Một cuộc chiến đẫm máu nhất lịch sử đă xảy ra tại New Zealand. Cuộc chiến khủng khiếp này đă làm dân số nược này vơi hẳn đi. Cuocj chiến đẫm máu xảy ra trong giai đoạn năm 1818 đến đầu những năm 1830, hàng chục ngàn người Maori bị sát hại trong cuộc xung đột đẫm máu nhất lịch sử New Zealand mà người ta gọi là cuộc chiến súng hỏa mai.
Súng hỏa mai đă làm thay đổi hoàn toàn người bộ tộc Maori ở New Zealand.
Theo Nz History, người ta thường nhắc đến cuộc chiến giữa các bộ lạc ở New Zealand là cuộc chiến đẫm máu nhất lịch sử vùng đất này, hơn cả 18.000 người chết trong Thế chiến 1.
Ở thời điểm mà dân số New Zealand chỉ có khoảng 100.000 người, cuộc chiến súng hỏa mai rơ ràng đă tạo nên ảnh hưởng lớn với vùng đất này.
Những cuộc xung đột trong giai đoạn 1807-1830 giữa các bộ tộc Maori đă khiến khoảng 20.000 người trong tổng số 100.000 thổ dân thiệt mạng, 20.000 người khác bị bắt làm nô lệ. Nổi bật trong giai đoạn này là sự xuất hiện của súng hỏa mai vào năm 1818.
Xung đột ban đầu bùng phát giữa hai bộ lạc Ngāpuhi và Ngāti Whātua. Cuối cùng, tất cả các bộ tộc người Maori đều sở hữu súng hỏa mai. Trong thời kỳ này, New Zealand chưa bị người phương Tây nḥm ngó.
Những khẩu súng hỏa mai đầu tiên du nhập đến New Zealand tỏ ra không hiệu quả và nạp đạn chậm. Các chiến binh Maori trang bị chùy đă chiến đấu hiệu quả hơn hẳn. Nhưng đến khi bộ lạc Ngāpuhi sử dụng súng hỏa mai, mọi chuyện đă sang một trang mới.
Chỉ trong ṿng 3 năm, từ năm 1818-1821, thủ lĩnh bộ lạc Ngāpuhi, Hongi Hika đă có được 300 khẩu súng từ phương Tây, tạo nên một đội quân đáng gờm.
Người bộ tộc Maori trang bị súng hỏa mai.
Câu chuyện bắt nguồn từ chuyến đi đến Anh của Hongi, gặp vua Geogre IV và được tặng nhiều món quà. Hongi đổi phần lớn số quà để mang về New Zealand hơn 300 khẩu súng hỏa mai.
Trong giai đoạn 1821-1823, Hongi dẫn đầu hàng loạt cuộc tấn công bằng súng hỏa mai nhằm vào các bộ tộc người Maori khác, gây thiệt hại nặng nề cho đối phương và bắt nhiều người làm nô lệ.
Năm 1825, Hongi giành chiến thắng quan trọng trước bộ tộc Ngati Whatua và truy đuổi những người sống sót để trả thù cho những thất bại của ḿnh thời trước khi có súng hỏa mai.
Sức sát thương đáng gờm của súng hỏa mai khiến nhiều bộ tộc Maori khác t́m cách sở hữu chúng. Ưu thế của bộ lạc Ngāpuhi cũng suy giảm khi đối thủ học cách xây dựng những thành lũy kiên cố để chống đạn.
Khó khăn về hậu cần cho những cuộc chinh chiến liên miên khiến xung đột suy giảm vào nửa cuối thập niên 1820. Thủ lĩnh Hongi bị thương nặng và liệt một phần cơ thể sau trận đánh năm 1827 và qua đời vào tháng 3.1828. Sự kiện này chấm dứt những chiến dịch tấn công quy mô lớn.
Điệu nhảy truyền thống của người Maori ở New Zealand.
Việc các bộ lạc được trang bị nhiều súng hỏa mai uy lực cũng khiến họ t́m kiếm giải pháp ngoại giao, thay v́ sa lầy vào xung đột khiến hàng chục ngàn người chết.
Chỉ một thập kỷ sau cuộc chiến đẫm máu của các bộ lạc người Maori, chính quyền thực dân Anh áp đặt ách đô hộ tại New Zealand. Người Maori dù biết cách sử dụng súng hỏa mai, nhưng họ không thể chặn được làn sóng tấn công như vũ băo nhờ vào chiến thuật của người Anh.
Có thể nói, sức sát thương quá lớn của súng hỏa mai đă làm suy giảm nghiêm trọng dân số của người Maori bản địa, đồng thời làm thay đổi ranh giới giữa các bộ tộc.
Cuộc chiến này là ví dụ điển h́nh về hậu quả nguy hiểm khi thổ dân bản địa được tiếp cận với những vũ khí hiện đại của châu Âu, các sử gia phương Tây nhận định.