tờ tâu ấy cho Quý Ly xem, sau Quý Ly nắm đại quyền, Mộng Hoa lánh không ra nữa. Quý Ly dâng sách mình soạn, tên Minh đạo, gồm 14 thiên dâng lên, Quốc tử trợ giáo Đoàn Xuân Lôi cho là không đúng, bị đày đi xa.
Dời đô về Thanh Hóa.
Cổng Nam Thành nhà Hồ, thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1394, tháng 2, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ban bức tranh Tứ phụ cho Quý Ly. Trong tranh ấy vẽ Chu công giúp vua Chu Thành vương, Hoắc Quang giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hậu chủ, Tô Hiến Thành giúp vua Lý Cao Tông, gọi là tranh Tứ phụ, ý nói nên giúp vua Thuận Tông cũng nên như thế.
Thượng hoàng ban đêm nằm mơ thấy Duệ Tông về đọc cho bài thơ, Thượng hoàng suy ngẫm về bài thơ, cho đó là điềm Quý Ly lấy mất ngôi vị nhà Trần, nhưng không thể làm gì được nữa. Tháng 4, Thượng hoàng Nghệ Tông gọi Quý Ly vào:
Bình chương là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước suy yếu, trẫm thì già nua. Sau khi trẫm chết, quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua.
Quý Ly cởi mũ, khấu đầu khóc lóc mà thề rằng:
“Nếu hạ thần không hết lòng hết sức giúp nhà vua, thì trời tru đất diệt. Vả ngày trước Linh Đức vương (tức là Phế Đế) có lòng làm hại, nếu không có uy linh của bệ hạ, thì nay đã ngậm cười dưới đất, còn đâu ngày nay nữa mà mài thân nghiền cốt để báo đền vạn nhất! Vậy hạ thần đâu có ý gì khác, xin bệ hạ tỏ lòng ấy cho và đừng lo gì!"
Tháng 12, năm 1394, Thượng hoàng Nghệ Tông băng hà. Năm sau, Lê Quý Ly lên làm Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung Vệ quốc Đại vương, đeo lân phù vàng. Ông cho người dịch thiên Vô Dật ra chữ Nôm để dạy Thuận Tông và tự xưng là Phụ chính Cai giáo Hoàng đế. Vua cho Quý Ly ở bên hữu sảnh, đài gọi là Họa lư.
Đến năm 1397, Quý Ly sai viên quan Đỗ Tỉnh đi xem đất và đo đạc động An Tôn phủ Thanh Hóa, ý muốn di chuyển kinh đô về Thanh Hóa. Phạm Cự Luận và Nguyễn Nhữ Thuyết can, Quý Ly không nghe. Quý Ly bỏ Nguyễn Nhữ Thuyết không dùng, điều mưu sĩ Phạm Cự Luận đi đánh quân phản loạn ở Tuyên Quang, người này bị thua trận chết. Như vậy khi đã nắm đại quyền, hai người tâm phúc, là tướng quân Nguyễn Đa Phương và mưu sĩ Phạm Cự Luận đều bị Lê Quý Ly trừ bỏ. Đến tháng 11, Quý Ly bức vua Thuận Tông dời kinh đô về Thanh Hóa, cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm nói mật với vua rằng dời đô thế nào cũng bị cướp ngôi, Quý Ly cho giết cả.
Theo Lê Quý Đôn, thể lệ của nhà Trần, dùng người trong tộc họ Trần làm Tể tướng, dẫu nắm công việc trong nước, cũng không được quyền cai quản quân đội, quyền bính trong nước do quan Hành khiển giữ. Vua Nghệ Tông phá lệ, không dùng người họ Trần, phong Hồ Quý Ly làm Bình chương Phụ chính, lại cai quản cả quân đội, khiến cho quyền Hồ Quý Ly to lớn, mới gây ra họa cướp ngôi.
Triều đại Trần Thiếu Đế.
Năm 1398, Hồ Quý Ly bức vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử An, tức vua Trần Thiếu Đế; lúc ấy Thái tử mới có 3 tuổi. Còn mình tự xưng Khâm đức Hưng liệt Đại vương. Đến năm 1399 lại sai Xa kỵ vệ thượng tướng quân Phạm Khã Vĩnh giết vua Thuận Tông. Ít lâu sau, Thái bảo Trần Nguyên Hãng, Thượng tướng quân Trần Khát Chân cùng Phạm Khả Vĩnh lập mưu giết Quý Ly, sự việc không thành, những người đồng mưu gồm 370 người đều bị giết.
Tháng 6, năm 1399, Quý Ly tự xưng làm Quốc tổ Chương hoàng, vào ở cung Nhân Thọ, điềm nhiên mặc áo vàng, ra vào hoàng cung theo lệ như Hoàng đế, dùng 12 cái lọng vàng. Con thứ là Hán Thương xưng là Nhiếp thái phó, ở bên hữu điện Hoàng Nguyên. Con cả là Nguyên Trừng làm Tư đồ. Bảng văn thì đề là Phụng Nhiếp chính Quốc tổ Chương hoàng, chỉ xưng là "dư" mà chưa dám xưng "trẫm".
Cướp ngôi vua.
Tháng 2 năm 1400, Quý Ly lúc ấy đã 64 tuổi, bức vua Trần nhường ngôi, buộc các quan và tôn thất ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi. Quý Ly giả vờ ba lần từ chối, nói: Ta sắp xuống lỗ rồi, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất nữa. Rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu, đổi thành họ Hồ.
Chưa được một năm, theo cách nhà Trần, ông nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn tự mình quyết đoán mọi công việc. Về phần Trần Thiếu Đế, do là cháu ngoại nên ông chỉ phế làm Bảo Ninh Đại vương và giam lỏng.
Để dò xét ý hai con là Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng, Hồ Quý Ly ra câu đối "Phiến đá kỳ lạ này, có lúc làm mây làm mưa để làm tươi mát cho dân sinh." Nguyên Trừng biết ý phụ hoàng, đối lại "Ba tấc gỗ thông đây, một ngày kia sẽ làm rường làm cột giúp xã tắc.", tỏ ý sẽ hết lòng phò trợ Hán Thuơng. Dù vậy, giữa Hán Thương và Nguyên Trừng vẫn có điều bất hoà. Viên cận thần Nguyễn Ông Kiều biết chuyện, đi nói cho người ngoài nghe, bị Hồ Quý Ly giết chết.
Đến đây không nói thêm về chính sách cai trị của Hồ Quý Ly và việc nhà Hồ bị nhà Minh Trung Quốc đánh bại để Việt Nam rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 4.
Mục đích của bài viết chỉ muốn đề cập đến việc nhà Trần rơi vào tay Hồ Quý Ly cũng chỉ vì nguyên nhân do Thái Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tham quyền cố vị muốn nắm giữ quyền lực nhưng nhu nhược thiếu dũng khí, thiếu sáng suốt, thích nịnh hót, không phải một minh quân để Hồ Quý Ly lộng quyền, tiếm quyền dùng mọi âm mưu thủ đoạn tàn độc để cướp ngôi báu.
(Còn tiếp).
Nói về quan hệ Ta- Tàu trong giai đoạn lịch sử từ năm 1976 đến nay nó thế nào chỉ cần tìm hiểu về hai ông TBT đó là ông Lê Duẩn, ông Nguyễn Văn Linh, sẽ đặt chúng ta vào tình thế khó lý giải.
Những người lãnh đạo Việt Nam họ coi trọng cái gì hơn, Chủ nghĩa xã hội hay lợi ích dân tộc?
Chủ nghĩa xã hội và lợi ích quốc gia có mâu thuẫn với nhau, có thể cùng tồn tại?
Cho đến nay đảng CS Việt Nam đều coi Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh là “những nhà lãnh đạo kiệt xuất” cống hiến cho đất nước, không hề có quan điểm rạch ròi, ai đúng, ai sai, hay thế nào.
Nếu Lê Duẩn chống Tàu vì lợi ích, chủ quyền quốc gia thì Nguyễn Văn Linh và những kẻ bám đuôi Tàu là bán nước.
Ngược lại Lê Duẩn chống Tàu đem đến chiến tranh giữa Ta và Tàu, đẩy đất nước đi đến tụt hậu, chậm phát triển Lê Duẩn phải là tội đồ.
Đường lối không thể lập lờ, lập lờ như thế vì mục đích gì, cần có câu trả lời.
Chống Tàu, hay lệ thuộc Tàu đều có bằng chứng trong lịch sử.
Lệ thuộc Tàu, hữu hảo với Tàu được không bằng mất, đến khi nhận ra bản chất, bộ mặt thật của Tàu chống lại Tàu, chống một cách điên cuồng mất lý trí… cái vòng luẩn quẩn này diễn ra cũng từ căn bệnh hoang tưởng quyền lực, sợ mất quyền lực, nên sẵn sàng bảo vệ quyền lực bằng mọi giá, đem lợi ích dân tộc, xương máu của nhân dân ra làm công cụ.
-TBT LÊ DUẨN.
Phim tài liệu về Tổng bí thư Lê Duẩn có nêu:
“TBT Lê Duẩn vẫn thường cố gắng cắt nghĩa là tại sao Trung Quốc đô hộ Việt Nam 1.000 năm mà không đồng hóa được ta? Bởi 1.000 năm là quá dài, và người Trung Quốc chưa bao giờ giấu diếm tham vọng ấy suốt những thời kỳ họ cai trị Việt Nam”
Năm 1972, trong một cuộc trò chuyện với Chu Ân Lai, nhắc lại về Hiệp định Geneva, ông Lê Duẩn đã không ngần ngại lên án: “Năm đó, người Trung Quốc các anh đã bán đứng chúng tôi trên bàn đàm phán”.
Trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, nhân danh việc chi viện, giúp đỡ chúng ta, rất nhiều lần Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ. Có lần Trung Quốc đề nghị cho chúng ta 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện kèm lái xe của họ. Nhưng TBT Lê Duẩn không nhận bất cứ một chiếc xe nào.
Có người trong Bộ Chính trị đề nghị “sao ông không nhận một vài chiếc cho người ta vui?”, nhưng TBT Lê Duẩn vẫn kiên quyết giữ lập trường của mình: “Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này”.
Hiến Pháp 1982 lúc đó Lê Duẩn là TBT đã nêu đích danh “… chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình…”
Lê Duẩn lúc cần giả vờ nhịn Tàu, nhưng tâm địa hận Tàu khi có thời cơ là chống Tàu công khai, quyết liệt.
TBT NGUYỄN VĂN LINH.
TBT Nguyễn Văn Linh kế nhiệm Lê Duẩn sau khi Lê Duẩn chết.
Bản thân TBT Nguyễn Văn Linh lúc đầu đi theo đường lối của Lê Duẩn dẫn đến quan hệ Ta - Tàu trở thành thù địch.
Chiến tranh 10 năm, bị thế giới cô lập, kinh tế suy kiệt, nhưng Nguyễn Văn Linh vẫn thủ cựu bám giữ con đường XHCN quyết tâm chống Mỹ, không đi theo con đường phát triển tư bản.
Sau khi Liên Xô tan rã, Chủ nghĩa xã Đông Âu sụp đổ, không còn chỗ dựa Nguyễn Văn Linh từ bỏ quan điểm chống Tàu quyết liệt của Lê Duẩn quay lại quỹ đạo Trung Quốc một cách luồn cúi nhất.
Sau đây xin trích Hồi ký của Lý Gia Trung , cựu đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam về con đường Nguyễn Văn Linh đi đến ngả vào lòng Trung Quốc, mà theo như ông Nguyễn Cơ Thạch “bắt đầu đưa nước ta vào thời kỳ Bắc thuộc một lần nữa”
Thông qua Cay-xỏn Phôm-vi-hản (Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào) Nguyễn Văn Linh bắn tin đến Đặng Tiểu Bình.
Cay-xỏn Phôm-vi-hản gặp Đặng Tiểu Bình thành khẩn thừa nhận trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không bình thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn toàn bình thường hóa quan hệ hai nước.
Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản còn chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu Bình, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối với tình hình Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, còn nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung Quốc.
Đặng Tiểu Bình cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh và nói:
- Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lý trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đã già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam khôi phục bình thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ.
Đặng Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi Campuchia. Đặng Tiểu Bình nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ý kiến đó tới Nguyễn Văn Linh.
Ngoài ra Đặng Tiểu Bình còn nói một câu ý vị sâu sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đã mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung – Việt đều không thể hy vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch.
Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đã kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu Bình. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch.
Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào thì phải bàn với Trung Quốc. Ông còn ý thức được rằng Đặng Tiểu Bình tuy đã gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời mình thăm Trung Quốc. Trong tình hình đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết.
Ngày 5-6-1990, qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đã gặp Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu Bình v.v… Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu Bình là người cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học trò của họ.
Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít.
Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đã viện trợ to lớn cho Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc thì Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ.
Nguyễn Văn Linh nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất, Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đã xuất hiện tình hình khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đã làm một số việc không tốt với Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai thì phải sửa. Mong các đồng chí Trung Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đã qua rồi thì để nó qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này.
Nguyễn Văn Linh nói tình hình quốc tế đang thay đổi mạnh, tình thế ở Đông Âu diễn biến rất phức tạp, tình thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can thiệp, ra sức làm diễn biến hòa bình, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là thành trì của hòa bình thế giới, nhưng hiện nay thành trì này đang lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong tình hình hiện nay, Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực lòng của ông.
Nguyễn Văn Linh nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách hòa bình, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary hòa giải với Heng Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên hiện nay. Ý tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế.
Nguyễn Văn Linh tỏ ý ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc cao nhất để trao đổi ý kiến một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy người lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau thì dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh còn nói, ông đã nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng với người lãnh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ Việt –Trung.
Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có dụng ý là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói gì, cũng có thể lúc ấy [Tổng Bí thư] còn có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.
Sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có chỉ thị gì. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hãy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà lãnh đạo hai nước. Trong tình hình đó, làm cách nào để phá vỡ thế bí, thực hiện cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc là vấn đề đòi hỏi Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất lung.
Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xã hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương.
Đại sứ đã tiếp ông này tại phòng khách Sứ quán. Vì Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch.
Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. Vì vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.
Nói đoạn, Hoàng lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đã được Tổng Bí thư soát lại không có gì sai. Trong đó có đoạn nói :
“Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng Tiểu Bình và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những năm còn sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam bình thường hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ trì Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên ĐCSVN dành cho tôi.”
“Sở dĩ vấn đề Campuchia – trở ngại ấy cãi nhau mãi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc này. Tôi cho rằng hiện nay người lãnh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục tình hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan điểm như vậy thì đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung Quốc.”
“Để việc thảo luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung Quốc.”
“Điểm xuất phát tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe ý kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng, cũng là để các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu rõ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn tìm ra phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia. Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.”
“Nếu được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây dựng tình hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách mạng chung.”
Đỗ Mười mà Nguyễn Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung ương Đảng.
Hoàng giải thích, ông hiểu ý của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm ngầm gây bế tắc, tiến trình Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao quán triệt chấp hành.
Tiễn đưa Hoàng xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong nước biết các ý kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời [Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước quan điểm và kiến nghị của mình hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời rõ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đòi phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới thu xếp cuộc gặp người lãnh đạo hai nước. Trong tình hình này, nếu lặp lại ý kiến của bên nhà thì coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác với ý kiến bên nhà thì liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong nước chăng?
Vì việc đó, chiều hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước rõ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện tình hình mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lãnh đạo nước ta; vì vậy Đại Sứ quán nên căn cứ tình hình mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ.
Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện tìm hiểu ý đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả gì lập tức báo cáo trong nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rõ mức độ khó khăn của công việc này.
8 giờ sáng ngày 20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế sách hay nào. Mọi người đều rõ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh truyền hình đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong các buổi chiêu đãi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung Quốc. Trong tình hình như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào tìm gặp được người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng không ai biết.
Trong tình hình tìm không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức Anh còn nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc phòng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.
Quả nhiên Đại tướng Lê Đức Anh rất vui lòng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày 21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc phòng Việt Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngỏ ý bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ý kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ý sẽ lập tức làm ngay việc này.
Chiều hôm ấy Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà khách Bộ Quốc phòng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ còn nói việc này chỉ có ông và Trưởng phòng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam biết, những người khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ Trương.
Có những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đã ấn định 6 giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đã gửi thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ đến Đại Sứ quán. Sau khi vào phòng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu não đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp tân dìu đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere của tôi lại tái phát, làm cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, vì thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài được một lúc thôi ạ. Ông Lý, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm bình phục.” Nói đoạn, ông thân chinh dìu Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi phòng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đã nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có gì sai cả.
Nguyễn Văn Linh nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung Quốc.
Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, vì không đồng ý với một số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”.
Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại vì ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ý với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung Quốc. Nếu Bác Hồ còn thì nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ quặc như thế.
Nguyễn Văn Linh còn nói, chính sách của Việt Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quý giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có tình có lý.
Nguyễn Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rõ ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc bình thường hóa mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn lòng người đối với toàn đảng và toàn dân Việt Nam.
Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rõ tính chất quan trọng và bức thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ý đồ gây rối, hiện nay con đường này rất khó đi. Vì vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, cùng bàn bạc phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh còn nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc thì đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt Nam ý định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà nước Võ Chí Công, trực diện chuyển ý kiến của người lãnh đạo Trung Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn.
Đại sứ Trương cảm ơn Nguyễn Văn Linh đã tiếp và tỏ ý sẽ lập tức báo cáo trong nước biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.
Gặp gỡ bí mật Thành Đô
Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đã chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, vì để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên.
Đại sứ Trương Đức Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu tìm cách nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn Linh. Nhờ đã có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đã có chút vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc phòng Việt Nam. Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh.
Một tiếng đồng hồ sau, Trưởng phòng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lãnh đạo Việt Nam khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ý của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên.
Qua sự bố trí của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Phòng khách Trung ương ĐCSVN.
Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ý kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc nội bộ.
Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ý với thời gian và địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị.
Nguyễn Văn Linh còn nói, nếu tình hình sức khỏe cho phép thì đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết tình hình cuộc gặp chiều nay.
Ngày 30, trong nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch trình đại thể của lần gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ trưa đến Thành Đô, buổi chiều lãnh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ý, Đại sứ Trương sẽ cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm.
Sáng ngày 3, tôi đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh.
Phía Việt Nam tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi còn có Chánh Văn phòng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên Trung ương Đảng), còn lại là các nhân viên công tác.
Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân bay thì thấy một xe con kiểu bình thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nhìn, vì xe không treo màn cửa nên có thể thấy rõ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay xong, chuyên cơ liền cất cánh.
Sau khi từ Thành Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lãnh đạo hai nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ bình thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu.
Nguyễn Văn Linh tỏ ý có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng thì nói phương án của phía Trung Quốc đã không công bằng lại cũng không hợp lý. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ý dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh.
Về mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, hai bên đều có thái độ nhìn về phía trước, không rà lại các món nợ cũ. Lãnh đạo hai nước đều đồng ý dựa theo tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lãnh đạo hai nước đã ký kết “Biên bản Hội đàm”.
Tổng Bí thư Giang Trạch Dân còn ý vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm dịch : Qua kiếp nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan khai, thiên tải tình nghị hựu trùng kiến.”
Để bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn phòng Đối ngoại đã làm rất nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đã phải đưa đi nơi khác tất cả các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.
16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc –Việt Nam
Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam.
Tháng 2-1999 lãnh đạo Trung Quốc – Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ vàng”.
Tháng 7 và tháng 11 năm 2005, lãnh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai quốc gia và nhân dân hai nước mãi mãi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên một chặng đường mới.
PHẦN 7.
TẠI SAO PHẢI GIẤU DIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Sau khi nhà Hồ bị diệt vong, Hồ Quý Ly bị di lý sang Bắc Kinh rồi chết tại đây, Việt Nam rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư.
Tạm dừng lần theo dòng chảy lịch sử, một câu hỏi được đặt ra, tại sao những bị kịch nồi da xáo thịt, tranh dành quyền lực trong các triều đại phong kiến Việt Nam không được đưa vào sách giáo khoa, hay tuyên truyền trên báo chí?
Kể từ khi những người cộng sản cầm quyền năm 1945, bắt đầu với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, sau đó trên toàn cõi Việt Nam năm 1975, mấy thế hệ con người Việt Nam được dạy dỗ lịch sử là những trang hào hùng đánh thắng hết thế lực thù địch này, ngoại xâm kia, các ông vua từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần… đều anh minh tài giỏi… hiếm khi nhìn nhận mặt trái của các sự kiện, nhân vật lịch sử.
Đây có phải là vấn đề tự tôn dân tộc, hay cố tình che giấu thậm chí bóp méo lịch sử cho những mục đích vụ lợi, phục vụ cho mục đích chính trị?
Những kẻ độc tài, những chế độ chuyên chế, chuyên quyền họ rất giỏi dùng lịch sử làm công cụ tuyên truyền, cai trị.
Cái gì có lợi thì xấu cũng thành tốt, cái gì có hại thì tốt cũng thành đổ bỏ đi. Bất chấp những nguyên tắc trật tự và tiến bộ, văn minh và luật pháp.
Ai đã từng xem phim Thuỷ Hử một bộ do Hồng Kông, một bộ do Trung Quốc đại lục sản xuất sẽ thấy cùng cốt truyện nhưng khi lên phim đều có sự cài cắm thông điệp riêng của mình.
Trong khi phim Hongkong nặng về tính giải trí, ca ngợi khí phách, tinh thần thượng võ, anh hùng hảo hán của các nhân vật …
Thì phim Thuỷ Hử do đài truyền hình Bắc Kinh sản xuất lại cố gắng chính trị hoá truyền đi một thông điệp hoàng thượng là anh minh, chống lại triều đình là chết, dụng ý tuyên truyền, cảnh báo cho bất cứ kẻ nào, thế lực nào chống lại nhà cầm quyền, và sự kiện đàn áp thanh niên, sinh viên ở Thiên An Môn năm 1989 là một minh chứng về sự tàn bạo của các chế độ chuyên quyền dù nó ở bất cứ ở hình thức, thể chế xã hội nào.
Chống tham nhũng ở Trung Quốc, hay ở ta cũng có những đặc điểm giống nhau, trong thực tế hay trong phim ảnh dù được tuyên truyền “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” nhưng thực tế hình ảnh đồng chí bí thư bao giờ cũng xuất hiện đúng lúc, anh minh, sáng xuất chỉ đạo kịp thời tháo gỡ ngòi nổ, cũng như lãnh đạo cấp cao của đảng được tô hình vẽ bóng chẳng khác gì thánh nhân.
Chế độ hiện thời có khác gì triều đại phong kiến ngày trước, có khác chỉ là cái áo khoác ngoài, theo một màu sắc mới.
Chẳng nói đâu xa, chương trình Táo quân vào đêm 30 Tết phản ánh một hiện thực, giữa một thời đại mà họ nói đến chính phủ điện tử, thời đại công nghệ này nọ mà vẫn phải núp bóng chuyện trên trời để cho dân có một miếng ăn dân chủ do họ tạo dựng.
Ngọc Hoàng là ai? Ngọc Hoàng anh minh, mỗi lời nói của Ngọc Hoàng đều là khuôn vàng thước ngọc - dối trá, giả tạo, thần thánh hoá lãnh đạo một cách trơ trẽn sống sượng. Ngụy biện, bao che cho đường lối, chính sách phục vụ cho mục đích cướp và vét của một lũ quan trường hủ lậu, tàn ác, đạo đức giả.
Sở dĩ họ muốn che giấu mặt trái của lịch sử vì đấy chính là mặt trái của chế độ mà họ đang cầm quyền.
Họ muốn tạo ra một ảo tưởng cho dân chúng về vinh quang và thắng lợi, về tương lai và tiền đồ, để cho người dân ảo tưởng về con đường mà họ dẫn dắt, định hướng mà không nhìn nhận ra từ thực tế lịch sử, đó chỉ là bịp bợm.
Tất cả những kẻ cố bám giữ quyền lực là những kẻ vì tham quyền cố vị đều tàn ác, mưu mô và thủ đoạn như nhau, lịch sử đã chứng minh điều này.
Đây chính là nguyên nhân họ không đưa vào sách giáo khoa lịch sử, để cho các thế hệ qua đó nhìn thấy chân tướng thật, bản chất thật của một chế độ chuyên quyền.
Mở cửa, nhiều người Việt Nam biết đến nước Mỹ “bằng da bằng thịt” không phải trên báo chí tuyên truyền.
Những năm chiến tranh báo Nhân dân có chụp một bức ảnh trên đường phố ở New York có đặt những trạm ô xi để người dân chui vào đó hít thở vì không khí ở đó bị ô nhiễm nặng nề, với tiêu đề “Nước Mỹ trong cơn hấp hối”
Dân ta lúc ấy ai cũng tin là thật, thực tế đấy là những bốt điện thoại công cộng.
Đến thủ đô Washington thăm đài tưởng niệm những người lính Mỹ chết trong chiến tranh mới hiểu tại sao nước Mỹ là một siêu cường dẫn dắt thế giới.
Đài tưởng niệm gồm 3 phần nối tiếp với nhau.
Ở giữa tại cốt không (mặt đất) là lá cờ nước Mỹ và tượng đài người mẹ với người lính, phía trên cao là quả đồi có đài tưởng niệm Abraham Lincoln.
Phía bên này của lá cờ là phần đi dưới lòng đất, ở đây ghi tên những người lính chết trong các trận chiến ở Việt Nam.
Đài tưởng niệm này muốn truyền đi thông điệp, nước Mỹ hiện tại (nơi có lá cờ) được hình thành từ cả thắng lợi vinh quang, thất bại và nhục nhã. Nhưng tất cả chính là nước Mỹ có tự do mà người khởi xướng là Abraham Lincoln.
Lịch sử ở nước Mỹ được phản ánh trung thực như vậy, chính điều này đã tạo ra nước Mỹ vĩ đại.
(Còn tiếp)
PHẦN 8.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Hoàng Thành Thăng Long được khai quật, di tích của đời sau đè lên đời trước, hiện vật để lại cho thấy có một Thăng Long tráng lệ và Việt Nam đã từng là một quốc gia hùng cường trong khu vực châu Á nhưng tranh giành quyền lực giữa các triều đại đã tàn phá, hủy hoại nó.
Không những Thăng Long mà cả Hội An, Huế… đều trong hoàn cảnh tương tự.
Khi cầm quyền lực trong tay, dù có anh minh tài giỏi đến đâu, có công lao dựng xây như thế nào nhưng cố bám giữ quyền lực cuối cùng cũng đi đến kết cục bi thảm.
Càng cố thì càng phải ác, để hận thù chồng chất nên kẻ tiếm quyền dùng mọi hành động tàn ác để trả thù, diệt tận gốc chốc tận rễ chém giết không ghê tay và phá hủy các công trình … đây như là một nguyên tắc sống còn để bảo vệ triều đại và chế độ, khiến nước ta đã từng là nước phát triển, rồi trở thành nước chậm phát triển, việc này cứ lặp đi lặp lại trong suốt chiều dài lịch sử và đến hiện tại.
Điều tai hại nhất của những người cầm quyền là họ không dám nhìn nhận vào sự thật lịch sử như một bài học mà còn giấu nhẹm, bẻ cong lịch sử cho các mục đích chính trị và tham vọng quyền lực.
Trong các giáo trình và các sách đương đại họ lý giải kinh thành Thăng Long bị tàn phá là do người Pháp phá hủy khi tấn công và chiếm đóng, với mục đích để tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc, khẳng định con đường của cách mạng vô sản là đánh đổ, đào huyệt chôn chế độ tư bản có tính sống còn cho phát triển đất nước.
Việc di tích Hoàng thành Thăng Long được khai quật cùng với những sử liệu gần đây được công bố từ nhiều nguồn đã chứng minh thậm chí đảo ngược những luận điểm lịch sử bị bóp méo.
Hoàng thành Thăng Long, cùng với Hội An, cố đô Huế bị tàn phá chính từ những cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ và đến khi người Pháp chiếm được nó chỉ còn những phế tích bên trên, còn hoàng cung tráng lệ đã nằm sâu trong đất.
Về sự tồn tại của thành Thăng Long, sách Đại Việt sử ký toàn thư bản kỷ tục biên– Thế tôn Nghị Hoàng đế kỷ cho biết: từ thời nhà Mạc, thành Thăng Long đã được tu sửa, nhưng đến khi nhà Mạc bị diệt thì thành đã bị thiêu hủy vào năm Quang Hưng thứ 15 (1592) . Sách chép:
“Quan quân thừa thắng đuổi tràn đến tận sông. Phóng lửa đốt cung điện và nhà cửa trong thành, khói lửa kín trời.” (H1 tờ 29a).
Trên Tạp chí Xưa và Nay số 80B tháng 10 năm 2000 có bài viết “Dấu ấn Thăng Long Hà Nội (những năm đầu đến giữa thế kỷ XIX) của tác giả Đinh Xuân Lâm, trong bài viết có đoạn:
“Nhằm mục đích hạ thấp vai trò kinh đô cũ, để làm mất tư cách “quốc đô” lâu đời của Thăng Long, năm 1805 triều Nguyễn ra lệnh phá hủy khu hoàng thành cũ được xây dựng từ đời nhà Lê và cho xây một tòa thành mới quy mô nhỏ hẹp hơn nhiều ngay trên vị trí thành cũ…”(tlđd, tr. 10).
Năm 1514, Lê Tương Dực mở rộng Hoàng thành thêm mấy nghìn trượng (mỗi trượng là 3,6m) bao bọc cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ và chùa Kim Cổ Thiên Hoa.
Từ năm 1516-1527 là năm nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, kinh thành Thăng Long chìm trong loạn lạc. Hầu hết các cung điện kho tàng đền chùa cũng như phường phố bị thiêu đốt tàn phá nhiều lần.
Trong nửa cuối thế kỷ 16, cục diện Nam Bắc triều với một bên là nhà Mạc và một bên là Lê-Trịnh diễn ra quyết liệt với ưu thế ngày càng thuộc về phe Nam triều. Họ Trịnh lần lượt chiếm được nhiều tỉnh phía Bắc như Ninh Bình, Hà Nam, Bắc Ninh... và đánh đến tận Thăng Long. Nhà Mạc phải rời bỏ kinh thành chạy lánh nạn nơi này, nơi khác. Thăng Long ngày một điêu tàn.
Đến năm 1585, không chịu nổi kiếp sống lưu vong trường kỳ như vậy, Mạc Mậu Hợp quyết định trở lại Thăng Long. Một đợt xây dựng đại quy mô được khởi động. Từ đó về sau cũng không có lần nào Hoàng thành được xây dựng quy mô như thế nữa.
Năm 1599 Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc lên Cao Bằng tiến về tiếp quản Thăng Long. Hoàng thành được tu sửa trong một tháng để đón vua Lê ra. Rồi từ ấy trở đi, những cung điện mới xây đều nằm trong phủ Chúa. Hoàng thành bị bỏ hoang phế nhiều.
Thành Hà Nội từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20
Sự chuyển đổi từ kinh thành Thăng Long sang tỉnh thành Hà Nội
Năm 1788, Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đem đại quân 290.000 người sang chiếm Thăng Long không tốn một hòn tên mũi đạn. Dựa thế quân Thanh, Lê Chiêu Thống điên cuồng trả thù họ Trịnh. Phủ chúa bị Lê Chiêu Thống đốt trụi, cháy ròng rã một tuần mới hết. Tất cả những gì liên quan đến chúa Trịnh ở Thăng Long bị phá sạch. Kinh thành lại một lần nữa ra tro.
Đồng thời, những gì còn sót lại của Hoàng thành sau những trận đại hủy diệt cuối thế kỷ 18 cũng lần lượt bị các đời vua nhà Nguyễn chuyển nốt vào Phú Xuân phục vụ cho công cuộc xây dựng kinh thành mới. Chỉ duy có điện Kính Thiên và Hậu Lâu được giữ lại làm hành cung cho các vua Nguyễn mỗi khi ngự giá Bắc thành.
Năm 1805, Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng thành cũ vì cho rằng đây chỉ còn là Trấn Bắc thành mà Hoàng thành Thăng Long thì rộng lớn quá. Gia Long cho xây dựng thành mới theo kiểu Vô-băng của Pháp. Về quy mô thì nhỏ hơn thành cũ nhiều.
Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính lớn Minh Mạng đã cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội.
Đến năm thứ nhất đời Tự Đức 1848, lại hạ lệnh phá dỡ những vật liệu thuộc cung điện cũ của nhà Hậu Lê ở trong thành, mang hết các đồ chạm trỗ mỹ thuật bằng gỗ và bằng đá về Huế để trang trí các cung điện trong đó, các di tích xây dựng của các triều đại trước, vì vậy mất mát gần hết, chỉ còn sót lại đôi rồng đá trước thềm điện Kính Thiên”(tlđd, tr. 11).
Năm 1888 khi nhà Nguyễn chính thức nhượng hẳn Hà Nội cho Pháp. Người Pháp đổi tỉnh Hà Nội thành thành phố Hà Nội.
(Còn tiếp)
PHẦN 9.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Trước năm 1975 Sài Gòn có đường Gia Long và đường Nguyễn Huệ, đây là hai nhân vật lịch sử không đội trời chung với nhau.
Chính quyền Việt Nam Cộng hoà có vẻ nhìn nhận lịch sử khách quan tuy Gia Long và Nguyễn Huệ trên một khía cạnh nào đó đều có những vết đen trong lịch sử.
Đây mới là việc làm đúng đắn tôn trọng lịch sử phán xét một cách tích cực, công bằng.
Khen cho ai khéo lấy hai con đường một cách hình tượng để nói lên thân phận của Gia Long và Nguyễn Huệ.
Đường Nguyễn Huệ tuy to, nhưng ngắn, như số phận của vị anh hùng đánh đông dẹp bắc, công tích rực rỡ mà tuổi thọ ngắn ngủi.
Đường Gia Long tuy hẹp nhưng dài, bây giờ là đường Lý Tự Trọng. Ở phía đầu đường Gia Long là nhóm những vị khai quốc công thần của ông, đó là đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), đấy là đường Võ Tánh (Nguyễn Trãi Quận 1), Ngô Tùng Châu (nay là Lê Thị Riêng), quân sư Đặng Đức Siêu (đổi tên thành đường Nam Quốc Cang).
Trong khi đó ở Miền Bắc xã hội chủ nghĩa Gia Long theo sách giáo khoa lịch sử bị coi là kẻ bán nước, đại diện cho một triều đại phong kiến tàn bạo, sau năm 1975 đường Gia Long bị xoá tên.
Nguyễn Huệ được coi là anh hùng dân tộc, người có nhiều cải cách sau khi nắm vương quyền.
Đâu là sự thật lịch sử? Và thực chất câu chuyện về Nhà Tây Sơn như thế nào, lịch sử bị bóp méo vì mục đích gì?
Giai cấp vô sản lên nắm chính quyền, thành phần công nông trở thành giai cấp lãnh đạo, những gì thuộc về thực dân, phong kiến phải đào tận gốc trốc tận rễ.
Gia Long dĩ nhiên không thể được tôn vinh, một tên vua phong kiến cần phải bài trừ lôi ra đấu tố, vạch mặt.
Nguyễn Huệ xuất thân từ tầng lớp nông dân trở thành người anh hùng áo vải, tượng trưng cho sự quật khởi của một cuộc cách mạng chống áp bức bọc lột, biểu tượng trí tuệ và sức mạnh của quần chúng - Ai dám nói nông dân là thành phần vô học, thành phần dưới đáy xã hội? Ai dám dè bỉu giai cấp công nông không thể làm lãnh đạo?
Và họ muốn thông qua Nguyễn Huệ đế chứng minh giai cấp công nông xứng đáng là giai cấp lãnh đạo.
Lịch sử không phủ nhận công lao của Nguyễn Huệ về việc đánh thắng quân Thanh xâm lược, nhưng ca ngợi Nguyễn Huệ như một nhà chính trị, quân sự kiệt xuất với những công lao đưa nước ta trở thành hùng mạnh, thậm chí thêu dệt như một con người có nhân cách vĩ đại, một hoàng đế anh minh, nhân từ cần phải xem xét lại, đặt Nguyễn Huệ đúng vào những gì vốn có.
Nghiên cứu tư liệu sử từ nhiều nguồn một cách khách quan cho thấy Gia Long không hẳn như những gì họ ném vào sọt rác lịch sử, Nguyễn Huệ cũng có những mặt trái đáng ghê sợ, nhân cách cũng chưa vượt qua được sự cám dỗ của quyền lực, thậm chí Nguyễn Huệ mắc căn bệnh quyền lực đến mức đáng sợ làm bất kỳ điều gì tàn ác để chiếm đoạt quyền lực, bảo vệ quyền lực, và kết cục bị thất bại, nở cũng nhanh và tàn cũng nhanh.
Cũng như bất kỳ một cuộc khởi nghĩa, hay một cuộc cách mạng nào, ban đầu nhà Tây Sơn rất được lòng dân chúng, họ hi vọng một cuộc đổi đời nên dốc lòng ủng hộ, điều này chứng minh những chiến thắng vang dội của nhà Tây Sơn.
Nhưng đến khi nhà Tây Sơn muốn lấy thiên hạ thì tất cả những gì của căn bệnh quyền lực bắt đầu xuất hiện.
Trong nội bộ nhà Tây Sơn anh em bất hoà, Nguyễn Huệ đem quân đánh vào thành Quy Nhơn của anh cả Nguyễn Nhạc đây là tội bất trung, bất nghĩa….
Sự thất bại của quân Tây Sơn trước nhà Nguyễn thường được cho là vì cái chết của vua Quang Trung. Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử, tại sao Nguyễn Phúc Ánh bao nhiêu lần tay trắng bại vong lại vẫn nhận được sự ủng hộ của người dân? Nhà Tây Sơn đã làm những điều gì để mất lòng dân đến như vậy?
NHỮNG TỘI ÁC CỦA NHÀ TÂY SƠN.
- PHÁ HUỶ THƯƠNG CÀNG HỘI AN.
Khi nhà Tây Sơn cùng với chúa Trịnh đàng ngoài liên minh đánh nhà Nguyễn họ đã đốt phá thương càng Hội An, một thương cảng giao thương hàng đầu châu Á.
Từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Hội An được xây dựng và phát triển trở thành thương cảng tiêu biểu của châu Á và nổi tiếng khắp thế giới. Rất nhiều thương nhân từ Nhật Bản, Trung Quốc, châu Âu đến đây giao thương, biến Hội An thành hải cảng quốc tế tiêu biểu ở châu Á. Hội An là đô thị rất trù phú, được nhiều nơi trên thế giới biết đến, có rất nhiều khu phố dành cho thương gia nước ngoài.
Một người Ý là Christoforo Borri cư trú ở Hội An vào năm 1618 đã mô tả rằng:
“Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam”.
“Người Hoa và Nhật Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên, năm nào cũng mở và kéo dài trong bốn tháng. Người Nhật thường đem lại 4, 5 vạn nén bạc, người Trung Hoa thì đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ”
“Do chợ này mà Quốc vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc nhờ vậy cũng được nhiều lợi ích”.
Thế nhưng quân chúa Trịnh và quân Tây Sơn sau khi chiếm Quảng Nam đã tàn phá tất cả Hội An. Không chỉ sử liệu thời nhà Nguyễn mà nhiều thương gia phương Tây cũng chứng kiến ghi nhận cảnh này.
Vào thời điểm 1774-1775 là giai đoạn mà quân Trịnh tiến đánh Phú Xuân (Huế), chúa Nguyễn phải chạy về Quảng Nam, lại bị quân Tây Sơn đánh ra uy hiếp. Một bức thư năm 1775 của Halbout đã ghi nhận:
“Quân nổi loạn đã cướp bóc, cướp phá chẳng nương tay, đến nổi các tỉnh Cham cứ 20 người thì có 19 người chết vì bị đầy đọa khổ sở. Các giáo khu ở Hàn và Cầu Né đều không còn… Năm ngoái, ở Bầu Nghé từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch số giáo dân bị giết đến sáu trăm người… Ở một nơi khác cũng thời gian ấy, ít nhất có đến 1500 giáo dân bị giết. Suốt hai năm ròng gần như quanh tôi lúc nào cũng có người chết và hấp hối…”
Một người Anh Charles Chapman phải thốt lên rằng:
“Khi tới Hội An, thành phố lớn này chẳng còn lại là bao những khu phố được quy hoạch quy củ với những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một cảnh hoang tàn làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công trình ấy bây giờ chỉ còn đọng lại trong ký ức mà thôi”
Sau này thành phố Hội An đã được xây dựng lại nhưng không thể được như trước nữa, những khu phố sầm uất đã không còn, nhiều thương gia chứng kiến cảnh tàn phá cướp bóc cũng sợ hãi mà không dám quay lại.
Nhà nghiên cứu Tạ chí Đại Trường dẫn lời Linh mục Labartette miêu tả:
“Ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) không còn một con heo, gà, vịt, đường cát trước kia sản xuất rất nhiều nay biến mất, tiền mất giá một quan còn giá trị độ một đồng, tình trạng đói khổ ăn xin xuất hiện phổ biến trong xứ.”
Lê Quý Đôn cũng ghi nhận trong thảm cảnh ở Quảng Nam trong “Phủ biên tạp lục” như sau:
“…quá đỗi đói khổ cùng khốn, họ chỉ ngóng trông quân nhà vua đến giải cứu cho họ…”
- CÙ LAO PHỐ, TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI SẦM UẤT NHẤT NAM BỘ BỊ TÀN PHÁ
Trung tâm thương mại ở Nam Bộ là cù lao Phố nằm bên sông Đồng Nai thuộc xã Hiệp Hòa, Biên Hòa ngày nay. Nguồn gốc của nó là do một số tướng lĩnh nhà Minh do không quy phục nhà Thanh nên đến xin chúa Nguyễn được làm con dân Đại Việt và được cho phép khai phá vùng đất này.
Thời ấy thương nghiệp phát triển dẫn đến các nghề thủ công như dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo v.v.. rất phát triển. Nơi đây thuận tiện giao thông thủy bộ, buôn bán tấp nập, nên bắt đầu phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Nam Bộ.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” mô tả rằng Nông Nại đại phố lúc đầu do Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài – từng là tổng binh ba châu Cao – Lôi – Liêm dưới triều Minh) khai phá, ông “chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi từng rực rỡ trên bờ sông, liền lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ: nhai lớn giữa phố lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội…”
Trịnh Hoài Đức mô tả trong “Gia Định thành thông chí” của mình như sau:
“Các thuyền ngoại quốc tới nơi này (cù lao Phố) bỏ neo, mướn nhà ở, rồi kê khai các số hàng trong chuyến ấy cho các hiệu buôn trên đất liền biết. Các hiệu buôn này định giá hàng, tốt lẫn xấu, rồi bao mua tất cả, không để một món hàng nào ứ động. Đến ngày trở buồm về, gọi là ‘hồi đường’, chủ thuyền cần mua món hàng gì, cũng phải làm sẵn hóa đơn đặt hàng trước nhờ mua dùm. Như thế, khách chủ đều được tiện lợi và sổ sách phân minh. Khách chỉ việc đàn hát vui chơi, đã có nước ngọt đầy đủ, lại khỏi lo ván thuyền bị hà ăn, khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi…”.
Khi quân Tây Sơn đánh vào Nam bộ, lịch sử ghi nhận rằng cù lao Phố bị tàn phá, người Hoa kiều bị tàn sát. Quân Tây Sơn cướp bóc của cải chở về Quy Nhơn, những gì còn lại đều bị đốt sạch. Các cơ sở thủ công bị phá, dân chúng bị tàn sát, nước đỏ ngầu vì máu. Những người Hoa may mắn sống sót chạy về Bến Nghé, sau này thành lập lại trung tâm thương mại ở vùng Chợ Lớn.
Trịnh Hoài Đức mô tả sự việc này trong “Gia Định thành thông chí” rằng từ khi bị Tây Sơn tàn phá, “nơi đây biến thành gò hoang, sau khi trung hưng người ta tuy có trở về nhưng dân số không được một phần trăm lúc trước”.
Sau khi chợ búa cùng phố xá bị tàn phá nặng nề, các thương gia người Hoa rủ nhau xuống vùng Chợ Lớn, sinh sống và lập những cơ sở thương mãi khác cho đến nay. Kể từ đó, vùng cù lao Phố đánh mất vai trò là trung tâm thương mại của Đàng Trong mà thay vào đó là Chợ Lớn và Mỹ Tho.
- MỸ THO: VÙNG KINH TẾ HƯNG THỊNH BỊ TÀN PHÁ.
Vào năm 1679, một nhóm khoảng ba ngàn người Minh Hương được Chúa Nguyễn cho định cư vùng đất mới này. Trong nhóm có Dương Ngạn Địch đứng ra lập Mỹ Tho đại phố ở làng Mỹ Chánh, huyện Kiến Hòa. Khu đại phố này kéo dài đến Cầu Vĩ, Gò Cát, tức khu vực xã Mỹ Phong hiện nay. Rất nhiều làng xã mọc lên xung quanh khu vực Mỹ Tho: Thái Trấn lập làng An Hoà (sau đổi là Thạnh Trị), Nguyễn Văn Trước lập làng Điều Hòa (khu vực đường Nguyễn Hùynh Đức bây giờ ).
Vào thế kỷ 17, Mỹ Tho đã trở thành một trong hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ (trung tâm còn lại là cù lao Phố). Sự hưng thịnh của phố chợ Mỹ Tho cho thấy nền sản xuất nông – ngư nghiệp và kinh tế hàng hóa địa phương ở thời điểm đó đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là đối với ngành thương mại.
Tuy nhiên quân Tây Sơn đã tàn phá vùng kinh tế hưng thịnh này một cách không thương tiếc. Nhà nghiên cứu Sơn Nam đã mô tả trong “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” rằng:
“Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chàm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cứ, đổi làm chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm 1788 trở lại đây, người ta lần trở về, tuy nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nửa”.
Thậm chí người ta đã coi quân Tây Sơn như cường đạo. Tại Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ thì dân chúng “đều chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật gì”.
- THẢM SÁT NGƯỜI HOA Ở CHỢ LỚN.
Từ khi cù lao Phố bị phá hủy thì các hoạt động thương mại phải di dời tập trung về Chợ Lớn.
Năm 1782 Nguyễn Nhạc đến “18 thôn vườn trầu” thì bị phục kích thua trận. Nhận ra quân phục kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều người Hoa ủng hộ Nguyễn Phúc Ánh, Nguyễn Nhạc đã thực hiện một cuộc thảm sát đối với người Hoa.
“Nhạc bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10.000 người. Từ Bến Nghé đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. Còn như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy, nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đã dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 quan tiền, còn các loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở”.
Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc còn có dụng tâm tiêu diệt đầu não kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu.
Sự thật là quân Tây Sơn đã tàn sát bao nhiêu người? Linh mục Andre Tôn trong bức thư viết ngày 1/7/1784 mô tả số người chết trong cuộc thảm sát này là 10.000 đến 11.000 người, trong đó phần lớn là người Hoa. Linh mục Castuera, người đã có mặt ở Chợ Quán ngày 7/7/1782, ghi nhận có 4000 người Hoa bị giết. Số nạn nhân thật sự trong những cuộc thành trừng của Tây Sơn là không thể biết chính xác, nhưng một bầu không khí khủng bố đối với người Hoa ở đây là có thật.
- PHÁ LĂNG TẨM VÀ ĐÀO MẢ NHÀ NGUYỄN.
Sách Đại Nam thực lục có ghi chép rằng:
Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa.
Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy.
Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng.
Nhà Ngũ ở xã Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi.”
Như vậy là vua Quang Trung đã làm hai việc:
Phá lăng tẩm 8 đời chúa Nguyễn và quật mộ của thân sinh vua Gia Long. Tám đời chúa Nguyễn không hề có hận thù gì với anh em Tây Sơn, hơn nữa lại có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước. Vậy mà bị vua Quang Trung đối xử tàn tệ. Không lạ gì khi vua Gia Long đối xử tàn tệ với hài cốt của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc cùng con cháu và tướng tá thuộc hạ của Nguyễn Huệ.
Nhà viết sử Trần Gia Phụng có bình trong “Việt Sử Đại Cương” về hành động trả thù của vua Gia Long sau này rằng:
“Không kể cá nhân ông bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì ba việc chính:
thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định.
Thứ nhì, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790.”
*******
Bản thân tổ tiên lựa chọn đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn, hưởng phúc nhờ công mở mang bờ cõi của 8 đời chúa Nguyễn, vậy mà quân Tây Sơn không có thâm thù đại hận lại quật lăng quật mả nhà Nguyễn, vứt hài cốt xuống sông. Khẩu hiệu phò chúa Nguyễn, nhưng khi tới Gia Định nhà Tây Sơn lại muốn tận diệt hoàng tộc nhà Nguyễn. Đi kèm với đó là những cuộc tàn phá và thảm sát của quân Tây Sơn đối với người dân Đàng Trong. Tất cả đã cho thấy lý do tại sao nhà Tây Sơn thảm bại.
(Còn tiếp)
PHẦN 10.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Đánh giá Lịch sử không phải là đánh giá một bức tranh, người ta vẽ như thế nào thì bình như thế.
Lịch sử gắn với hiện thực, những nhân vật và sự kiện lịch sử đã qua đi nhưng chúng ta vẫn sống trong di sản văn hoá ấy, đất đai, công trình, đền đài, miếu mạo… từ nghìn xưa để lại.
Nó không đơn thuần là chứng tích của các cuộc tranh dành đất đai, quyền lực bằng các cuộc chiến đẫm máu trong lịch sử, mà cả trong hiện tại khi quyền lực vẫn còn độc quyền trong tay những kẻ tự cho mình có quyền cướp đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản của người khác.
Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu xã hội, thực chất là nghiên cứu bản chất con người, nghiên cứu về động cơ, dục vọng trong con người mà tham vọng quyền lực là điểm mấu chốt.
Ở phương Tây khoa học lịch sử đã soi đường cho sự phát triển chính là chỗ họ lấy bài học của lịch sử để xây dựng một hình thái nhà nước có thể kiểm soát được quyền lực, và không ai khác, chỉ khi nào quyền lực thuộc về nhân dân nạn binh đao mới chấm dứt.
Nhìn vào cách chuyển giao quyền lực ở Phương Tây đặc biệt là ở Anh, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch… những nước được coi là hình mẫu của “chủ nghĩa xã hội hiện thực”, sẽ là một thực tế để sáng tỏ.
Sự chuyển giao này không phải chỉ là đạo đức giả, bánh vẽ, bằng một nhà nước giả hiệu, nó có sự kế thừa, có sự chia sẻ và có cùng trách nhiệm, có sự tôn trọng cái văn minh tiến bộ, cái tinh hoa, và trên hết là nền tảng một xã hội có Hiến pháp, pháp luật- Pháp luật trên tất cả.
Chế độ vương quyền ở các quốc gia đó đã tồn tại hàng trăm năm, thậm chí theo nghìn năm, họ đại diện cho tầng lớp trên có ăn, có học, có địa vị, có tài sản được tích tụ, tích lũy qua nhiều đời… dĩ nhiên họ phải thuộc giới tính hoa cao quý, thực sự là rường cột tinh thần, linh hồn quốc gia.
Họ nhận ra bài học lịch sử, có thể nói tự họ phải chấp nhận chuyển giao quyền lực để tồn tại - Đấy chính là đẳng cấp của họ.
Nhân dân cầm quyền lực không có chỗ dựa tinh thần, không được dẫn dắt bởi những con người tinh hoa thì cũng chẳng khác nào một đám đông ô hợp tự đạp nhau mà chết.
Sự thỏa hiệp giai cấp để cùng nhau tồn tại hoà bình và thịnh vượng đã đem đến kết quả bằng một Hiến pháp, Luật pháp công bằng, tôn trọng các giá trị con người từ tự do dân chủ cho đến quyền sở hữu tài sản và trí tuệ…
Đến đây thoáng qua chúng ta liên tưởng đến hệ tư tưởng của Mác- Lê Nin về việc đánh đổ quyền lực của giai cấp tư bản bằng chuyên chính (bạo lực) cướp chính quyền có phải là một tư tưởng tiến bộ, hay cũng chỉ là của những kẻ hoang tưởng quyền lực đầy khát máu?
Những kẻ, những triều đại, chế độ đốt sách, đập phá di tích lịch sử, diệt tận gốc những ai được cho là kẻ thù của mình đều không có tương lai tốt đẹp cho họ và cho dân tộc, tại sao vậy?
Vì chính họ không biết lịch sử là một bài học, say sưa với chiến thắng, tự huyễn hoặc quyền lực, họ lại đi vào vết xe đổ bằng cách giấu nhẹm lịch sử, bóp méo lịch sử, xoá sạch lịch sử…
Họ che giấu tham vọng quyền lực bằng một nhà nước bịp bợm, bằng đạo đức giả và bằng những thủ đoạn đê tiện, và cả tội ác.
Họ tưởng họ lấp liếm, bịp bợm được người dân, nhưng họ đang tạo ra hận thù, và hận thù là con đường ngắn nhất đưa họ xuống địa ngục, đất nước loạn lạc.
Quay lại câu chuyện lịch sử về Nguyễn Huệ và Gia Long cho thấy chúng ta đang mất lịch sự theo cái cách bị các toan tính chính trị chi phối.
Chế độ Việt Nam cộng hoà trước đây họ đặt tên đường Nguyễn Huệ, và đường Gia Long đều có ý nghĩa của nó.
Và những người lãnh đạo cộng sản họ xoá tên đường Gia Long và thay đặt tên Nguyễn Huệ bằng tên Quang Trung cũng có ý đồ của mình.
Nguyễn Huệ là tên cha sinh mẹ đẻ, việc VNCH đặt tên đường theo nguồn gốc thiếu thời chứng tỏ họ đánh giá Nguyễn Huệ không xứng đáng là một ông vua.
Họ chỉ ghi nhận Nguyễn Huệ là một nhân vật lịch sử.
Gia Long là niên hiệu sau khi Nguyễn Phúc Ánh thống nhất đất nước đổi từ triều đại chúa Nguyễn sang vua của nước Việt Nam.
Nguyễn Huệ năm 1788 trên đường ra Bắc đánh quân Thanh lúc này thế lực đã mạnh quyết lấy thiên hạ với lý do vua Lê Chiêu Thống bán nước đã bỏ khẩu hiệu “phù Lê diệt Trịnh” tự phong mình là Hoàng đế xưng hiệu là Quang Trung năm thứ nhất.
Trong khi VNCH công nhận Nguyễn phúc Ánh làm vua nên đặt tên là đường Gia Long.
Miền Bắc cộng sản không công nhận Nguyễn Phúc Ánh làm vua, coi Nguyễn Huệ là vua nên đặt tên đường là Quang Trung.
Kẻ thù của nhau, khác nhau về tư tưởng nhận thức cũng là chuyện bình thường, bây giờ giang sơn đã về một mối, nhìn nhận hai nhân vật này như thế nào để có sự thống nhất và hơn hết có sự công bằng khách quan, có giá trị giáo dục và bài học để cho lòng người không còn chia rẽ, chỗ nào cũng thấy thế lực thù địch.
Ai xứng đáng làm vua cần phải có câu trả lời thấu đáo, họ giúp gì cho phát triển đất nước, có những chính sách gì để quốc thái, dân an, có những tư tưởng tiến bộ gì dẫn dắt … cần sáng tỏ.
Hay đơn thuần chỉ vì mục đích chính trị đã biến một kẻ cướp, với những thủ đoạn dối trá, tàn ác gian hùng được nặn thành anh hùng dân tộc bằng kỹ xảo tuyên truyền để xây dựng hình tượng ảo, qua đó bao biện cho những hành động kẻ cướp của mình?
(Còn tiếp).
PHẦN 11.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Từ khi những người cộng sản cầm quyền, Việt Nam không có Chính sử và cả Dã Sử, dù rằng họ có cả một hệ thống nghiên cứu và giảng dạy lịch sử.
Họ có Viện Sử học, các Bộ, các ngành, các địa phương đều có bộ phận nghiên cứu lịch sử cho mình.
Một số trường đại học có khoa giảng dạy lịch sử, ở bậc phổ thông đều có sách giáo khoa lịch sử. Số lượng Giáo sư, phó giáo sư đi cùng với học vị tiến sĩ trong ngành sử học cũng không phải ít.
Cơ sở vật chất liên quan đến lịch sử bao gồm các Viện bảo tàng cũng khá quy mô. Ngoài Bảo tảng Lịch sử quốc gia, còn có Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Quân đội… ngành nào, bộ nào, hội nào, đoàn thể nào đều có bảo tàng của riêng mình, ngoài ra còn có bảo tàng, khu di tích lịch sử cho lãnh tụ, lãnh đạo đất nước như Bảo tàng Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Trần Phú…có thể nói ngân sách nhà nước để xây dựng và nuôi sống bảo tảng khá lớn.
Mục đích của họ cho mọi người dân Việt Nam hiện tại và về sau luôn ghi nhớ về một thời đại vàng son nhất trong lịch sử.
Kỷ niệm 70 năm ngày thành lập đảng cộng sản Việt Nam khẩu hiệu “70 năm rạng rỡ 4000 năm” treo khắp hang cùng ngõ hẻm cho thấy họ coi lịch sử Việt Nam về trước chỉ là những trang đen tối?
Thực tế trả lời không phải như họ mong muốn, môn lịch sử trở thành bị ghét bỏ nhất trong thế hệ trẻ.
Báo Công An nhân dân đưa ra thông tin:
Nhiều trường ĐH có trên 98% bài thi môn sử dưới điểm trung bình. Thậm chí có trường chỉ một thí sinh đạt điểm trung bình môn sử.
Báo Thanh niên nêu một thực tại bi hài:
Trường ĐH Tiền Giang, hơn 98% thí sinh có điểm thi môn sử dưới trung bình. Trường có 253 thí sinh dự thi khối C nhưng chỉ có năm thí sinh đạt điểm từ 5 trở lên, chiếm 1,97%. Trong số đó, cần nói rõ thêm điểm cao nhất chỉ là 5,25 điểm, thế nhưng có đến 47 thí sinh có điểm 0. Trường ĐH Quảng Nam, có đến 99% thí sinh có điểm thi môn sử dưới trung bình. Trong số 900 thí sinh dự thi khối C, số thí sinh có điểm 5 chưa đếm đủ 10 đầu ngón tay (9 thí sinh).
Trong gần 1 triệu thí sinh dự thi tốt nghiệp THPT 2014 sáng 2.6 trên cả nước, chỉ có 11,52% chọn thi môn sử. Nhiều người ngạc nhiên khi biết nhiều trường chỉ có... một thí sinh thi môn sử. Ở vài nơi khác, câu chuyện được bàn tán là cả hội đồng thi mấy chục người, lập ra chỉ để phục vụ 2 thí sinh chọn môn thi này.
Trước tình trạng này Trung tướng Nguyễn Quốc Thước phải thốt lên "Tôi suy nghĩ về sự tồn vong của dân tộc. Quên lịch sử là quên dân tộc và mất nước".
Trung tướng Lê Hữu Đức bức xúc khi nghe bộ trưởng bộ GD – ĐT Phùng Quang Nhạ biện minh đó là “bình thường”:
Nhiều điểm 0 môn lịch sử là bình thường thì tôi thật sự không hiểu và không đồng ý. Bình thường là bình thường thế nào? Chả lẽ để đến khi nhổ toẹt vào lịch sử thì mới là không bình thường? Sai thì sửa chứ sao lại phải ngoan cố như thế?
Thanh niên là tương lai của đất nước, quên lịch sử mà bảo là bình thường thì không thể chấp nhận được!
Hàng trăm cuộc hội thảo, diễn đàn, họp hành từ Bộ chính trị, Bộ Văn hoá, Bộ giáo dục và đào tạo… diễn ra đi tìm câu trả lời TẠI SAO MÔN SỬ BỊ THẾ HỆ TRẺ THỜ Ơ, GHÉT BỎ?
Nhiều nguyên nhân được đưa ra, nhưng không ai dám nói thẳng thừng những thứ mà họ gọi là lịch sử thực chất là chỉ mượn lịch sử để nhồi nhét chính trị, ca ngợi sự tài tình sáng suốt, công lao trời bể của đảng, lãnh tụ đưa dân tộc đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Là bản liệt kê những con số khô khan về xác chết, thiệt hại của kẻ thù, về những tấm gương của những con người như thần như thánh ngớ ngẩn một cách nực cười…
Lịch sử trở thành môn học chính trị, đã cài cắm chính trị lịch sử dĩ nhiên bị bóp méo, bị xuyên tạc và giấu giếm, thậm trí còn bị ngụy tạo.
Lịch sử Đảng là lịch sử quốc gia thì lịch sử chỉ có một phía màu hồng và phía kia là một màu đen tối, và xã hội cũng từ đó mà chia ra thành hai- kẻ thắng trận và bên thất bại.
Hình ảnh cánh cửa Dinh Độc Lập bị húc, xe tăng nào vào trước trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ai là người thực hiện?
Phạm Tuân có bắn rơi B52 thật không?
Đó chỉ là ngụy tạo.
Từ xa xưa lịch sử được phân chia ra hai loại: Chính sử, và Dã sử cùng tồn tại.
Chính sử là sử sách do cơ quan chính thức của nhà nước biên soạn thường gọi là Quốc sử do các viên chức khoa bảng được chỉ dịnh đứng ra sưu tập tài liệu và biên soạn lịch sử các triều đại hay các biến cố của quốc gia. Nó còn được gọi là sử chính thống.
Tuy nói là Quốc sử vẫn không thể khẳng định hoàn toàn nó không bị cài cắm ý thức chủ quan của người viết, của yêu ghét và mục đích chính trị nhưng sự kiện, nhân vật và bối cảnh phải chính xác, không thể ngụy tạo.
Một đặc điểm của Quốc sử là qua mỗi một giai đoạn nó được điều chỉnh, bổ sung, làm rõ khi những điều chưa làm rõ, còn trong màn nghi vấn được khám phá sẽ được thay thế vào, và những gì bị gạt ra được đưa vào ghi chú đề đối chiếu mà không bị bỏ đi.
Mục đích của Quốc sử là phản ảnh khách quan, trung thực nó không phục vụ cho đảng, phái, thành phần, giai cấp nào, nó phục vụ cho quốc gia dân tộc.
Dã sử chỉ là cách phân biệt vị trí xã hội của những cá nhân viết lịch sử tự do, nhưng Quốc sử sẽ khó làm đúng sứ mệnh của mình nếu không có Dã sử.
Những chuyện thâm cung bí sử, bị bóp méo, giấu nhẹm mà Quốc sử vì lý do này hay lý do khác phạm phải sẽ được ánh sáng của Dã sử soi vào, bởi những nhà viết sử tự do họ chính là những người trong cuộc.
Hồi ký của những người thuộc diện liên quan đến lịch sử là một dạng Dã sử.
Khi đại tướng Võ Nguyên Giáp từ “Cây đa Tân Trào về cây đa Nhà bò” từ “đại tướng cầm quân thành đại tướng cầm quần chị em”
Theo chính sử của Đảng đấy chỉ là việc phân công nhiệm vụ, nhưng sự thật là một cuộc hạ bệ lẫn nhau nếu không có những cá nhân trong vai trò của người yêu lịch sử, dùng lịch sử để soi rõ sự thật như hồi ký “Bên thắng cuộc” của Huy Đức thì làm sao biết được những mặt trái của vinh quang,thắng lợi, văn minh trí tuệ.
Hỏi tại sao học sinh, người trẻ tuổi không thắm thiết với lịch sử nước nhà, tại sao bảo tàng ít có ai lai bóng vì thực chất lịch sử đã bị lạm dụng vào mục đích chính trị.
Việc viết lại lịch sử, hay đóng góp một số nhận định, phân tích về các đề tài lịch sử luôn luôn là vấn đề cần thiết nhất là góp ý vạch trần chính sách lợi dụng bộ môn sử học để tuyên truyền ru ngủ quần chúng đặc biệt những giới bình dân ít học, hoặc lợi dụng lịch sử để xây dựng những biểu tượng dối trá, tôn sùng thần thánh hóa cá nhân.
(còn tiếp)
PHẦN 12.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Lịch sử được cấu thành từ chính sử và dã sử là chưa đủ, lịch sử còn được tạo ra từ dân gian.
Lịch sử dân gian thông qua truyền miệng, qua văn học, thơ, vè để phản ánh một sự kiện, một hiện tượng, một thời nào đó và lan truyền trong xã hội không cần được kiểm chứng, nhưng có tính trung thực tuyệt đối.
Sử dân gian chính là ngọn đèn soi tỏ, là sự kiểm chứng chính xác những gì chính sử đưa ra.
Dưới những chế độ chuyên quyền khi tự do báo chí, tự do ngôn luận bị cấm đoán thì sự thật lịch sử phải đi bằng con đường khác đó là sử dân gian. Người dân thông qua thơ, vè, văn học nói lái, nói bóng, nói gió để nói lên sự thật, dãi bày tư tưởng của mình.
Xe “cố vấn” áo “chuyên da”.
Tình cảnh nước nhà lâm thế bí.
Nói lên một thực trạng xã hội nghèo khổ là lốp chiếc xe đạp nó nát, sợ nó nổ phải lấy dây chun quấn lại, quần áo không có mà mặc, đồng thời phản ánh một quốc gia lệ thuộc nước ngoài dù có chuyên gia Liên Xô, cố vấn Trung Quốc đất nước vẫn bí bách tối tăm.
- Đầu đội áp suất, chân đi bạt là.
Nhìn xa cứ tưởng là ma, lại gần mơi biết từ Nga mới về.
- Con gì trán hói, bụng to?
Đi xe Von ga, hay nói ba hoa, ăn gà Tôn Đản?
- Cá không ăn muối cá ươn, cãi lại chính quyền ra đường bơm xe.
- Xe không phanh mời anh đứng lại.
Không đứng lại làm hại người ta.
Mất tí da là ba đồng sáu.
Mất tí máu là sáu đồng tư.
Mất tý gân là gần chục bạc…
- Bắt cởi trần phải cởi trần.
Cho mày ô mới được phần may ô.
- Mỗi người làm việc bằng hai.
Để cho cán bộ mua đài mua xe.
Mỗi người làm việc bằng ba.
Để cho lãnh đạo xây sân, xây nhà.
- Huân chương không lấy đâu,
các cụ bảo thịt trâu dễ chia.
Máy bay đằng Đông các cụ bắn đằng Tây.
Hấy dô trên đất này các cụ già cởi chuồng bắn rơi máy bay…hết xăng.
- Ban ngày cả nước lo việc nhà.
Ban đêm cả nhà lo việc nước.
- Trông mặt mà bắt hình dong.
Thấy anh tuyên giáo thấy sao - búa- liềm.
- Con bò dắt qua Mạc Tư Khoa cũng thành tiến sĩ.
…………………
Một thời kỳ được tuyên truyền là “hào hùng cách mạng” nếu không có dòng sử dân gian phản ánh một sự thật đằng sau hết sức sinh động một thời khốn nạn thì thế hệ sau không thể hiểu được, tại sao bây giờ “đểu cáng lên ngôi”.
Qua sử dân gian mọi sự bịp bợm che giấu bị phơi bày, không phải bây giờ họ mới tha hoá biến chất, ngay lúc trong khói lửa chiến tranh họ cũng lo cho bản thân, vun vén cho lợi ích cá nhân.
Xương máu, nỗi khổ nhục của nhân dân mà họ tự phong là một dân tộc vĩ đại, một chế độ sản sinh ra những con người vĩ đại đã bị sử dân gian “lột truồng” là dối trá. Chẳng có nhân dân nào ham hố cái danh hão, sự mất mát của họ không phải cho danh dự, không phải tự nguyện mà chính từ sự áp bức cường quyền thúc ép bằng cái bánh vẽ hoàn toàn mơ hồ.
Và lịch sử bị che giấu kéo dài đến hiện nay, hậu quả là lũ cướp ngày vẫn còn trơ trẽn với những chiến công hiển hách, chúng không cần phải đóng bộ mặt giả nhân giả nghĩa nữa, nên dân gian mới có bài thơ.
Cướp xưa băng nhóm làng nhàng
Cướp nay có đảng có đoàn hẳn hoi
Có con dấu đóng đỏ tươi
Có còng có súng dùi cui nhà tù
Cướp xưa lén lút tù mù
Cướp nay gióng trống phất cờ phóng loa
Con trời bay lả bay la
Cướp trên bàn giấy cướp ra cánh đồng
Dân oan tuôn lệ ròng ròng
Mất nhà mất đất nát lòng miền quê
Tiếng than vang động bốn bề
Cướp từ thôn xóm tiến về thành đô
Ai qua thành phố Bác Hồ
Mà coi cướp đất bên bờ Thủ Thiêm
Bây giờ mẹ phải dặn thêm
Quan tham là cướp cả đêm lẫn ngày.
(Còn tiếp)
PHẦN 13.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Giấu giếm, bẻ cong, bóp méo lịch sử là sự đầu độc, tẩy nạo dân chúng có hệ thống làm cho họ mất phương hướng đi tìm đến sự thật, không nhận ra đâu là phải trái, không phân biệt đâu là nguyên tắc, đâu là luật lệ, che giấu những thủ đoạn dối trá.
Trong các cuộc họp chi bộ, đảng viên thường được nghe chuyện thời sự tình hình quốc tế, và trong nước.
Về mặt chính thống trong quan hệ quốc tế hiện nay người ta nói nhiều về chính sách đối ngoại của ta là “ngoại giao cây tre” có nghĩa là mềm dẻo, cái gì bất lợi thì khôn khéo không đề cập đến, hoặc đề cập đến thì chỉ thoáng qua trung lập.
Nhưng bên trong họ vẫn tuyên truyền cho các đảng viên một chiều, lấy vị dụ về cuộc xâm lược của Nga với Ukraine, các diễn giả vẫn được chỉ đạo bao biện cho hành động ăn cướp của Putin.
Putin là người bạn lớn, thực chất vẫn là người đồng chí của ta, nước Nga của Putin vẫn là chiếc ô bảo vệ cho ta, đứng về phía ta, ủng hộ ta khi ta bị Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế ra nghị quyết lên án về vấn đề nhân quyền, vi phạm dân chủ …trừng phạt, cô lập ta,
ai sẽ bảo vệ ta? Nga và Trung Quốc với hai phiếu phủ quyết sẽ bảo vệ ta chứ còn nước nào nữa.
Nói là ngoại giao cây tre, làm bạn với thế giới chỉ là bên ngoài, nâng cấp quan hệ với Mỹ, Nhật lên Chiến lược toàn diện nhưng vẫn phải cài “tôn trọng chủ quyền, thể chế chính trị” động đến chuyện này là cạch mặt ngay.
Ta không thể để Putin phật lòng lý do là như thế.
Các đảng viên phải luôn nhận thức rằng, Putin không xâm lược Ukraine, đây là “Một chiến dịch đặc biệt’ Nga chỉ lấy lại những gì đã mất trong lịch sử.
Họ nói rằng, Crimea và Donbass ngày trước là của Nga, khi Nikita Sergeyevich Khrushchyov làm tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô đã đưa hai vùng đất này về nước cộng hoà Ukraine (một thành viên trong Liên bang Xô Viết) vì Nikita Sergeyevich Khrushchyov là người Ukraine.
Nga lấy lại các vùng đất này là hợp lý, hợp pháp…
Sau này Liên Xô tan rã, Ukraine trở thành quốc gia độc lập lại đưa vào hiến pháp về lộ trình ra nhập NATO, ai cũng biết NATO là liên minh quân sự được thành lập để chống Liên Xô từ thời chiến tranh lạnh, và nước Nga ngày nay, nên Nga phải lấy lại những vùng đất đã mất và ngăn chặn Ukraine ra nhập NATO, EU để ngăn chặn phương Tây áp sát Nga, bảo vệ chủ quyền của mình.
Nhưng họ giấu nhẹm sự thật là Ukraine Mỹ và phương Tây đã quá ngây thơ ảo tưởng về chú gấu Nga đã mất hết năng vuốt sau khi Liên Xô tan rã, chủ nghĩa cộng sản đã tự chôn mình, mà không hiểu rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ là một hình thái trong các nhà nước chuyên chế và chế độ độc tài.
Trung Quốc, Nga dù ở hình thái nhà nước nào, chế độ xã hội nào tính chất bá quyền vẫn luôn tồn tại trong tư tưởng của những người cầm quyền.
Có một sự thật mà các đảng viên không được đề cập đó là Thoả thuận Budapest.
Vì tìm hiểu thỏa thuận Budapest sẽ lòi ra hai vấn đề.
Vấn đề thứ nhất có phải Liên Xô sụp đổ, đảng cộng sản Liên Xô tan rã là do sự phản bội của Gorbachev như họ tuyên truyền hay những người cộng sản đã tự kết liễu nó?
Vấn đề thứ hai khẳng định việc Putin đưa quân xâm lược Ukraine với cái gọi là “Chiến dịch quân sự đặc biệt” chỉ là dối trá.
Việc không dám lên án Nga chứng minh họ không bao giờ đứng về chính nghĩa, mà họ chỉ chọn bên miễn là bảo vệ cho chế độ của họ tồn tại.
Từ những năm 1986- 1990 trước sức ép đòi ly khai của các nước cộng hoà trong Liên bang Xô Viết, và phong trào đòi cải cách dân chủ của các nước XHCN ở Đông Âu, Gorbachev đã phải đưa ra Perestroika (/ˌpɛrəˈstrɔɪkə/; tiếng Nga: перестройка) qua đó Hiến pháp Liên Xô có sự cải tổ quan trọng, giảm bớt quyền lực của đảng, trao quyền cho Xô viết tối cao và Xô Viết tại các nước cộng hoà nhiều hơn, và quyền lực điều hành đất nước thuộc về tổng thống do Xô Viết tối cao bầu ra, không phải tổng bí thư những người do các Đảng viên bầu…
Cải tổ của Gorbachev được sự ủng hộ của nhiều tầng lớp và cả các đảng viên cộng sản, nhưng việc cải tổ nhằm mục đích tồn tại Liên bang Xô Viết theo mô hình nước Mỹ lại bị các nước cộng hoà và phái bảo thủ phản đối.
Ngay cả cộng hoà liên bang Nga lúc ấy do Yeltsin làm tổng thống cũng không ủng hộ Gorbachev.
Phe bảo thủ trong đảng đảo chính lật đổ Gorbachev ở Matxcova, và Yeltsin cùng với người dân đã đứng ra ngăn chặn đảo chính, bảo vệ Gorbachev với lý do không thể để cho phái bảo thủ trở lại cầm quyền, dù gì Gorbachev cũng có những tư tưởng tiến bộ hơn.
Đảo chính của phe bảo thủ thất bại, uy tín của Gorbachev bị mất, vai trò của Yeltsin lên cao.
Bộ ba tổng thống của ba nước cộng hoà có tiếng nói lớn nhất trong Liên bang Xô Viết là Ukraine, Belarus, Nga nhóm họp với nhau vào 8/12/1991, tại Belarusia, đó là Leonid Kravchuk, Stanislav Shushkevich, Boris Yeltsin.
Và họ đi đến thống nhất giải tán Liên bang Xô Viết, giải tán đảng cộng sản Liên Xô, các nước cộng hoà trở thành các quốc gia độc lập.
Ba vị tổng thống này ra tối hậu thư cho Gorbachev từ chức, và tuyên bố giải thể Liên bang Xô Viết, đảng cộng sản Liên Xô và ngày 25/12/1991, M. Gorbachev - Tổng thống đầu tiên và cũng là cuối cùng của Liên Xô đã tuyên bố từ chức, tuyên bố giải thể Liên bang Xô Viết, đảng cộng sản Liên Xô.
Sau khi các nước cộng hoà ai về nhà nấy, nhưng 4 nước cộng hoà có vũ khí hạt nhân sẽ giải quyết thế nào?
Các nước phương Tây sẽ phản ứng ra sao, điều này cũng được 3 vị tổng thống thống nhất ngay trong cuộc họp kín mục đích để thông báo cho Mỹ và phương Tây yên tâm và không can thiệp vào âm mưu đảo chính mềm hạ bệ Gorbachev. Theo đó nước Nga sẽ được trao ủy quyền chịu trách nhiệm về quản lý số vũ khí đó.
Và năm 1994 tại Budapest thủ đô Hungary các nhà lãnh đạo gồm Anh, Mỹ, Nga, Ukraine đã cùng nhau ký kết thỏa thuận được gọi là Giác thư Budapest với nội dung:
Giác thư này bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine (gồm Crimea , Donbass…) sau khi họ đồng ý từ bỏ kho vũ khí hạt nhân còn lại trên lãnh thổ của họ sau sự tan rã của Liên Xô, đổi lại Ukraine và Belarus sẽ nhận được các khoản hỗ trợ kinh tế từ Mỹ và phương Tây, cùng với việc Nga sẽ xoá nợ cho Ukraine, Belarus…
Sau thỏa thuận Budapest Ukraine không còn vũ khí hạt nhân, Nga đã gây sức ép chính trị, kinh tế, hỗ trợ cho các nhà độc tài lãnh đạo Ukraine và tha hoá họ thành những kẻ tham nhũng đàn áp dân chủ.
Ukraine trở nên rối loạn và nghèo đói dẫn đến cách mạng cam, lúc này Nga sợ mất Ukraine đã tấn công chiến Crimea năm 2014.
Hành động kẻ cướp của Putin khiến Ukraine chỉ còn con đường ra nhập NATO bảo vệ chủ quyền.
Ukraine bị Nga cho là đi quá xa, Putin phải chấp nhận một canh bạc nghiệt ngã là tấn công Ukraine, một quốc gia có chủ quyền.
Đến đây chúng ta sẽ thấy một quốc gia không dám đứng ra bảo vệ chính nghĩa, luôn ủng hộ cho những việc làm vi phạm các luật pháp quốc tế thì quốc gia đó cũng không được quốc tế bảo vệ, không bao giờ đứng, và đi cùng với các quốc gia văn minh, tiến bộ, sẽ là một quốc gia thất bại. Để bảo vệ quyền lực họ sẵn sàng đi theo tiếng nói của quỷ dữ, sẵn sàng giấu giếm, bẻ cong lịch sử.
(Còn tiếp).
Bùi Giáng, một thi sĩ lạ lùng và kỳ vĩ, từng được thầy Tuệ Sỹ trích dẫn thơ của ông vào tác phẩm Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng.
Ngược lại, Bùi Giáng cũng đã từng phân tích, bình luận, đánh giá thơ của tri âm tri kỷ mình, thầy Tuệ Sỹ, một Bồ Tát, một trí giả thông tuệ, bậc chân tu lỗi lạc, uyên thâm.
**
Ở trong đời, sao tránh được, dù mình chẳng cố tình đâu, vậy mà cũng đôi khi mắc lỗi.
Mắc lỗi, phạm lỗi, ngoài công khai, đường hoàng xin lỗi, mình còn có thể sám hối bằng nhiều cách, một trong những kiểu sám hối ấy, là tự mình, kể lại câu chuyện mà mình mắc sai lầm ở trỏng. Tỉ như chuyện này của Bùi Giáng, ông kể hoài kể hủy, khi có dịp.
Bữa nọ, thầy Tuệ Sỹ đọc cho Bùi Giáng nghe hai câu thơ chữ Hán thầy làm:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Dịch ra là:
Đêm khuya gió thổi đùa bóng nghiệp
Trước mắt làm liễu lạc hoa bay
Rồi thầy nói, làm sao tiếp cho hai câu, để nên một bài tứ tuyệt. Bùi Giáng ghẹo, tôi đề nghị, nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Thầy Tuệ Sỹ nghe xong thì ngượng nghịu, rầy: đừng nên giỡn đùa như thế.
Thấy vậy, Bùi Giáng năn nỉ, thôi, thầy đừng có bực mình nữa, rồi làm hai câu nối vào:
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Dịch ra là:
Tâm sự lâng lâng, dòng lệ khổ
Hổ thẹn với biển trí vì chưa thâu đắc được, rừng trúc rối như tơ.
Chẳng nói chẳng rằng, hai bữa sau, thầy Tuệ Sỹ lại đưa tiếp cho Bùi Giáng, một bài thơ có ba khổ, lúc đưa cho Bùi Giáng xem, bài thơ chưa có tựa đề:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.
Bùi Giáng vừa lướt qua đã rụng rời tay chưn, hồn phi phách tán, khiếp vía đến mất ăn mất ngủ.
Phát hoảng, Bùi Giáng nói với thầy: này đại sư, ông mau mà gác hết lại chuyện viết sách của ông đi, rồi làm ơn, làm thơ tiếp nhiều cho. Kẻo nền thi ca Việt Nam này sẽ mất đi một thiên tài như ông thì uổng của lắm lắm.
**
Cô giáo dạy tôi môn lý luận văn học, vẫn cứ tấm tắc với tôi hoài, không gì thích bằng, đọc bài của một nhà thơ cảm nhận về thơ của một nhà thơ khác.
Tôi cũng đồng ý với cô Dư Khánh điều ấy, bởi, nhà lý luận phê bình ấy mà, ngoài trái tim, họ còn có cái đầu rất bén. Cái đầu ấy, chứa đủ thứ lý luận, chứa đủ mọi lý trí để mà mổ xẻ bén ngót, để mà vạch tìm đến tận các ngõ ngách, các lối dẫn vào thơ, mù mờ hay đóng kín tới đâu. Đọc bài của họ, hay thì hay rồi đấy, nhưng dù muốn dù không, nó vẫn là cuộc phẫu thuật, thậm chí, cuộc đại phẫu thuật. Người đọc, vốn không quen những bắt bẻ với thơ, những vạch lá tìm sâu với thơ, sẽ cảm thấy mất đi niềm hào hứng.
Còn nhà thơ đọc thơ của bạn thơ, họ gần như chỉ sử dụng trái tim. Họ phiêu bồng, lãng đãng cùng bài thơ ấy. Thậm chí, họ dựa vào nhau, cùng dìu nhau, chắp cánh vào trời mơ, không cần biết đến tha nhân, không thiết tha gì đến những hiện thực cơm áo gạo tiền. Họ thưởng thức thơ bằng chủ quan và trái tim nặng tình của họ.
**
Bùi Giáng đọc thơ, ngắt giọng như thế này: Đôi mắt ướt tuổi vàng / cung trời / hội cũ.
Ông nói, ngắt giọng như vậy, mới thấy được cái trang trọng dị thường của hoài niệm. Ông hỏi, hoài niệm gì? Rồi trả lời: cung trời hội cũ.
Tiếp theo, ông hỏi tới tấp: Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? Vì sao ướt? Vì lệ trào hay vì quá long lanh?
Hỏi xong, chẳng thấy ai trả lời, ông bèn quay ra to nhỏ, thi sĩ xuất chúng ấy mà, họ hay có những phong thái lạ thường lắm, họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà lại chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ mà như nói cả cho mọi người. Nói cho mọi người mà lại chẳng bận tâm gì về chuyện thiên hạ có nghe hay không. Vui buồn của họ chẳng giống với buồn vui của chúng ta. Nên trách họ, sẽ là lệch lạc hết cả.
Ta tưởng họ kiêu ngạo. Ta tưởng họ tàn nhẫn. Ta tưởng họ u sầu. Lầm hết. Bởi vì, đôi mắt họ, tưởng đang nhìn ở ngay đây, nhưng đầu họ, tư tưởng họ, đã miên man trong cõi mộng thần di, hồn dịch.
Quay lại bài thơ, Bùi Giáng giảng tiếp, khi thi sĩ nói không rõ, là bởi vì họ muốn giữ một khoảng trống phóng nhiệm (nghĩa là tự do, để tùy, không xen vào), vắng lặng cho thơ. Tha hồ cho chúng ta nghĩ hai, ba lối. Có thể là đôi mắt thi nhân. Có thể là đôi mắt giai nhân.
Phóng nhiệm và vắng lặng, là thứ rất cần thiết cho thơ.
**
Bùi Giáng qua câu thứ hai: Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang.
Vẫn một kiểu thắc mắc tới tấp, y vậy: Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?
Rồi như sợ bạn đọc rầy mình hồ đồ, Bùi Giáng đính chính: Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Tuệ Sỹ xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông là kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Mẹ ông thỉnh thoảng về Sài Gòn, đem quà cho ông là đôi dép, chiếc khăn quàng.
Bùi Giáng vẫn cứ hỏi như thế, sau mỗi dòng thơ: Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ / Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn. Mình là thân Bồ Tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ? Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn?
Rồi xúc động, rồi lại tự diễn giải bằng giọng cảm thấy ăn năn, hối lỗi, như đã cố tình dồn một bậc đức cao vọng trọng vào cái lẽ rất đời thường, phàm tục: Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la, rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
**
Mối tình rộng, thả suốt biển non im lìm, lạnh lẽo. Một nếp u uẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa: Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở / Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan.
Và hỏi: Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh, tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?
Rồi tự trả lời: Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về, mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng, sững, giữa tuyết nguyệt phiêu du.
Một tiếng “buồn chăng”, lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường: Cười với nắng một ngày sao chóng thế / Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng.
**
Vừa nhắc đến Kiều, là Bùi Giáng lấy luôn hai câu thơ: sen tàn cúc lại nở hoa / sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân, trong cái đoạn Thúc Sinh về nhà mà nhớ Kiều quá chừng là nhớ, mang ghép vào với hai câu của thầy Tuệ Sỹ trong khổ thơ thứ ba:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Rồi Bùi Giáng dặn, nhớ ngắt câu thơ khi đọc. Có ngắt, thì mới thấy được tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh: Đếm tóc bạc / tuổi đời / chưa / đủ / Bụi đường dài / gót / mỏi / đi / quanh.
Bày cách ngắt thơ xong, Bùi Giáng hỏi nữa. Là hỏi tác giả, nhưng không chờ tác giả trả lời, Bùi Giáng tự trả lời luôn. Một mình Bùi Giáng đóng hai vai. Bùi Giáng thích thế mà. Nên thơ Bùi Giáng, luôn là thơ mở, thơ đối thoại. Không giống như một số nhà thơ khác, thích làm loại thơ tự sự, độc thoại, một mình, khép kín.
Dạy văn, các bạn biết không, là cũng hỏi tới tấp như thế đó. Dạy văn, không có nghĩa là giảng liên tu bất tận. Tất nhiên là trừ lúc cao hứng quá, giảng đến chỗ mà mình sướng quá, thì cũng đôi khi. Nhưng thầy giỏi là thầy buộc được trò, chúng phải tự giảng cho chúng nghe, bằng một loạt các câu hỏi thiệt hay. Hỏi hay, đỡ mất thời gian. Hỏi hay, như bắn tên vậy, buông ra là trúng hồng tâm, tránh được lan man, tránh lạc ra khỏi đề tài.
Như Bùi Giáng nãy giờ vậy đó.
Bùi Giáng hỏi như thế này: Một tuổi đời chưa đủ? Một tuổi xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi đá sớm từ giã mọi yêu thương?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa / ngược nước / xuôi ngàn.
**
Kết thúc, Bùi Giáng viết: Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm, lữ thứ khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ, ngục tù.
Viết như Bùi Giáng ở trên, người ta kêu bằng luận, tức mở rộng vấn đề. Nhưng cũng chỉ mở rộng theo kiểu he hé, gợi ý, đó là hình ảnh, là tâm sự của lữ thứ trong bốn bức tường ủ rũ, ngục tù.
Cuối cùng, Bùi Giáng đánh giá: Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Nghĩa là, từ đông sang tây, nghĩa là, từ cổ điển đến hiện đại, chỉ bằng mỗi bài thơ này thôi, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết thảy.
Tất nhiên, đây là ý kiến riêng của Bùi Giáng. Qua đó mới thấy, tình tri âm tri kỷ của họ có được là bởi, không chỉ kính trọng nhau, ở họ còn là lòng mến mộ nhau rất mực.
Mến mộ nhau rất mực, nghĩa là thương mến, nghĩa là ngưỡng mộ tài hoa nhau, ở mức cao nhứt, có thể!
******
Ngày 24.11.2023, tôi cũng có viết một bài tưởng niệm thầy Tuệ Sỹ khi nghe tin thầy qua đời. Thấm thoát mà đã hơn ba tháng.
KHUNG TRỜI CŨ
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.
Từ thời còn đi học, tôi đã thích lắm bài thơ Khung Trời Cũ. Thích, nhưng thú thực, cũng không rõ mình thích vì cái gì. Kiểu như, đọc lên, nghe êm êm, kiểu như, đọc lên, nghe rất thơ, thì thích vậy đó.
Khung Trời Cũ là một bài thơ trữ tình. Bài thơ là những cảm xúc, những suy tư, tâm tình của một vị thiền sư.
******
Giọng thơ, ngay từ đầu, chậm rãi, điềm tĩnh: Đôi mắt ướt/ tuổi vàng/ cung trời hội cũ. Đọc lên, dưng không, tôi nhớ đến lời một bài hát của Trịnh Công Sơn, tuổi nào nhìn lá vàng úa chiều nay.
Cái màu vàng của lá, màu vàng của hoàng hôn, màu vàng của bụi đường quan san gió dậy, khi nào cũng dễ làm chúng ta ngậm ngùi. Nó là bằng chứng của tháng ngày nối tiếp nhau qua, như bốn mùa, như tuổi đời đi qua, không sao cản lại được, không cách chi ngăn lại được.
Ở đây cũng xin nói thêm, có bản thơ ghi là “khung” trời hội cũ, nhưng theo thủ bút của thầy để lại, thì đó là “cung”.
Khung, nghe gò bó, hạn hẹp. Còn cung, tưởng như, ai đang vung cọ, vẽ lên một nửa của vòng tròn, bao la, bát ngát trên vòm trời mênh mông, rộng lớn.
Vậy “hội” là gì, “cung trời hội cũ” hiểu như thế nào cho đúng đây?
Thưa, thơ không có đúng sai. Thơ, lại càng không cần phải hiểu cho rốt ráo, cho tỉ mỉ, cho chi tiết, cho đúng với tinh thần ban đầu của người viết. Làm thơ là chuyện của tác giả. Cảm nhận là việc của bạn đọc. Tác giả không có nghĩa vụ giải thích tất cả các thắc mắc của bạn đọc. Đến chỗ này, tôi chợt nhớ đến câu khẳng định của tiểu luận gia Đặng Tiến: Thơ, là quyền uy tối thượng.
“Hội” hiểu là hội ngộ, hiểu là hội tụ, được không? Một dạng của quy tụ, của quay về, của tập hợp những người đồng chí hướng. Và tác giả, trong một ngày bỗng sực nhớ ra. Sực nhớ ra, tuổi mình đang ngày mỗi vàng đi, sực nhớ ra, mỗi ngày mình đang mỗi xa dần những ngày vui thuở nao, thuở còn người mến thương người, thuở chung tay nhau, hết lòng xiển dương chánh đạo, vun đắp nguồn nhơn ái, từ bi.
Và mắt ướt nữa? Mắt ướt vì cơn gió buốt đầu thu? Mắt ướt vì lá vườn ai đốt khói? Hay mắt ướt là bởi lòng hoài vọng cứ mãi sóng cuộn dâng?
Chính vì tuổi rồi sẽ vàng, nên mới, một cảm thán tiếp theo: Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang.
Làm sao mà xanh hoài được chớ, áo cỏ cây, áo gió mây, áo muông thú, áo con người, áo thiên nhiên. Không xanh mãi, đó chính là quy luật.
Biết là quy luật, biết là không thể khác, vậy mà, cũng đã có lúc, đọng kìa nơi khóe mắt, cũng đã có lúc, thấy mình như gấp gáp: Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Để rồi ngay lập tức, nghe lòng mình ân hận, nên, cần lắm một đêm: Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.
Tuổi thì vàng, áo thì không xanh mãi, và, trăng kia sẽ rồi tàn. Tất cả, tất cả, đều là những vô thường, đến rồi đi, có rồi mất. Quy luật.
******
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Núi thì cứ mãi cao vời, đỉnh đầu non giá lạnh. Biển thì mãi trong lòng, hằng hà sa số muối, chẳng tan. Chúng bền bỉ và kiên gan.
Chỉ mỗi ta, sao chóng thế, cười ngắn, nắng tàn. Và đông hạ, nay mai, đổi thay xoành xoạch.
Sau những thảng thốt ấy, tác giả sững sờ: buồn chăng.
“Buồn chăng” ở đây, là câu hỏi hay câu cảm? Cả hai. Hỏi người, hỏi ta, rồi tự thú - buồn, buồn lắm. Sao mà không buồn cho được, khi, kiếp nhân sinh ngắn ngủi quá, quay đi quay lại, chưa đủ mộng tang bồng, thì, đã tận!
******
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.
“Đếm tóc bạc” ở đây, là hình ảnh tượng trưng, ước lệ. Chưa đủ trăm năm mà tóc trắng đã vầng mây. Mà bụi đường mịt mùng, mà gót mỏi quẩn quanh. Quẩn quanh, bốn vách tường ủ rũ.
Những động từ “đếm, đi, ngó”, những tính từ “bạc, dài, mỏi, ủ rũ”, chúng được xếp cạnh nhau, khiến thơ mang một nhịp đều, một nhịp buồn, vô tận.
Đời chưa đủ. Việc chưa xong. Còn bao dở dang. Còn bao ước vọng. Thì, đã: Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.
Muôn con nước đã hội tụ về, chờ xuôi ngàn - cung trời hội cũ!
******
Bài thơ thiệt buồn. Đọc lên thôi, nghe cũng đã buồn, huống hồ phân tích, diễn giải, nỗi buồn nghe lại càng nhiều hơn lên.
Bài thơ cho ta hiểu thêm về thầy Tuệ Sỹ, một đời không của nả tư riêng, không màng quyền cao chức trọng, lại càng không màng cái gọi là chùa lớn, chùa to. Chỉ với chiếc áo lam màu cũ kỹ, trong sạch, thanh cao, chỉ với căn phòng nhỏ, miệt mài viết sách, miệt mài suy tư, làm sao cho non nước, quê hương đặng thái bình, làm sao cho chúng sanh bớt khổ.
Cuộc đời thầy, một cuộc đời của hiến tặng, cho đi.
Tôi viết bài này lúc kim đồng hồ chỉ nhích hơn bốn giờ chiều nay, lúc đọc đầu tiên trên trang anh Trần Triết, và Vũ, nhẹ nhàng những câu chia xa. Biết là thầy Tuệ Sỹ đã viên tịch.
Vậy mà, vẫn cảm giác như, đâu đây, thấp thoáng - đôi mắt ướt, tuổi vàng, cung trời hội cũ!
Sài Gòn 02.03.2024
Phạm Hiền Mây
Từ năm 1907 Phan Châu Trinh đã chỉ ra "10 điều bi ai của dân tộc Việt":
1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày.
2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.
3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.
4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.
5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; thì ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.
6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết; thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu.
7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo; thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.
8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.
9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.
10.Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là "đầy tớ" của dân, được dân tín nhiệm; thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v...
PHẦN 14.
CHÚNG TA ĐANG ĐI VỀ ĐÂU?
Lịch sử xã hội loài người trải qua 4 thời kỳ, mỗi một thời kỳ hình thành một kiểu nhà nước đó là nhà nước nông nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa, vậy trong tương lai sẽ là kiểu nhà nước gì?
Theo quy luật phát triển nhà nước sau tiến bộ hơn nhà nước trước, điểm tiến bộ quan trọng nhất là quyền lực nhà nước ngày càng bị kiểm soát của nhân dân được cụ thể hoá trong hiến pháp và pháp luật bằng các QUYỀN, tính độc lập, và cân bằng quyền lực trong thế tam quyền.
Và Nhà nước Tư sản là hình mẫu kiểm soát quyền lực tốt nhất trong hiện tại.
Hai cuộc cách mạng vô sản và tư sản đã đánh đổ thành trì nhà nước phong kiến tồn tại hàng nghìn năm, nhưng lại đi theo hai hướng khác nhau và đối đầu nhau.
Sự khác biệt của Nhà nước Tư sản và nhà nước Xã hội chủ nghĩa cũng chỉ khác nhau ở QUYỀN SỞ HỮU, QUYỀN CON NGƯỜI.
Cách mạng Tư sản đã thay nhà nước phong kiến bằng một nhà nước dân chủ hơn, quyền lực nhà nước không tập trung trong tay một cá nhân, tổ chức, chính đảng nào.
Bộ máy nhà nước do người dân thông qua bỏ phiếu chọn lựa mà hình thành từ cơ cấu, đến nhân sự.
Cách mạng tư sản đánh đổ nhà nước phong kiến nhưng không cướp đoạt, chiếm đoạt tài sản của các vua chúa, địa chủ, giới chủ.
Nhà nước tư sản tôn trọng và bảo vệ các quyền sở hữu tài sản của các thành phần trong xã hội. Sự công bằng xã hội theo nghĩa công bằng về quyền lợi chính trị, công bằng về các giá trị con người không phải công bằng về các giá trị vật chất.
Ai tài giỏi hơn, trí tuệ hơn, vốn liếng tài sản nhiều hơn dĩ nhiên phải giàu có hơn, hưởng thụ cao hơn miễn không vi phạm pháp luật đấy là sự công bằng tuyệt đối.
Cách mạng Vô sản thì ngược lại, đánh đổ nhà nước phong kiến họ chiếm đoạt, tước đoạt tài sản của những kẻ họ cho là bóc lột.
Thế nào là bóc lột? Đơn giản đối với họ nếu có đất đai, nhà máy đồn điền.. có người làm thuê là bóc lột.
Chiếm đoạt tài sản chưa đủ, họ bắt những người này phải học tập, cải tạo lao động, họ lập ra đội cải cách để đấu tố xử tội, và tử hình rất nhiều người.
Họ cấm tiệt sở hữu tư nhân về đất đai, tài nguyên, khoáng sản, trí tuệ…
Tài sản thu được, chiếm đoạt được họ đưa vào công hữu, hiến pháp họ đưa vào nhà nước là công cụ quản lý xã hội, và Đảng của giai cấp vô sản là người lãnh đạo nhà nước.
Bộ máy nhà nước được hình thành theo nghị quyết của đảng, các cá nhân trong bộ máy nhà nước do đảng phân vai thông qua các cuộc bầu cử giả hiệu “đảng cử dân bầu”.
Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa sự công bằng được thể hiện bằng công bằng vật chất, không có kẻ giàu người nghèo, nhưng các giá trị và các quyền con người như biểu tình, tự do ngôn luận báo chí, tự do lập hội, lập đảng, tự do tranh cử, bầu cử … lại bị cấm tiệt.
Nghĩa công bằng theo họ đó là sự cân bằng, thực ra cân bằng chỉ là sự công bằng tương đối, có tính chất tạm thời, trong một thời điểm ngắn hạn nhất định.
Đấu tranh, thậm chí tranh dành sự công bằng vật chất trong một chế độ công hữu, lấy làm chủ tập thể ra làm thước đo cống hiến đã biến con người trở thành ác thú với nhau.
Từ việc nhỏ phân chia một bánh xà phòng, một cái lốp xe đạp, đến việc lớn như phân nhà, chế độ xe cộ… đã biến đồng chí, đồng nghiệp phải đấu tố nhau thông qua các cuộc bình bầu, rồi chạy vạy, nhờ vả lãnh đạo, làm cho tiếng nói của đồng chí bí thư này, chủ tịch kia dần trở thành thứ quyền lực thực sự, không phải chỉ trên giấy.
Thứ quyền lực gắn với vật chất, có quyền lực là có vật chất, có quyền lực có quyền sinh, quyền sát đã làm hư hỏng đảng cầm quyền là điều không tránh khỏi.
Một nhà nước công hữu về tư liệu sản xuất, tư hữu về quyền lực sẽ biến những kẻ cầm quyền lực trong tay ngày càng biến chất tìm mọi cách, thủ đoạn chuyển hóa tài sản công, tài sản nhà nước về tay mình đây là một quy luật tất yếu.
Họ xây dựng một nhà nước bằng quyền lực độc tôn, tin rằng với quyền lực tập trung, dẫn dắt người dân bằng bả vật chất, kèm theo sự cai quản hà khắc sẽ tạo ra một “động lực đám đông” có thể rời non, lấp biển tạo ra một chế độ thiên đường trong tương lai.
Sự hoang tưởng quyền lực lớn nhất của những kẻ cầm trong chế độ chuyên quyền chính là họ tin tưởng vào sức mạnh quần chúng, sức mạnh tập thể sẽ “biến cái không thể thành cái có thể”, cho nên nhân dân trở thành nạn nhân chăn dắt như bầy đàn, không con nào được tách ra, không con nào được đi ngược hướng.
(Còn tiếp).
PHẦN 15.
NHÂN DÂN THẤT BẠI TOÀN TẬP.
Ta phân biệt án tham nhũng và án lừa đảo chiếm đoạt tài sản thành hai cho dễ hiểu.
Án tham nhũng chủ thể bị cáo là các quan chức trong đảng và nhà nước lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản.
Án lừa đảo chủ thể liên quan đến các đại gia thuộc các tập đoàn kinh tế tư nhân.
Tách ra như vậy, nhưng khi đi vào bản chất sâu xa của hai vụ án này sẽ thấy có một điểm chung, đứng đằng sau nó là những ông trùm điều khiển và bảo kê.
Những ông trùm này có quyền lực lũng đoạn hệ thống, có kim bài miễn tử, động đến những ông trùm này hệ thống quyền lực sẽ sụp đổ.
Lấy hai vụ án Việt Á và Chuyến bay giải cứu ra làm ví dụ, đây là hai vụ án liên quan đến các quan chức tham nhũng, quy mô của nó có thể xác định những kẻ cầm đầu trực tiếp trong vụ án không đủ khả năng lũng đoạn hệ thống.
Chu Ngọc Anh chỉ là quan đô trưởng, Nguyễn Thanh Long là bộ trưởng một ngành không thể chỉ đạo và liên kết hệ thống giữa các ngành, các địa phương trong toàn quốc.
Dù không công bố công khai cụ thể về trách nhiệm liên quan nhưng ông Nguyễn Xuân Phúc (Chủ tịch nước), ông Vũ Đức Đam (phó thủ tướng) được kim bài miễn tử đã về vườn an hưởng tuổi già, đây có phải là những ông trùm thực sự?
Vụ Chuyến bay giải cứu cũng tương tự, làm sao mấy quan chức thuộc hạng làng nhàng thứ trưởng, cục trưởng giữa đại dịch trầm trọng, thiết quân luật như trong chiến tranh có thể huy động, vận hành cả hệ thống bộ máy nhà nước từ Hàng không, Bộ y tế, Bộ công an, Bộ Quốc phòng, Bộ công thương, Bộ giao thông, truyền thông... điều này khiến công luận nghi ngờ, liên tưởng đến vai trò của những ông trùm hoàn toàn không vô lý, và ông Nguyễn Xuân Phúc, ông Phạm Bình Minh là hai cái tên bị nghi vấn, và cũng không bất ngờ sẽ có những cái tên khủng được xướng lên.
Đến đây lại chợt nhớ đến việc kỷ luật đồng chí X, khiến mọi người nhận ra rằng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ là chưa đủ, nguyên tắc của pháp luật, của nhà nước pháp quyền đó là minh bạch, công khai, công bằng không được thực thi sẽ không giải quyết được gốc vấn đề, biến nó trở thành thứ khẩu hiệu tuyên truyền.
Vẫn có những vùng cấm đặc biệt, nếu liên quan đến sự tồn vong chế độ sẽ tuyệt đối không được động vào, phải vuốt ve, phải thỏa hiệp không thể để vỡ trận.
Và sự tồn tại của các ông trùm, không bị pháp luật sờ gáy đấy chính là nguyên nhân tham nhũng, tiêu cực sẽ không bao giờ hết, chứng minh luận điểm ta đánh ta chỉ là một sự an ủi cho những người dân bị chăn dắt, móc túi.
Các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến các đại gia trong các tập đoàn kinh tế tư nhân như Trương Mỹ Lan SCB, Trịnh Văn Quyết FLC, … gây hậu quả khủng khiếp trong một thời gian dài đều có bóng dáng của các ông trùm đứng đằng sau.
Trương Thị Mỹ Lan gắn với mối quan hệ đến Lê Thanh Hải (Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư thành ủy Hồ chí Minh)…
Trịnh Văn Quyết gắn với cái tên Trịnh Đình Dũng (Phó thủ tướng) cùng quê Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
Lê Thanh Hải củi gộc lò không đủ công suất để đốt cháy vẫn bình chân như vại, Trịnh Đình Dũng nhẹ nhàng nhận kỷ luật khiển trách.
Hai kẻ này chưa thuộc diện “kim bài miễn tử” nhưng mối quan hệ và sự ràng buộc đã biến họ thành những đại thần lũng đoạn được triều chính. Và trong cung đình toàn những kẻ cơ hội, mỗi kẻ một mảng, một miếng, ràng buộc lẫn nhau, rất khó cái gọi là nghiêm minh, công chính tồn tại.
Có một điểm chung của tất cả các vụ án đã nêu ở trên là gây hậu quả rất nghiêm trọng trong một thời gian dài, quy mô rất rộng, hoàn tất một cách trót lọt, tài sản, tiền bạc đã được tẩu tán, chia chác nhau mà không hề bị ngăn chặn, phát hiện… khiến công luận không những đặt nghi vấn về vai trò của các ông trùm, còn cho thấy sự thất bại của cả một hệ thống quản lý, giám sát của nhà nước…
Và cho thấy tính liêm chính của tất cả các quan chức nhà nước liên quan công tác bảo vệ pháp luật đều đáng nghi ngờ.
Họ cũng tranh thủ “đục nước béo cò” nhúng chàm, bao che… và họ chỉ hành động khi đến thời điểm “người đi săn phải biết ăn thịt chó”, hay được ẩn dụ bằng thành ngữ “nuôi béo để thịt”, cuộc chơi chỉ dừng lại khi đi quá xa sẽ mất chế độ.
Nhiều người nghĩ để các đại án này xảy ra là thất bại của quản lý nhà nước, sự tê liệt của hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật - về nguyên lý vận hành thì đúng như vậy, khi Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý hành chính.
Nhưng khi nhà nước đóng cả vai trò quản lý, sở hữu tài sản, nguồn lực quốc gia thì thất bại của nhà nước thực sự là thất bại của nhân dân. Vì tài sản nhà nước, nguồn lực quốc gia là công sức của người dân tạo dựng, từ các cuộc chiếm đoạt mà hình thành sau khi họ nắm chính quyền và dùng quyền lực để quốc hữu hoá…
Họ đã dùng quyền lực xây dựng chính sách, tạo chính sách để sân sau, sân trước, cho đàn em, đệ tử biến tài sản công thành của riêng đặc biệt là đất đai…
Bảo kê cho các doanh nghiệp tháo túng thị trường chứng khoán, vàng, thuốc chữa bệnh, thiết bị y tế, thao túng ngân hàng…
Nói đến nhà nước là nói về hệ thống bộ máy, nhưng để vận hành bộ máy lại do các quan chức, và đứng đằng sau là những ông trùm điều khiển, các ông trùm này bàn tay che lấp mặt trời thì nhà nước chỉ là cái bình phong cho họ mưu mô thực hiện cho lợi ích cá nhân.
Các đại gia là công cụ để cho các ông trùm mượn tay để chiếm đoạt tài sản nhà nước, nhân dân.
Nhà nước bị các ông trùm lũng đoạn, các quan chức bộ máy bảo vệ pháp luật lợi dụng cơ hội bằng cách ăn hối lộ, bảo kê, tống tiền.
Đại gia ở ta chỉ là những kẻ đầu sai, do các ông trùm tạo dựng, họ là thủ phạm nhưng cũng là nạn nhân của chế độ.
Các đại gia được bật đèn xanh, được bảo kê mới lừa đảo được khách hàng, nhà đầu tư… vơ được đống tiền lúc ấy là đến ngày bị trảm. Tiền, tài sản chiếm đoạt đã chia năm, cống bẩy cho các ông trùm, cho các đại ca.
Và trong vòng quay của một thể chế như thế người thất bại toàn tập chính là nhân dân không phải ai khác.
(Còn tiếp)
PHẦN 16
ĐEO CÙM VÀO CỔ DÂN.
Không đất nước nào trên thế giới như ta, lấy cam kết như một hình thức quản lý xã hội.
Cam kết không lấn chiếm vỉa hè, cam kết thực hiện xây dựng gia đình văn hoá mới, cam kết tu dưỡng rèn luyện phấn đấu, cam kết không có tranh chấp, khiếu nại về ranh giới đất đai… Đoàn thanh niên cam kết “nói không với thuốc lá, thuốc lá điện tử” cam kết ứng xử văn minh trên không gian mạng….
Chính quyền và các tổ chức xã hội hàng năm lại nhét cho từng gia đình, cá nhân một đống cam kết theo tờ mẫu in sẵn, người dân chỉ việc ký vào.
Họ nghĩ rằng nếu không cam kết người dân sẽ không tự giác thực hiện những thứ họ đã quy định, ký vào sẽ như cái cùm không thoát ra được, cái cớ để họ gọt đầu.
Và họ, chính quyền cũng đưa ra nhiều cam kết với nhân dân, cam kết về tiến độ dự án, cam kết về cải cách thủ tục hành chính, đưa ra các mốc năm này, năm nọ đất nước trở thành công nghiệp hoá, có thu nhập cao… bằng các nghị quyết…
Các doanh nghiệp cam kết với người tiêu dùng về chất lượng dịch vụ, chất lượng hàng hoá, tiến độ giao hàng…
Cả xã hội xây dựng lòng tin với nhau bằng cam kết, lấy cam kết như một hình thức quản lý xã hội.
Cam kết được hiểu là một thỏa thuận có sự thống nhất của hai bên nhiều bên cũng giống như hợp đồng trên nguyên tắc tự nguyện, đúng pháp luật và có tính khả thi.
Dù ở ta cam kết có mặt khắp nơi, trong mọi hoạt động cuộc sống nhưng thực sự không đem lại hiệu quả như những gì người ta ký vào, hay đưa vào nghị quyết.
THỨ NHẤT.
Nó vi phạm vào nguyên tắc tự nguyện.
Chính quyền dúi vào tay người dân bắt họ phải cam kết xây dựng gia đình văn hoá mới theo những tiêu chuẩn đặt ra.
Tại sao bắt công dân phải cam kết rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu theo những tấm gương này nọ? Kết quả càng học càng hư, càng hỏng là sao.
Cái này có vi phạm các quyền công dân được lựa chọn định đoạt văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng sở thích của riêng mình? Như hiến pháp quy định.
THỨ HAI
Là không bình đẳng, riêng chuyện người dân không ký vào bản cam kết đã như mắc tội không thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nước, khi đã ký vào bất luận sai phạm những gì cam kết là vi phạm pháp luật không thể biện minh cho khách quan, đổ lỗi cho hoàn cảnh là bằng chứng để chính quyền xử lý không cần toà án, không cần xét xử… có cớ hành dân.
Nhưng những cam kết của chính quyền được pháp lý hoá bằng nghị quyết, hay quy định không thực hiện đúng với dân đến lời xin lỗi còn không có, phê phán hay phản ứng lôi thôi còn bị quy vào tội chống đối đảng, nhà nước.
Cái giá của cam kết mà chính quyền đưa ra là tính mạng, tài sản, tiền bạc của người dân.
Lấy ví dụ cái đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông chính phủ cam kết tiến độ hết lần này đến lần khác, nhưng chẳng ai chịu trách nhiệm, đội vốn lên nhiều lần, giao thông ách tắc, gây ra nhiều tai nạn chết người.
Cam kết có thể tạo ra sự chịu đựng. Thậm chí, chính hệ thống cũng phải chịu đựng một lực lượng các công chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” và việc làm thế nào để tinh giản biên chế, hay nói đúng hơn là đuổi những người vô dụng này đi là một vấn đề nan giải.
Tất nhiên là người dân cũng phải chịu đựng những người này ngay cả khi họ không làm việc. Họ có “biên chế” kia mà. Nếu cán bộ hành chính ở địa phương mà “đi ăn sáng” đến 9h30 bắt người dân ngồi chờ hoặc ngày nào cũng “đi họp” đến tận 16h30 (nghĩa là hết giờ làm việc) và hỏng việc của dân thì cách duy nhất người ta có thể làm là... chịu đựng. Dù công chức, viên chức, đảng viên đều đăng ký thực hiện học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
THỨ BA.
Không có tính khả thi.
Bắt người dân cam kết không lấn chiếm vỉa hè, nhưng hạ tầng không mở mang, quản lý xã hội yếu kém.
Vỉa hè thiết kế cho một thành phố vài chục vạn dân, nay lên đến hàng triệu dân không đè lên nhau mà sống là chuyện lạ, ký cam kết bắt dân ký thì phải ký nhưng năm này năm khác cái bản cam kết thành cái cớ để quan chức thu hồ, nộp hồ là xong. Vỉa hè vẫn ngang nhiên bị lấn chiếm, cam kết như một bảo bối của chính quyền để bịt miệng sự phản kháng của người dân.
THỨ TƯ.
Bản cam kết nó chứng minh một xã hội không đề cao pháp luật, không lấy tính tuân thủ pháp luật là điều kiện cao nhất xử lý các vi phạm pháp luật.
Bản cam kết là một công cụ trói buộc theo luật riêng của các sai nha địa phương, dùng nó để dọa dân, khống chế dân tác oai, tác quái chặt chém dân. Trong một giới hạn nào đó nó được sử dụng như luật rừng, thay thế các quy định chính tắc.
Nó cũng phản ánh xã hội nước ta là một xã hội vô pháp, không lấy luật pháp làm công cụ điều chỉnh hành vi, luật pháp là sự thỏa thuận giữa các thành phần trong xã hội, thì chân lý sẽ thuộc về những kẻ mạnh.
THỨ 5.
Là vấn đề đạo đức và tính tự giác.
Nếu người viên chức ở địa phương không cam kết với “biên chế”, với “tổ chức”, mà cam kết với cuộc sống của những người dân, anh ta sẽ có mặt ở cơ quan lúc 8h và hẳn làm việc rất nghiêm túc.
Nếu người lãnh đạo không cam kết với “nhiệm kỳ”, “nhiệm vụ”, “nghị quyết” mà cam kết với di sản của mình - việc mình được nhớ đến trong lòng nhân dân thế nào - chắc những quyết sách sẽ được cân nhắc cẩn thận hơn.
Nếu tất cả các quan chức đều nghĩ rằng, luật pháp là công cụ điều chỉnh hành vi xã hội, họ sẽ củng cố hoàn thiện chính sách, tận tâm với công việc, không ràng buộc, quản lý xã hội bằng những cam kết để đổ tội hết cho dân, trói dân bằng thứ công cụ chỉ trên những nguyên tắc đúng ra chỉ là những thỏa thuận.
PHẦN 17.
SỰ THẬT CỦA ĐẠO ĐỨC, VĂN MINH.
Tính từ năm 1945 cho đến nay, họ đã cầm quyền được 79 năm, muốn thấy rõ sự thật của đạo đức văn minh như thế nào chỉ cần xem xét một thứ đó là lịch sử của các lần sửa đổi Hiến pháp.
Nghiên cứu lịch sử Hiến pháp của hai nước có nền kinh tế phát triển và được cho là xã hội văn minh nhất thế giới là Nhật Bản và Mỹ cho thấy vai trò của Hiến pháp đã thay đổi số phận dân tộc họ như thế nào.
Trước năm 1945 Nhật Bản có Hiến pháp Minh Trị 1889, đây là bản Hiến pháp đầu tiên của Châu Á, mục đích đưa Nhật Bản trở thành một đế quốc hùng mạnh.
Để soạn thảo Hiến pháp, năm 1882 Thiên Hoàng Minh Trị đã cử một phái đoàn do Ito Hỉobumi sang châu Âu tham khảo hiến pháp của các gia này. Cuối cùng họ đã chọn hiến pháp của đế quốc Phổ làm khuôn mẫu.
Theo đó Thiên Hoàng Minh Trị là người bạn bố Hiến pháp Minh Trị. Lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản Hiến pháp quy định rõ giới hạn quyền hành pháp của Thiên Hoàng, dù Thiên Hoàng là biểu tượng tuyệt đối bất khả xâm phạm, nhưng không phải là ông vua phong kiến.
Hiến Pháp đồng thời quy định cơ quan tư pháp độc lập với cơ quan hành pháp và lập pháp.
Cùng với cải cách sâu rộng, và với bản Hiến pháp mang tính dân chủ hơn Nhật Bản đã phát triển như vũ bão, trở thành một đế quốc hùng mạnh.
Nhưng Hiến pháp Minh Trị vẫn chưa triệt để, quyền lực vẫn nằm trong tay Thiên Hoàng đã biến nước Nhật trở thành một đế quốc xâm lược, lấy chủ nghĩa bá quyền để mở rộng bờ cõi chiếm đoạt tài nguyên của các quốc gia lân bang đã khiến Nhật Bản phải chịu một thất bại cay đắng trước Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Năm 1946 sau khi Nhật Bản đầu hàng đồng minh để thực hiện việc dân chủ hoá Nhật Bản theo tinh thần hội nghị Potsdam Nhật Bản tiến hành sửa đổi Hiến pháp, nhưng Mỹ cho là “bình mới nhưng vẫn rượu cũ pha lại”.
Và Douglas MacArthur đã ra lệnh cho văn phòng của mình tự soạn thảo Hiến pháp mới cho Nhật Bản.
Trong bản Hiến pháp do Mỹ đưa ra Nhật Hoàng được coi là biểu tượng của nhà nước và sự đoàn kết toàn dân, song bị tước bỏ thực quyền.
Một cấu trúc lập pháp lưỡng viện hình thành giống như ở Mỹ, đặc biệt trong Chương II chỉ vẻn vẹn có một điều khoản Điều 9 - chỉ rõ nhân dân Nhật Bản “Vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh khỏi chủ quyền quốc gia, Vĩnh viễn không sử dụng vũ lực hay đe dọa bằng vũ lực khi giải quyết các tranh chấp quốc tế”.
Mùa thu 1946 đại đa số nhân dân Nhật Bản đã bỏ phiếu ủng hộ bản Hiến pháp mới.
Trải qua đúng gần 80 năm bản Hiến pháp này vẫn gần như giữ nguyên tính toàn vẹn của nó.
Với Hiến pháp của nước Mỹ, nó ra đời còn lâu hơn vào năm 1788 và có hiệu lực vào năm 1789, tức là đã hơn 300 năm và là bản Hiến pháp duy nhất tồn tại đến bây giờ còn giữ nguyên được những giá trị cốt lõi, không bị sưa đổi đó là cấu trúc “tam quyền phân lập giữa ba nhánh lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Tổng thống), tư pháp (Toà án).
Trong Hiến pháp của Mỹ không có một dòng nào ghi “Quyền lực thuộc về nhân dân” nhưng ghi rất cụ thể về các quyền cơ bản của con người.
Dù đã hơn 300 năm bản Hiến pháp này mới được tu chính 27 lần trong đó có 10 lần tu chính về các quyền tự do cơ bản của công dân ngày càng mở rộng được đề xuất vào cùng một ngày là ngày 25/9/1789.
Và cho đến nay nó là bản Hiến pháp ít bị sửa đổi nhất trên thế giới.
Ở Việt Nam thì sao?
Theo dòng lịch sử lập hiến của nước ta, kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay, nước ta đã có 05 bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001), Hiến pháp năm 2013.
Cùng với sự sửa đổi Hiến pháp 5 lần chỉ trong vòng gần 80 năm Luật đất đai theo nó cũng phải sửa đổi liên tục.
Không kể giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1987 Luật đất đai chưa ra đời, tính từ năm 1988 đến năm 1993:
Thực hiện theo Luật Đất đai 87; Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003: Thực hiện theo Luật Đất đai 93; Luật Đất đai 2003, Luật đất đai 2013 và sắp tới thực hiện Luật đất đai 2023.
Họ sửa đổi những nội dung gì trong Hiến Pháp mà sửa đổi nhiều thế?
Lần theo các bản Hiến pháp sửa đổi qua các thời kỳ thì nội dung quan trọng nhất liên quan đến quyền lực và đất đai bị sửa đổi nhiều nhất.
Về quyền lực của nhân dân ngày càng bị thu hẹp, quyền lực của đảng ngày càng tăng lên.
Hiến Pháp 1946 tuyệt nhiên không nói đến quyền lực của đảng.
Điều 4 trong Hiến pháp 1959 ghi quyền lực thuộc về nhân dân.
Bắt đầu từ Hiến pháp 1980 và các bản Hiến pháp sau điều 4 trong Hiến pháp 1959 được thay thế bằng cụm từ “Đảng cộng sản là lực duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội…”
Về vấn đề đất đai:
- Hiến pháp 1946, Điều 12 “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm..”
Lúc ấy đất đai của tư nhân vẫn chưa bị quốc hữu hoá.
- Hiến pháp 1959, mặc dù ghi:
Điều 11:
Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc.
Điều 12:
Kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu của toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên.
Các hầm mỏ, sông ngòi, và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của toàn dân.
Thực tế cải cách ruộng đất 1953- 1956 đất đai của địa chủ, tư sản đã bị tịch thu chia cho dân nghèo, nhưng nhà nước lại thu lại để đưa vào hợp tác xã, nông trường…
Nhưng chưa đặt vấn đề đất đai do nhà nước làm chủ sở hữu, quản lý.
- Hiến pháp 1980:
4 hình thức sở hữu đất đai (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người lao động riêng lẻ, sở hữu của nhà tư sản dân tộc) ở Hiến pháp 1959 được gộp làm một, đó là sở hữu toàn dân (Điều 19) do Nhà nước thống nhất quản lý.
Căn cứ vào Hiến pháp 1980, năm 1987 Luật đất đai đầu tiên ra đời và từ đó sửa đổi 6 lần nhưng vẫn trên nguyên tắc tại điều 19 của Hiến pháp 1980 cho đến nay.
KẾT LUẬN:
Trong khi Mỹ và Nhật Bản không phải sửa đổi Hiến pháp nhiều lần, và có sửa đổi thì theo hướng bảo vệ, tăng cường, củng cố các quyền công dân, quyền lực nhà nước bị nhân dân giám sát thông qua xã hội được dân chủ hoá cụ thể bằng các quyền biểu tình, tự do ngôn luận, báo chí, bằng tranh cử, bầu cử… các quyền sở hữu tài sản, đất đai của mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội được bảo vệ, thì ở Việt Nam đang càng ngày càng ngược lại.
Hỏi đạo đức văn minh nó ở chỗ nào, Hiến pháp được cụ thể hoá bằng Luật cho ai?
Dân giàu, nước mạnh vẫn chỉ là khẩu hiệu, và mãi mãi chỉ là thứ bánh vẽ không bao giờ thành hiện thực.
(Còn tiếp)
PHẦN 18.
BI KỊCH TRONG CHỐN QUAN TRƯỜNG.
Quá trình cải cách mở cửa đã tạo ra những tỉnh, thành phố phát triển vượt lên.
Bình Dương, Khánh Hoà, Bắc Ninh, Vĩnh phúc, Hải Dương, Quảng Ninh, Hải phòng… trở thành những trung tâm kinh tế trọng điểm nhưng bóng ma của tội ác và bi kịch cũng dìm các quan chức hàng đầu vào vòng lao lý của chế độ mà họ suốt đời tự hào là những kẻ trung thành tuyệt đối.
Nguyên nhân nào đã đẩy 100% các quan chức hàng đầu của các địa phương đi đến bi kịch này?
Sự trung thành tuyệt đối được thể hiện rất rõ, rất cụ thể với chế độ kể từ khi họ chập chững bước chân vào môi trường quyền lực.
Và trong môi trường quyền lực họ đã không trưởng thành như những gì họ đã tuyên thề, không những thế đã biến họ thành những kẻ cặn bạ.
Có phải môi trường quyền lực chứa đựng đầy những thứ rác rưởi của sự dối trá, đạo đức giả đã dìu dắt họ đến bi kịch từ chính những đồng chí của mình - Địa vị càng cao, càng dối trá, đạo đức giả - dối trá đạo đức giả là bình phong để thực hiện những tham vọng quyền lực, bịp bợm mục đích cuối cùng cũng chỉ thu vén cho cá nhân.
Trong một nhà nước chuyên quyền, khi cấp trên giao quyền lực chính là giao tiền, giao tài sản, đất đai của quốc gia cho anh và người kiểm soát anh cũng là những đồng chí trao cho anh quyền lực.
Những đồng chí này đã tin tưởng anh, lựa chọn anh theo những quy trình rất bài bản, chu đáo, chỉ đạo tỉ mỉ, chặt chẽ; tiến hành nghiêm túc, thận trọng; làm đến đâu chắc đến đó, tại sao xác suất lọt lưới đến 100% như thế.
Họ giao tiền, giao tài sản, đất đai cho anh nhưng họ kiểm soát anh bằng một thứ luật pháp do họ kiểm soát nốt.
Thứ luật pháp chỉ duy nhất họ có quyền được ban bố, điều chỉnh, sửa đổi - nó lỏng lẻo như một thứ cạm bẫy đánh vào lòng tham của các anh để các anh phải gặm vào. Bi kịch của các anh chính là thấy nó ngon quá, tin tưởng vào tổ chức, tình đồng chí cao cả.
Các anh chỉ thấy nó lỏng lẻo là cơ hội, không hề nghĩ nó là cạm bẫy.
Tình đồng chí cao cả không thể để có chuyện các anh ăn ngập mồm, ngập miệng, ngang nhiên xây dựng biệt phủ, ăn chơi lộng hành như thế, rồi mới thịt.
Không thể để đồng chí của mình tự diễn biến, tự chuyển hoá thành thứ cặn bạ rồi vứt vào lò thiêu đốt - Đây có phải là đạo đức, và nhân văn?
Các anh tin tưởng vào cái gì mà dám ngang nhiên xây biệt phủ, ăn chơi xa đọa, do pháp luật lỏng lẻo? Điều này hoàn toàn không đúng, có anh nào thoát được đâu mà bảo là lỏng lẻo.
Cái các anh tin là sự có đi có lại, nó được gắn chặt bởi những thứ nghĩa vụ vật chất với cấp trên, lãnh đạo, không phải thứ tình đồng chí cao cả vì nước vì dân như tuyên thệ.
Đạo đức giả, dối trá chính là những kẻ ném đá giấu tay, là lá mặt lá trái với nhau, đó chính là thứ bi kịch của một tổ chức có quyền lực tuyệt đối rồi giả hiệu vẽ lên một thiên đường không tưởng, tự hể hả chia trác quyền lợi với nhau bằng một thứ chủ thuyết đầy tính mơ hồ ràng buộc nhau, và khi lòng tham không thể kiềm soát sẽ đến dùng mọi thủ đoạn cắn xé nhau.
Người ta nói “phải nhốt quyền lực trong cái lồng” nói thế để tỏ ra có lý luận, thực chất lòng tham là thứ cần được kiểm soát, khi lòng tham không bị kiểm soát vẫn ngang nhiên tồn tại, thì đấy chính là sự tha hoá quyền lực. Vì thế mới có câu “quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hoá tuyệt đối”
Sự tha hoá tuyệt đối chính là dối trá, đạo đức giả, nó đang thể hiện một cách công khai bằng những bài thuyết giáo dài dằng dặc, đọc ê a khiến người ta phải tởm lợm.
Dối trá đạo đức giả với chính đồng chí của mình.
Salami là một loại xúc xích làm bằng thịt bò hay heo được cắt thành những lát mỏng để ăn. Khi dùng trong chính trị học, “Chiến Thuật Xúc Xích” (Salami Tactics) là một chiến thuật nhằm chẻ mỏng đối phương để dễ bề lần lượt tiêu diệt toàn bộ.
Chiến thuật này được các đảng Cộng sản (CS) áp dụng trong các giai đoạn tranh chấp chính trị tại Ba Lan và Hungary sau Thế Chiến Thứ Hai, trong đó các đảng CS Đông Âu dưới sự ủng hộ tích cực của Liên Xô đã từng bước loại các thành phần không CS ra khỏi guồng máy lãnh đạo quốc gia.
Thuật ngữ chính trị “Chiến Thuật Xúc Xích” (Salami Tactics) đầu tiên được lãnh tụ CS Hungary Mátyás Rákosi dùng để mô tả cách ông ta loại bỏ các thành phần không CS cuối thập niên 1940.
Tuy nhiên, Rákosi không phải là người đầu tiên áp dụng “Chiến Thuật Xúc Xích” mà trước đó, Hitler đã áp dụng tại Châu Âu để từng bước chiếm đoạt những vùng chiến lược và quốc gia đầu cầu quan trọng trước khi phát động Thế Chiến Thứ Hai.
Đặng Tiểu Bình và các lãnh tụ Trung Cộng tránh đương đầu trực tiếp với các cường quốc, nhất là Mỹ, nên đã áp dụng "Chiến Thuật Xúc Xích" để từng bước gặm nhắm hết Biển Đông của Việt Nam bằng các phương pháp dã man, hèn hạ và bẩn thỉu.
Gạc Ma, Vành Khăn, Chữ Thập, Tư Chính chỉ là một điểm nhỏ khác trong tiến trình thực hiện chính sách bành trướng của Tập Cận Bình trên toàn bộ Biển Đông.
Tiến trình bành trướng của Trung Cộng trên lãnh thổ Việt Nam từ các vùng phía Bắc như Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn đến Biển Đông được đáp ứng bằng một chuỗi dài im lặng của đảng CSVN và các lãnh đạo thế giới.
Lịch sử nhân loại chứng minh, chìm trong đáy hồ sâu im lặng của các lãnh đạo các nước tự do là máu của hàng trăm triệu người vô tội, trong đó có nhiều triệu người Việt cả hai miền Nam Bắc.
Đọc lại bài học của Hitler để nhận ra bản chất của Tập Cận Bình.
Sách vở về Thế Chiến Thứ Hai còn đang nằm trên giá sách của Barnes & Noble.
- Tháng 3-1935, Hitler vi phạm hiệp ước Versailles khi đơn phương xóa bỏ “status quo” (tình trạng hiện hữu) của vùng kỹ nghệ Saar Basin đang trực thuộc quyền cai quản của Anh Pháp và sáp nhập lãnh thổ này vào Đức. Anh Pháp coi như không biết.
- Tháng 3-1936, Hitler đưa quân chiếm đóng khu phi quân sự Rhineland. Anh và Pháp có quyền được quy định trong hiệp ước Versailles để giải giới hay đánh bật quân Hitler ra khỏi vùng Rhineland. Anh Pháp ngồi yên.
- Tháng 3-1938, bằng những xúi giục chính trị từ bên trong Áo và áp lực quân sự bên ngoài biên giới Áo, Hitler đã hoàn thành dự tính chiếm Áo mà y đã viết trong Mein Kampf 1925 không tốn một viên đạn. Anh Pháp làm ngơ.
- Tháng 9-1938, Hitler công khai bày tỏ ý định sáp nhập vùng Sudetenland có đông dân Đức, có nguồn dự trữ nguyên liệu lớn của Tiệp Khắc và dùng khu vực giàu có này làm bàn đạp thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc. Anh Pháp nhân nhượng.
- Tháng 3-1939 lợi dụng sự suy yếu trầm trọng của chính phủ Tiệp và đất nước này bị các nước Ba Lan, Hung xâm lấn, Hitler xua quân chiếm toàn bộ nước Cộng Hòa Tiệp Khắc vốn là một cường quốc của châu Âu. Anh Pháp buông xuôi.
Nếu bất cứ vi phạm nào trong các vi phạm vừa nêu trên của Hitler, hai liên minh Anh-Pháp và Pháp-Tiệp phản ứng một cách quyết liệt, hàng trăm triệu người đã không chết.
Nhưng Pháp đã không giữ cam kết với người bạn lâu năm Tiệp Khắc (Treaty of Alliance 1924 giữa Pháp và Tiệp có giá trị không giới hạn thời gian) và Anh lẫn Pháp đều làm ngơ khi Hitler ráo riết tái vũ trang.
Giả thiết tham vọng của Hitler không điên cuồng mà có giới hạn và biết dừng chân sau mỗi lần chinh phục. Thay vì tấn công Ba Lan để đẩy thế giới vào lò lửa Thế Chiến Thứ Hai vào đầu tháng 9-1939, Hitler sau khi thu lại cả vốn lẫn lời về lãnh thổ Đức bị tước đoạt trong hiệp ước Versailles, chọn dừng lại mười năm để củng cố đế quốc Đức mới mênh mông, xóa bỏ mọi tàn tích văn hóa lịch sử của các dân tộc bị chiếm, tăng cường kỹ nghệ quốc phòng và kỹ thuật chiến tranh thì khuôn mặt thế giới sẽ ra sao vào mười năm sau, tức năm 1949?
Thế Chiến Thứ Hai vẫn có thể bùng nổ mười năm sau đó nhưng đồng minh sẽ không chỉ cần sáu năm để chiếm Berlin, mà có thể rất lâu và nhân loại không chỉ chết 85 triệu hay 3% trong tổng số 2,3 tỉ người, mà có thể vài trăm triệu mới đánh bại được Đế Quốc Đức.
Nhân loại đang đối phó với một Hitler khác, lần này ở Á châu và có tên là Tập Cận Bình.
Adolf Hitler và Tập Cận Bình có những điểm giống nhau về tham vọng lãnh thổ, độc quyền toàn trị, dã man, tôn thờ cá nhân, tuyên truyền và khủng bố.
Điểm khác duy nhất giữa Hitler và các lãnh tụ CS Trung Quốc là cách áp dụng chính sách bành trướng.
Thay vì chiếm toàn bộ Trường Sa như Hitler đã làm đối với Áo và Tiệp, Trung Cộng gặm nhấm từng phần của quần đảo giàu tài nguyên thiên nhiên này cho đến hết.
Thay vì quốc hữu hóa toàn bộ Biển Đông một cách nhanh chóng như Hitler đã làm đối với hai khu kỹ nghệ Saar Basin và Rhineland, Tập Cận Bình vẫn để cho tàu bè các nước qua lại nhưng cùng lúc quân sự hóa từng khu vực qua việc xây dựng ít nhất bảy đảo nhân tạo trên Biển Đông.
Tâp Cận Bình tin rằng, đến một thời điểm thuận tiện, hải quân Trung Cộng đóng cửa và Biển Đông sẽ là một Venice của Trung Cộng.
Câu hỏi được đặt ra, Trường Sa của Việt Nam là chặng dừng chân nào trong bản đồ chinh phục đầy tham vọng của Tập? Là Saar Basin? Là Rhineland? Là Áo? Là Sudetenland? Là Tiệp Khắc? Là Ba Lan?
Biết chặng đường nào rất cần thiết vì qua đó đo lường phản ứng của quốc tế. Có chặng họ sẽ làm ngơ. Có chặng họ sẽ nhượng bộ. Có chặng họ sẽ buông xuôi và có chặng buộc quốc tế phải can thiệp võ trang.
Tranh chấp quốc tế cũng đơn giản như nấu một nồi nước. Những mâu thuẫn giữa Mỹ và đồng minh của Mỹ với Trung Cộng vẫn còn trong giai đoạn đầu và còn lâu để nồi nước Biển Đông sôi sục.
Trong giai đoạn từ năm 1933 đến khi thế chiến thứ hai bùng nổ, liên minh Anh, Pháp, Tiệp cũng nhiều lần biểu dương lực lượng qua các cuộc điều binh và tăng cường phòng thủ. Tuy nhiên, những hành động đó chỉ để hỗ trợ cho đàm phán chứ không phải để tấn công. Hitler biết rõ điều đó và tiếp tục chính sách bành trướng bằng quân sự.
Lịch sử đang tái diễn. Những căng thẳng ở Biển Đông sẽ ngày càng tăng cường độ nhưng còn lâu mũi tên mới rời khỏi dây cung của Mỹ.
Số phận Trường Sa của Việt Nam hôm nay, vì thế, có thể sẽ giống như các lãnh thổ, các quốc gia bị Hitler và Stalin chiếm đoạt trước tháng 9-1939.
Học các bài học thế giới để thấy, cuối cùng, sẽ không ai cứu Việt Nam ngoài chính người Việt Nam.
PHẦN 19
VĂN HOÁ QUAN TRƯỜNG.
Văn hoá quyết định số phận dân tộc.
Chế độ nào văn hoá ấy.
Trong chế độ chuyên quyền, chuyên chế dù là một kẻ độc tài nắm quyền lực, hay nhóm người nắm quyền lực thông qua một tổ chức đều xây dựng hệ thống quyền lực do các quan lại đại diện cho từng ngành, địa phương quản lý và quyết định các hoạt động của xã hội, từ đó văn hoá quan trường sẽ điều khiển dẫn dắt văn hoá quốc gia, dân tộc.
Các cuộc cách mạng tư sản đánh đổ giai cấp chuyên chế, (các nhà nước phong kiến) xây dựng nhà nước dân chủ, văn hoá trở về với nhân dân, nhân dân ở đây bao gồm cả các hoàng gia.
Các hoàng gia bị tước bỏ quyền lực nhưng để kế thừa văn hoá truyền thống, họ vẫn để các hoàng gia tồn tại đại diện với tính chất nghi lễ quốc gia- Hoàng gia không còn quyền lực nhưng văn hoá hoàng gia vẫn được coi là văn hoá tinh hoa để người dân lấy đấy là tấm gương - Nhà nước Quân chủ Lập hiến hình thành.
Đại diện cho các gia “Quân chủ lập hiến” có thể kể đến nước Anh, Nhật Bản, Bắc Âu… nơi chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm.
Ở Mỹ lại theo một hướng khác.
Nước Mỹ trước năm 1492 khi Cristoforo Colombo chưa khám phá ra mảnh đất của những bộ tộc bản địa sinh sống, văn hoá còn rất sơ khai, chưa hình thành nhà nước nên văn hoá quan trường vẫn chưa hình thành.
Các quốc gia phong kiến ở châu Âu đến Mỹ và biến nước Mỹ thành thuộc địa.
Nước Anh có vẻ nhanh chân hơn nước Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan…
Vào thập niên 1770, Mười ba thuộc địa Anh thuộc có đến 2 triệu rưỡi người sinh sống.
Các thuộc địa này thịnh vượng và phát triển nhanh chóng, phát triển các hệ thống pháp lý và chính trị tự chủ của chính mình.
Nghị viện Anh Quốc áp đặt quyền lực của mình đối với các thuộc địa này bằng cách đặt ra các thứ thuế mới mà người Mỹ cho rằng là vi hiến bởi vì họ không có đại diện của mình trong nghị viện.
Các cuộc xung đột ngày càng nhiều đã biến thành cuộc chiến tranh toàn lực, bắt đầu vào tháng 4 năm 1775. Ngày 4 tháng 7 năm 1776, các thuộc địa tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh bằng một văn kiện do Thomas Jefferson viết ra và trở thành Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Cho nên nhà nước Hoa Kỳ không thể hình thành theo hình thức “quân chủ lập hiến”.
Một nước Mỹ hợp chủng quốc bao gồm người bản địa, người nhập cư từ các quốc gia đến Mỹ khai thác thuộc địa hình thành.
Văn hoá Mỹ được hình thành từ Tôn giáo quốc dân, không bị dẫn dắt bởi thứ văn hoá tinh hoa truyền thống của các chế độ quân chủ từ nghìn năm như ở các gia Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản…
Cách mạng Mỹ là nguồn động lực chính của tôn giáo quốc dân Mỹ không chia giáo phái mà đã tạo hình cho chủ nghĩa yêu nước, ký ức và ý nghĩa ngày sinh của quốc gia kể từ đó.
Các trận chiến không phải là trọng tâm nhưng đúng hơn là các sự kiện và con người đã được chào mừng như những biểu tượng của một số đức tin nào đó.
Các sử gia đã ghi nhận, cuộc cách mạng Mỹ đã sản sinh ra một lãnh tụ được ví như là Moses (George Washington), các nhà tiên tri (Thomas Jefferson, Tom Paine) và các thánh tử đạo (Boston Massacre, Nathan Hale) cũng như những ác quỷ (Benedict Arnold), những nơi thiêng liêng (Valley Forge, Bunker Hill), giáo lý (Tiệc trà Boston), biểu trưng (lá cờ mới), ngày lễ thiêng liêng (4 tháng 7) và một cuốn kinh thánh mà mỗi câu được nghiên cứu và áp dụng cẩn thận vào các trường hợp pháp lý hiện thời (bản Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp và Đạo luật Nhân quyền).
Nước Mỹ vĩ đại vì văn hoá Mỹ không bị ảnh hưởng của văn hoá quan trường, linh hồn dẫn dắt văn hoá Mỹ chính là tôn giáo sự cống hiến… với một hiến pháp được lấy từ lời thề trong kinh thánh được soạn ra.
Sự sụp đổ của các nhà nước chuyên chế là quy luật tất yếu sau các cuộc cách mạng:
Trong khi các cuộc cách mạng ở phương Tây được dẫn dắt và lãnh đạo bởi giới tư sản những người đại diện cho một hình thức “Quan hệ xã hội” mới tiên tiến, nhưng cũng đồng thời là người cầm “lực lượng sản xuất” thành lập, nên các nhà nước dân chủ với hệ thống “tam quyền phân lực” quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thông qua lá phiếu.
Văn hoá của các gia này vẫn được giữ nguyên như truyền thống khi các tôn giáo, và hoàng gia vẫn được hiến pháp bảo vệ theo nguyên trạng.
Các quan lại với tư cách là các quan chức trong chính phủ đúng nghĩa với tư cách là “đầy tớ nhân dân” sống với văn hoá của nhân dân, nên văn hoá quan trường đã bị loại trong ngôn ngữ xã hội, không còn tồn tại nữa.
Phần còn lại, các cuộc cách mạng đánh đổ thành trì của nhà nước phong kiến được lãnh đạo bởi giai cấp vô sản - Những kẻ đại diện cho tầng lớp dưới trắng tay, với lực lượng sản xuất bằng con số không, trang bị bằng một học thuyết cách mạng lấy bạo lực giải quyết tất cả các quan hệ xã hội, tiêu diệt sạch các giá trị về tôn giáo, văn hoá có liên quan đến chế độ cũ, cướp đoạt, chiếm đoạt tài sản của của các địa chủ, nhà tư sản…
Họ xoá sạch để xây dựng nhà nước công nông với một hình thái nhà nước mới, quyền lực nhà nước rơi vào tay một chính đảng duy nhất độc tôn lãnh đạo.
Và cũng từ đây họ xây dựng một nền văn hoá mới phục vụ cho chế độ.
Một chính đảng dẫn dắt thì “văn hoá đảng” sẽ trở thành chính thống, và đảng viên cầm quyền theo văn hoá đảng sẽ tạo ra một thứ văn hoá quan trường mang tính đảng dẫn dắt dân tộc. Và thuật ngữ “Văn hoá quan trường” với đầy đủ tính chất của nó ra đời từ các quốc gia này.
Bản chất và tính chất nguy hiểm của văn hoá quan trường ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia như thế nào xin đọc tiếp ở các phần sau.
(Còn tiếp).
PHẦN 20
VĂN HOÁ QUAN TRƯỜNG.
Các chức sắc trong chính quyền do người dân lựa chọn có hai nguyên tắc để anh tồn tại.
Nếu anh làm việc không đúng những gì đã hứa, người dân đã nâng anh lên, thì cũng hạ được anh xuống.
Và cách còn lại tự anh được quyết định đó là từ chức.
Cho nên “văn hoá từ chức” là thứ văn hoá được đề cao nhất của những người trong chốn quan trường.
Văn hoá từ chức trở thành một nếp sống bình thường ở các nước dân chủ, anh là một quan chức nhưng cũng là một con người, sai phải biết xin lỗi, không làm được việc phải tự rút lui, để cho người dân kéo cổ xuống dĩ nhiên là một điều xỉ nhục.
Còn những quốc gia chuyên quyền văn hoá từ chức trở thành điều xa xỉ, từ chức bị cho là thất bại, và thất bại trong chốn quan trường được coi là sự nhục nhã- là nguyên nhân cho họ cố sống cố chết bám ghế quyền lực.
Và thứ văn hoá “ngồi thối ghế” trở thành thứ đặc sản của những quốc gia này. Chức vụ càng cao càng tham quyền cố vị.
Ở Liên Xô tuổi các Uỷ Viên Bộ chính trị có tuổi trung bình trên 70 vào thời kỳ Leonid Brezhnev làm Tổng bí thư (1964) sau khi đưa điều 25 vào điều lệ đảng “Trong việc bầu cử tất cả các cơ sở đảng, từ tổ chức đảng sơ cấp đến Ban Chấp hành Trung ương phải tuân thủ nguyên tắc thay thế nhân sự một một cách có hệ thống và tính liên tục của vai trò lãnh đạo” .
Điều 25 vẫn không thay đổi dưới sự lãnh đạo kế tiếp của của các tổng bí thư Yury Andropov, Konstantin Chernenko và hai ông này vẫn nắm quyền cho đến khi chết.
Mỗi lần họp Bộ chính trị không khác gì một bệnh viện. Xung quanh phòng họp là các phòng cấp cứu, phòng hồi sức với các máy móc thiết bị y tế cùng một đám bác sĩ, nhân viên y tế túc trực.
Sự tham quyền cố vị này là một trong những nguyên nhân để Liên Xô rơi vào trì trệ dẫn đến sự sụp đổ.
Căn bệnh tham quyền cố vị trở thành một đặc trưng của các chế độ cộng sản cầm quyền, Mao Trạch Đông, Phidel Castro, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành… đều giữ các chức vụ cao nhất trong đảng, nhà nước đến khi qua đời.
Văn hoá tham quyền cố vị từ những lãnh đạo cao nhất trở thành tấm gương học tập cho các cán bộ Đảng viên cấp dưới, không ai dạy bảo được ai, cấp trên không thể kỷ luật được cấp dưới.
Hỏi tại sao phải cố bám ghế quyền lực, vì ngoài chiếc ghế quan trường, chủ nghĩa cộng sản không có động lực nào tạo ra cho con người có thể giàu có, thịnh vượng.
Quyền lực đi đôi với quyền lợi chính trị, quyền lợi vật chất.
Có quyền lực là có quyền phân chia, quyền chiếm hữu, quyền định đoạt, quyền sở hữu.
Muốn bước chân vào hệ thống quyền lực trước tiên phải trở thành một đảng viên.
Là đảng viên phải phục tùng tổ chức, phục vụ lãnh đạo.
Một đảng cầm quyền lực trong tay và duy nhất lãnh đạo văn hoá quan trường sẽ trở thành thứ văn hoá quyền lực.
Văn hoá quyền lực là văn hoá ứng xử của cấp trên với cấp dưới đó là mảnh đất màu mỡ cho văn hoá mệnh lệnh, văn hoá ban ơn, văn hoá xu nịnh, văn hoá lá mặt lá trái… phát triển.
Ông bí thư, ông chủ tịch thích cầu lông, hay bóng bàn, bóng chuyền… các quan chức trong cả tỉnh cùng a dua chơi cầu lông, bóng bàn… tỉnh nghèo dân đói vẫn bỏ tiền xây nhà thi đấu cho các quan chức tránh nắng, tránh mưa ra sân để đàn đúm thể hiện sự đoàn kết nhất trí, trung thành… anh nào ốm cũng phải vác mặt đến.
Văn hoá xu nịnh trở thành đặc trưng, thuộc tính - bằng cấp gì cũng không ăn thua nếu thiếu cái “bằng lòng” trở thành văn hoá sống trong bộ máy quan trường.
Khổ nhất là sếp thích uống rượu, theo hầu sếp uống rượu thâu đêm suốt sáng, cho chó ăn chè, nuốt không trôi vẫn cố mà nuốt.
Đàn em học theo sếp nhà bình to, bình nhỏ, con gì, cây gì quý trên rừng dưới bể ngâm hết, uống tuốt, khoe nhau, tặng nhau, biếu nhau … thể hiện quyền lực, sành điệu…
Không những trở thành lũ nát rượu, quan lớn quan bé trở thành những tấm gương, tiếp tay cho việc tuyệt chủng động vật hoang dã quý hiếm… và cuối cùng đưa nhau xuống hố càng nhanh của bệnh tật.
Trong chốn quan trường không có xu nịnh suông, nó đội lốt văn hoá truyền thống che mắt thiên hạ để đút lót, hối lộ.
Ma chay, đám cưới, đám giỗ, sinh nhật, khánh thành… thậm chí rình sếp có cái gì mới đàn em đệ tử có cớ để mừng, để chia sẻ nỗi buồn với sếp bằng phong bao, quà tặng.
Nhà sếp có việc, đệ tử, đối tác vòng trong vòng ngoài xếp hàng ngóng chờ nhau để được gặp mặt sếp… mâm trên, mâm dưới đầy tiếng xu nịnh, tâng bốc lẫn nhau nhân danh đạo lý, đạo đức, văn hoá truyền thống để tụ tập biểu dương lực lượng, khoe giàu, khoe sang, khoe thành đạt, khoe quyền lực, hợm hĩnh với thiên hạ.
“Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh.
Rụng rời khủng cửa, tan tành khói mây.
Đồ tế nhuyễn của Giang Tây.
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham..”
Nguyễn Du phán rằng, 300 năm nữa người đời sẽ nhớ đến ông, quả là một tiên tri thiên tài, lịch sử của một thời “đầu trâu mặt ngựa, ào ào như sôi” đã quay trở lại.
(Còn tiếp)
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.